Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM VÀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.99 KB, 23 trang )

MỤC LỤC


CÁC TỪ VIẾT TẮT
VAS
IAS
IFRS
IASC
FASB
ĐTNN
TTCK

: Chuẩn mực kế toán việt nam
: Chủân mực kế toán quốc tế
: Chuẩn mực báo cáo taì chính quốc tế
: Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế
: Chuẩn mực kế toán tài chính
: Đầu tư nước ngoài
: Thị trường chứng khoán


LỜI MỞ ĐẦU
Đến nay, Việt Nam đã xây dựng và ban hành được 26 chuẩn mực kế toán. Việc
được xây dựng dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế là nhằm đảm bảo hệ thống
chuẩn mực kế toán Việt Nam góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch trong báo
cáo tài chính (BCTC) của các doanh nghiệp, phản ánh được các giao dịch của nền kinh
tế thị trường, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, VAS
hiện mới chỉ là sự vận dụng đơn giản IAS/IFRS trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam,
thực tế VAS chưa hòa hợp với IAS/IFRS và chưa cập nhật theo những thay đổi của
IAS/IFRS những năm gần đây.
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, việc lập báo cáo tài chính theo Chuẩn


mực Báo cáo tài chính quốc tế ("IFRS") ngày càng nhận được sự ủng hộ của các quốc
gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Theo thống kê, có khoảng 131 nước và vùng lãnh
thổ cho phép hoặc bắt buộc áp dụng IFRS khi lập báo cáo tài chính của các công ty
niêm yết trong nước. Ở Châu Âu, 31 nước thành viên và 5 vùng lãnh thổ đã áp dụng
toàn bộ IFRS. Ở Mỹ, thị trường nội địa vẫn nằm ngoài khuôn khổ của IFRS, tuy nhiên
Ủy ban Chứng khoán Mỹ (SEC) đã xác nhận việc đưa IFRS vào các mô hình của Mỹ
được coi là nhiệm vụ ưu tiên.
Tại Việt Nam, Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) bao gồm 26 chuẩn mực,
được xây dựng dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) theo nguyên tắc phù hợp
với đặc điểm nền kinh tế và tình hình các doanh nghiệp tại Việt Nam. Đến nay, lập báo
cáo tài chính theo IFRS đang trở nên ngày càng phổ biến hơn theo yêu cầu của các tập
đoàn mẹ, các bên cho vay cũng như phát sinh từ sự tham gia của các tập đoàn kinh tế
lớn vào thị trường vốn quốc tế. Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng đang trong quá trình ban
hành chuẩn mực mới tiếp cần gần hơn với IFRS. Năm 2014 với việc ban hành Thông
tư số 200/2014/TT-BTC về chế độ kế toán doanh nghiệp thay thế Quyết định số
15/2006 ngày 20/03/2006 và đặc biệt là Thông tư 202/2014/TT-BTC về hướng dẫn lập
báo cáo tài chính hợp nhất đã đưa chế độ kế toán và lập BCTC của Việt Nam tiến lại
gần hơn với các tiêu chuẩn quốc tế trong IAS và IFRS. Theo đó, Thông tư
202/2014/TT-BTC đã căn cứ trên chuẩn mực IAS 27/ IFRS 10 trong việc hạch toán
những thay đổi về tỷ lệ sở hữu của công ty mẹ tại công ty con nhưng vẫn giữ quyền
kiểm soát.

3


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM
VÀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ
1.1 CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM ( VAS)
• Phạm vi và đối tượng áp dụng: Thông tư 214/2012/TT-BTC ban hành hệ thống chuẩn


mực kiểm toán Việt Nam áp dụng đối với doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh
nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam, kiểm toán viên hành nghề và các tổ chức,
cá nhân có liên quan trong quá trình cung cấp dịch vụ kiểm toán độc lập.


Mục đích của Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam: là quy định và hướng dẫn các
nguyên tắc và yêu cầu kế toán, các yếu tố và ghi nhận các yếu tố trên báo cáo tài chính
của doanh nghiệp, nhằm:
+ Làm cơ sở xây dựng và hoàn thiện Chế độ kế toán cụ thể theo khuôn mẫu
thống nhất;
+ Giúp cho doanh nghiệp ghi chép kế toán và lập báo cáo tài chính một cách
thống nhất và xử lý các vấn đề chưa được quy định cụ thể nhằm đảm bảo cho các
thông tin trên báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý;
+ Giúp cho kiểm toán viên đưa ra ý kiến về sự phù hợp của báo cáo tài chính với
chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán;
+ Giúp cho người sử dụng báo cáo tài chính hiểu và đánh giá thông tin tài chính
được lập phù hợp với các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán.



Các nguyên tắc,yêu cầu kế toán: Được quy định cụ thể trong từng chuẩn mực kế toán,
phải được áp dụng đối với mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong phạm
vi cả nước.

1.1.1

Hoàn cảnh ra đời của chuẩn mực kế toán việt nam

4



Là một quốc gia thuộc địa của Pháp trong gần một trăm năm, Việt Nam chịu
ảnh hưởng của Pháp trên nhiều phương diện trong đó có kế toán. Sau năm 1954,
Việt Nam bị chia đôi và ở hai miền, kế toán có những sự phát triển khác nhau. Miền
Bắc chịu ảnh hưởng nhiều của hệ thống kế toán Trung quốc với các chế độ kế toán quy
định cách thức ghi chép các nghiệp vụ cho các đối tượng cụ thể (ví dụ Chế độ kế toán
xí nghiệp công nghiệp và Chế độ kế toán kiến thiết cơ bản được ban hành năm 1957).
Từ năm 1970, Bộ Tài chính bắt đầu đổi mới kế toán theo hướng hệ thống thống nhất
của Liên Xô (cũ) với Hệ thống tài khoản kế toán thống nhất năm 1970 và một loạt các
quy định về chế độ báo cáo kế toán, chế độ ghi chép ban đầu… (Bộ Tài chính, 2001).
Hệ thống kế toán Việt Nam theo hệ thống kế toán Trung quốc thể hiện đối với các hình
thức ghi sổ như Nhật ký chung, Nhật ký sổ cái, Chứng từ ghi sổ và áp dụng theo hệ
thống kế toán Liên Xô (cũ) với các hình thức ghi sổ như Nhật ký chứng từ, Phương
pháp số dư……
Tuy nhiên, quá trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới lại tiếp tục đòi
hỏi những bước cải cách mới trong kế toán. Năm 1995, Việt Nam nộp đơn xin gia
nhập Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) và những chuẩn bị cần thiết cho hệ thống
kế toán Việt Nam được đặt ra cho Bộ Tài chính. Được sự trợ giúp của EU, Việt
Nam bắt đầu triển khai nghiên cứu và soạn thảo các chuẩn mực kế toán Việt Nam từ
năm 1999. Trong gần 7 năm sau đó, cho đến năm 2006, Việt Nam đã ban hành được
26 chuẩn mực kế toán Việt Nam trên nền tảng các chuẩn mực kế toán quốc tế
của IASB. Các chuẩn mực được ban hành từng đợt dưới hình thức một quyết định
của Bộ trưởng Bộ Tài chính, mỗi đợt ban hành chuẩn mực kèm theo một thông
tư hướng dẫn để áp dụng vào hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp theo Quyết định
1141/TC/QĐ/CĐKT.
1.1.2


Cơ chế của chuẩn mực kế toán việt nam
Quy định pháp lý

+ Luật Kế toán là văn bản pháp lý cao nhất là kim chỉ nam cho mọi công tác kế
toán của quốc gia do Quốc hội ban hành. Theo đó, kế toán được xem là công cụ quản
lý, giám sát chặt chẽ mọi hoạt động kinh tế, tài chính đáp ứng yêu cầu tổ chức, quản
lý điều hành của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Điều đó
cũng đồng nghĩa các chuẩn mực kế toán quốc gia, các thông tư hướng dẫn chuẩn mực
kế toán và Chế độ kế toán doanh nghiệp đều phải dựa trên nền tảng các qui định
của Luật Kế toán.
+ Luật Kế toán (2003) được qui định 7 chương với 64 điều bao gồm những qui
định chung, nội dung công tác kế toán, tổ chức bộ máy kế toán và người làm kế
5


toán, hoạt động nghề nghiệp kế toán, quản lý nhà nước về kế toán, khen thưởng, xử lý
vi phạm và các điều khoản thi hành (Quốc hội, 2003).
+ Trong xu hướng Việt Nam hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế, phù hợp
với các cam kết của Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) cũng như định hướng
chiến lược phát triển kế toán đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 của Chính phủ,
Bộ Tài chính đã có dự thảo Luật kế toán sửa đổi, bổ sung. Nội dung sửa đổi, bổ
sung Luật kế toán 2003 gồm 14 vấn đề liên quan đến đối tượng áp dụng, nguyên tắc
kế toán, chuẩn mực kế toán…
• Tổ chức lập qui
+ Tổ chức lập qui của Việt Nam do Bộ Tài chính là cơ quan của Nhà nước có
trách nhiệm trong việc ban hành chuẩn mực kế toán. Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán
là đơn vị thuộc bộ máy quản lý nhà nước của Bộ Tài chính có chức năng giúp
Bộ trưởng Bộ Tài chính thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về kế toán, kiểm
toán độc lập, kiểm toán nội bộ. Nhiệm vụ của Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán (Bộ
Tài chính, 2009), gồm:
+ Xây dựng chiến lược, kế hoạch, biện pháp hoàn thiện, đổi mới hệ thống pháp
luật về kế toán và kiểm toán, các dự án, dự thảo văn bản pháp luật về kế toán và kiểm
toán.

+ Hướng dẫn thực hiện nguyên tắc, chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán, quy trình,
phương pháp chuyên môn nghiệp vụ về kế toán và kiểm toán.
+ Tham gia xây dựng chiến lược chính sách tài chính và nghiên cứu, xây dựng
các văn bản quy phạm pháp luật về tài chính, thuế có liên quan đến kế toán và kiểm
toán.
+ Hướng dẫn Hội Kế toán và kiểm toán Việt Nam trong việc triển khai các hoạt
động thuộc lĩnh vực kế toán và kiểm toán theo quy định của pháp luật, quản lý, giám
sát hoạt động của Hội Kế toán và kiểm toán Việt Nam.
+ Tổ chức hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế thuộc lĩnh vực kế toán kiểm toán,
tham gia đàm phán về các hoạt động hành nghề trong khu vực và trên thế giới.


Quy trình soạn thảo và ban hành
Qui trình soạn thảo chuẩn mực kế toán theo quy định của Bộ Tài chính, về cơ
bản bao gồm các bước (Bộ Tài chính, 2000b):

6


+ Bước 1: Xây dựng nguyên tắc chung về phạm vi, đối tượng áp dụng, cơ sở và
nguyên tắc soạn thảo hệ thống chuẩn mực, danh mục hệ thống chuẩn mực và sắp xếp,
phân loại các chuẩn mực.
+ Bước 2: Dự thảo từng chuẩn mực, thảo luận nhóm và tổ chức lấy ý kiến chuyên
gia, các đơn vị thuộc Bộ Tài chính và các bộ, cơ quan có liên quan, thành viên Ban chỉ
đạo soạn thảo chuẩn mực và Hội đồng Kế toán quốc gia.
+ Bước 3: Sau khi có ý kiến tham gia của Hội đồng Kế toán quốc gia, hoàn thiện
trình Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành, công bố.
1.1.3

Vai trò của chuẩn mực kế toán đối với nền kinh tế việt nam


-

Thu hút vốn đầu tư nước ngoài và góp phần phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam

-

Quản lý tài chính ở tầm vĩ mô của Nhà Nước

-

Góp phần phát triển hoạt động kế toán, kiểm toán ở Việt Nam

1.2 CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ
1.2.1

Hoàn cảnh ra đời và quá trình phát triển của chuẩn mực kế tóan quốc tế.
Ra đời năm 1973 ở LONDON nước Anh. , Ủy ban xây dựng chuẩn mực kế toán
quốc tế (IASC) đã ra đời tại London, nước Anh với tư cách là tổ chức soạn thảo chuẩn
mực quốc tế đầu tiên trên thế. Sự ra đời của IASC là kết quả của một thỏa thuận giữa
các hiệp hội nghề nghiệp1 của các nước Autralia, Canada, Pháp, Đức, Nhật,Mexico,
Phần Lan, Anh, Ireland và Mỹ2.
IASC được thành lập trong một thời kỳ chứng nhiều biến động trong quy định kế
toán. Ở Mỹ, hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính (FASB) vừa mới được thành lập. Ở
Anh, cơ quan soạn thảo chuẩn mực quốc gia đầu tiên ra đời (accounting standads
committee – ASC). Trong khi đó, EU đang soạn thảo những điểm chính trong kế
hoạch hài hòa hóa hệ thống kế toán của riêng mình (được đánh dấu bởi sự ra đời của
chỉ thị số bốn (fourth directive) ban hành ngày 25/7/1978 bởi hội đồng liên minh Châu


1

2

7


Âu3 ). UN và OECD tại thời điểm này cũng vừa mới thành lập hội đồng kế toán của
riêng mình.
1.2.2

Quy trình soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế :
Chuẩn mực kế toán quốc tế được hình thành qua một hệ thống các quy trình
chuẩn và được sự tham vấn rộng rãi của cộng đồng quốc tế.
Quy trình chuẩn cho việc soạn thảo một chuẩn mực kế toán quốc tế gồm các
bước sau:
Bước 1: Các nhân viên của IASB sẽ nhận diện, xem xét và đề xuất các vấn đề
mà có thể làm cho hội đồng quan tâm. Hội đồng sẽ thảo luận về các dự án tiềm năng
và quyết định để theo đuổi một dự án phải được đưa ra trong một cuộc họp hội đồng
công khai. Trước khi đi đến một quyết định như vậy, IASB sẽ tham vấn SAC để lên
một lịch trình hoạt động và đặt ra các ưu tiên.
Sơ đồ 1.2.2: quy trình cho việc soạn thảo chuẩn mực quốc tế
Bước 2: Khi đưa một dự án vào một lịch trình hoạt động, IASB sẽ quyết định có
thực hiện dự án đó một mình hay là sẽ hợp tác với các tổ chức soạn thảo chuẩn mực
khác.
Bước 3: Sau khi xem xét bản chất của vấn đề, IASB sẽ thiết lập một nhóm làm
việc
Bước 4: Mặc dầu một văn bản mời thảo luận không phải là một bước bắt buộc
trong quy trình chuẩn, IASB vẫn thường công bố một văn bản mời thảo luận cho
những chủ đề mới quan trọng. Thông thường thì một văn bản mời thảo luận sẽ bao

gồm một phần tổng quát về vấn đề được bàn luận, các cách tiếp cận để giải quyết vấn
đề, quan điểm ban đầu của tác giả hay của IASB và một lời mời đưa ra ý kiến. Nếu
IASB quyết định bỏ bước này thì IASB phải đưa ra lý do giải thích
Bước 5: Công bố bản thảo (draft) lấy ý kiến công chúng là một bước bắt buộc
trong quy trình chuẩn. Bản thảo này phải được chín thành viên của IASB phê chuẩn.
Một bản thảo sẽ bao gồm cơ sở để đưa ra kết luận và các quan điểm trái ngược từ
các thành viên IASB không phê chuẩn.
Bước 6: IASB sẽ xem xét những lời nhận xét và kết quả của những lần tham vấn
khác.
Bước 7: Khi IASB thấy rằng hội đồng đã có thể đưa ra một kết luận về vấn đề
đang được thảo luận, hội đồng sẽ chỉ đạo cho nhân viên của mình soạn thảo chính thức
các chuẩn mực kế toán quốc tế. Một chuẩn mực kế toán mới phải được chính thành
viên của IASB phê chuẩn. Một chuẩn mực kế toán sẽ bao gồm cơ sở để đưa ra kết luận
và các quan điểm trái ngược từ các thành viên IASB không phê chuẩn.
3

8


1.2.3

1.2.5

1.2.6

1.3

Sự phối hợp chặt chẽ giữa IASB và các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán của
các quốc gia là một nhân tố quan trọng giúp cho IASB có thể hoàn thành nhiệm vụ của
mình. IASB đang tìm cách để tạo ra sự hài hòa giữa quy trình chuẩn của IASB và quy

trình chuẩn của các quốc gia. Đặc biệt, IASB đang đề xuất một quy trình phối hợp
giữa IASB và các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia cho những dự án
mang tầm quốc tế.
Lợi ích của việc ban hành chuẩn mực kế toán quốc tế
- Các công ty đa quốc gia sẽ dễ dàng kêu gọi được vốn đầu tư từ các nhà đầu tư
nước ngoài hơn.
-Quản lý cũng dễ dàng hơn với các công ty này do cùng được soạn thảo trên một
chuẩn mực kế toán chung làm cho các thông tin tài chính được truyền tải giữa công ty
con và công ty mẹ dễ dàng hơn.
-Việc thâu tóm và sáp nhập các công ty nước ngoài cũng dễ dàng hơn. Các công
ty đa quốc gia cũng có thể tuân thủ theo các yêu cầu về báo cáo của các sở giao dịch
chứng khoán ở nước ngoài được thuận lợi hơn.
-Việc soạn thảo các báo cáo hợp nhất cấp tập đoàn sẽ không phải trải qua nhiều
bước chuyển đổi từ báo cáo theo chuẩn mực kế toán quốc gia nơi công ty con đóng trụ
sở sang báo cáo theo chuẩn mực kế toán nơi công ty mẹ đóng trụ sở.
-Phí kiểm toán sẽ được giảm bớt do khi các báo cáo cùng được lập trên cùng một
cơ sở thì sẽ tạo điều kiện cho kiểm toán kiểm tra nhanh hơn dẫn đến tốn ít thời gian và
chi phí hơn.
-Việc điều chuyển các nhân viên kế toán từ nước này sang nươc khác sẽ trở nên
dễ dàng hơn.
1.2.4 Lợi ích đối với các nước đang phát triển
Chính phủ của các nước đang phát triển cũng sẽ tiết kiệm đươc thời gian nếu họ
có thể sử dụng luụn cỏc chuẩn mực kế toán quốc tế thay vì phải soạn thảo các chuẩn
mực kế toán riêng cho quốc gia mình. Nếu các quốc gia này sử dụng các chuẩn mực kế
toán quốc tế thì họ có thể kiểm soát tốt hơn hoạt động của các công ty đa quốc gia
đang hoạt động trong phạm vi lãnh thổ của nước mỡnh. Cỏc công ty này không thể
viện lý do là họ không thể hiểu bản chất của các chuẩn mực kế toán quốc gia nờn
khụng lập các báo cáo tuân theo các chuẩn mực.
Lợi ích đối với các cơ quan thuế
Việc tính thuế cho các khoản thu nhập có nguồn gốc nước ngoài của các nhà đầu

tư hay của các công ty đa quốc gia sẽ dễ dàng hơn.
Lợi ích đối với ác công ty
Các công ty kế toán hay kiểm toán cũng sẽ hoạt động dễ dàng hơn trên phạm vi
quốc tế khi cú cỏc chuẩn mực kế toán quốc tế chung được sử dụng ở nhiều nước trên
thế giới.
CHUẨN MỰC BÁO CÁO TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

9


Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế được áp dụng phổ biến trên toàn
cầu( IFRS) Áp dụng IFRS sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập kinh tế.
Trong 10 năm gần đây, việc áp dụng Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế
(IFRS) đã phát triển nhanh chóng và được áp dụng phổ biến trên toàn thế giới. Việt
Nam hiện nay, báo cáo tài chính (BCTC) của các doanh nghiệp đang được áp dụng
theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) được Bộ Tài chính ban hành thành 5 đợt từ
năm 2001 đến năm 2005 với 26 chuẩn mực. VAS được xây dựng dựa trên các chuẩn
mực kế toán quốc tế IAS/IFRS theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế,
phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế và trình độ quản lý của các doanh nghiệp Việt
Nam tại thời điểm ban hành chuẩn mực.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng với
khu vực và thế giới, để cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển bền vững, hỗ trợ thị
trường chứng khoán (TTCK), bảo vệ nhà đầu tư và thu hút đầu tư nước ngoài
(ĐTNN), Chính phủ đã yêu cầu phải nâng cao tính minh bạch của thông tin tài chính.
Mặt khác, để có thể tiếp cận các dòng vốn trên thị trường quốc tế, niêm yết tại thị
trường nước ngoài, yêu cầu lập BCTC theo IFRS đang trở thành nhu cầu ngày càng
bức thiết và là xu hướng tất yếu của các tập đoàn, các công ty đại chúng.
Việc áp dụng IFRS sẽ giúp Việt Nam đi đúng hướng với tầm nhìn Việt Nam
2035, các chính sách của ASEAN cũng như theo kịp đà phát triển của những nền kinh
tế thành công khác trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi

Việt Nam hội nhập kinh tế sâu rộng trong bối cảnh thị trường “phẳng” toàn cầu với
việc tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Cộng đồng Kinh tế
ASEAN (AEC)... IFRS đóng góp giá trị to lớn đối với tính bền vững của nền kinh tế
toàn cầu: IFRS tạo sự minh bạch, đồng thời, giúp nâng cao trách nhiệm giải trình bằng
cách giảm bớt lỗ hổng thông tin giữa nội bộ và bên ngoài công ty. Ngoài ra, IFRS giúp
các doanh nghiệp và thị trường hoạt động hiệu quả hơn nhờ có một chuẩn mực có
phạm vi toàn cầu và đáng tin cậy, áp dụng cho cả các nền kinh tế phát triển và mới nổi.
IFRS cũng hỗ trợ giảm thiểu chi phí về vốn và chi phí báo cáo.

10


CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA IAS, VAS VÀ IFRS VỚI
KẾ TOÁN MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 NGUYÊN NHÂN TỒN TẠI NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA CHUẨN MỰC KẾ
TOÁN VIỆT NAM VÀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ
Có nhiều lý do để giải thích cho sự chưa hòa hợp giữa VAS và IAS/IFRS, trong
đó có những nguyên nhân trực tiếp và những nguyên nhân thuộc về môi trường kế
toán.
Nguyên Nhân trực tiếp
- VAS về cơ bản được soạn thảo dựa trên các IAS/IFRS tương ứng được ban
hành đến cuối năm 2003, nhưng sau đó không được cập nhật những sửa đổi của IAS
liên quan và IFRS mới được ban hành sau năm 2003;
- IAS/IFRS ngày càng hướng tới đo lường tài sản dựa trên cơ sở giá trị hợp lý
nhằm đảm bảo tính ‘liên quan’ của thông tin kế toán đối với các đối tượng sử dụng,
trong khi đó giá gốc vẫn là cơ sở đo lường chủ yếu được qui định bởi VAS;
- IAS/IFRS cho phép sử dụng xét đoán và ước tính nhiều hơn so với VAS, dẫn
đến IAS/IFRS yêu cầu khai báo thông tin liên quan đến sử dụng xét đoán và ước tính
nhiều hơn.
Nguyên nhân thuộc về môi trường kế toán

- Thứ nhất, văn hoá của người Việt Nam là tránh rủi ro và sự không chắc chắn.
Áp dụng IAS/IFRS, sự không chắc chắn là rất cao bởi vì BCTC theo IAS/IFRS sử
dụng nhiều ước tính kế toán, ví dụ như giá trị hợp lý. VAS với các ước tính kế toán ít
hơn và thận trọng hơn làm hạn chế những yếu tố không chắc chắn, tuy nhiên, điều này
cũng giảm nhiều sự phù hợp của thông tin trên BCTC. Đặc điểm văn hoá này là yếu tố
ảnh hưởng gián tiếp và rất quan trọng đến việc VAS chưa áp dụng hoàn toàn
IAS/IFRS.
- Thứ hai, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn khá non trẻ, Việt Nam mới phát
triển kinh tế thị trường từ những năm cuối của thế kỷ 20, thị trường vốn của Việt Nam
là một trong những thị trường non trẻ nhất trên thế giới, mới được hình thành hơn
mười năm nay. Đến nay, nó vẫn chưa thể hiện rõ vai trò quan trọng trong nền kinh tế,
mới chỉ trong phạm vi quốc gia, chưa liên thông với thị trường vốn trên thế giới. Trong
khi đó, định hướng của IAS/IFRS là xây dựng hệ thống các chuẩn mực kế toán hoàn
toàn thị trường và hỗ trợ thị trường vốn, một hệ thống chuẩn mực kế toán phục vụ cho
lợi ích chung, chất lượng cao, dễ hiểu và có thể áp dụng trên toàn thế giới, nhằm giúp
những người tham gia vào các thị trường vốn khác nhau trên thế giới ra quyết định
kinh tế. Do vậy, định hướng phát triển của VAS để phục vụ cho các nhà đầu tư trên thị
trường vốn không mạnh như IAS/IFRS; nhu cầu của Việt Nam về một hệ thống kế
toán phức tạp và hợp lý như IAS/IFRS để phục vụ thị trường vốn là chưa cấp bách.
Ngoài ra, ở Việt Nam hiện nay, nhiều đối tượng sử dụng BCTC chưa có nhu cầu thực
11


sự đối vối thông tin tài chính chất lượng cao vì thông tin tài chính chỉ đóng vai trò thứ
yếu trong việc ra quyết định của họ.
- Thứ ba, Việt Nam là một nước theo hướng điển chế luật (code law) hay luật
thành văn (civil law), khác với các nước theo hướng thông luật (common law). Trong
các nước theo hướng điển chế luật, nhìn chung, sự bảo vệ quyền cổ đông và yêu cầu
về tính minh bạch của thông tin thấp hơn trong các nước theo hướng thông luật. VAS
được xây dựng phù hợp với đặc điểm hệ thống luật của một nước theo hướng điển chế

luật trong khi IAS/IFRS được phát triển phù hợp với hệ thống luật của các nước theo
hướng thông luật. Ngoài ra, Việt Nam là quốc gia mà cơ sở, nguyên tắc kế toán được
quy chiếu vào chế độ kế toán quốc gia. Theo đó, Nhà nước có vai trò kiểm soát kế toán
về phương pháp đo lường, đánh giá, soạn thảo và trình bày báo cáo; việc soạn thảo,
ban hành các chuẩn mực kế toán và các hướng dẫn thực hiện phải do các cơ quan nhà
nước thực hiện và được đặt trong các bộ luật hoặc các văn bản pháp lý dưới luật.
Trong khi đó, tại các quốc gia phát triển IAS/IFRS, các cơ sở, nguyên tắc kế toán
không quy chiếu vào chế độ kế toán quốc gia; việc kiểm soát của Nhà nước được thực
hiện thông qua việc giải thích mục tiêu, nguyên tắc kế toán, phương pháp đo lường,
đánh giá, soạn thảo và trình bày BCTC; chuẩn mực, nguyên tắc kế toán thường được
thiết lập bởi các tổ chức tư nhân chuyên nghiệp, điều đó cho phép chúng trở nên dễ
thích ứng với thực tiễn và sáng tạo hơn, và phần lớn các nguyên tắc này không được
quy định trực tiếp trong các văn bản luật.
2.2 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM HÒA
HỢP VỚI CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ
Có thể nói rằng, việc áp dụng IAS/IFRS đã mở ra một thời kỳ mới làm thay đổi
cách thức ghi nhận, đo lường và trình bày các yếu tố của BCTC, loại trừ sự khác biệt
trong chuẩn mực kế toán, là điều kiện để đảm bảo các doanh nghiệp và tổ chức trên
toàn thế giới áp dụng các nguyên tắc kế toán một cách thống nhất trong lập và trình
bày BCTC. IAS/IFRS được chấp nhận như chuẩn mực lập BCTC cho các công ty tìm
kiếm sự thừa nhận trên thị trường chứng khoán thế giới. Việc sử dụng IAS/IFRS mang
lại những lợi ích khá rõ, như : tiết kiệm chi phí soạn thảo chuẩn mực và nhanh chóng
hòa nhập vào chuẩn mực kế toán quốc tế được chấp nhận; sự hội nhập về kế toán giúp
cho các công ty huy động vốn trên thị trường quốc tế. Đến nay, đã có hơn 119 quốc gia
trên thế giới thực hiện việc yêu cầu (bắt buộc) hoặc cho phép (không bắt buộc) các
công ty niêm yết trên thị truờng chứng khoán của họ sử dụng IAS/IFRS khi lập và
trình bày BCTC.
Tuy nhiên, việc áp dụng IAS/IFRS không phải là hoàn toàn dễ dàng đối với các
doanh nghiệp ở các quốc gia. Một trong những thách thức đó là phải có đội ngũ nhân
viên kế toán và chi phí. Điều này không đơn giản vì IAS/IFRS được xem là khá phức

tạp ngay cả đối với các nước phát triển. Để áp dụng IAS/IFRS đơn vị phải bỏ ra chi
12


phí ban đầu khá lớn, xây dựng lại hệ thống thu thập, xử lý và trình bày các thông tin tài
chính. Ngoài ra, phương pháp xây dựng IAS/IFRS về cơ bản là theo mô hình AngloAmerica, do đó có thể không phù hợp với các nước đang phát triển vì có sự khác biệt
lớn về văn hóa và môi trường kinh tế giữa các nước phát triển và các nước đang phát
triển (Prather-Kinsey, 2006). Theo Carmona and Trombetta (2008), IAS/IFRS dựa trên
nguyên tắc (principle-based IAS/IFRS) có tính linh hoạt cao nên có thể khó vận dụng
vào hoàn cảnh các nước đang phát triển, vốn thiếu một thị trường phát triển để có thể
áp dụng phương pháp dựa trên thị trường (market-base) để ước tính giá trị hợp lý
Từ các nguyên nhân của sự chưa hòa hợp giữa VAS với IAS/IFRS và những phân
tích nêu trên, có thể thấy, việc Việt Nam lựa chọn mô hình vận dụng có chọn lọc
IAS/IFRS làm cơ sở chủ yếu để xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán cho mình là
một sự lựa chọn hợp lý. Tuy nhiên, trong thời gian sắp tới, để đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế nói chung và hội nhập về kế toán nói riêng, một số giải pháp mang tính
định hướng cần được xem xét một cách tích cực, như sau:
Thứ nhất, như đã phân tích ở trên, trong IAS/IFRS, giá trị hợp lý được sử dụng
ngày càng nhiều trong đo lường và ghi nhận các yếu tố của BCTC. Cuộc họp tháng
09/2009 tại Mỹ, nhóm các nước G-20 đã xác nhận lại cam kết thúc đẩy việc hội tụ hệ
thống chuẩn mực BCTC quốc tế ( IFRS) trong đó có đề cập đến việc sử dụng giá trị
hợp lý như một cơ sở đo lường chủ yếu nhằm tăng cường tính thích hợp của thông tin
trình bày trên BCTC. Cũng trong năm 2009, Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế
(IASB) công bố dự thảo “Các quy định về đo lường giá trị hợp lý’, trong đó, thống
nhất giá trị hợp lý là “ giá trị đầu ra” của tài sản hay nợ phải trả. Trong khi đó, VAS1
hầu như chỉ đưa ra nguyên tắc giá gốc. Việc sử dụng giá gốc làm cơ sở đo lường chủ
yếu có thể đạt được độ ‘tin cậy’ nhưng làm giảm tính ‘liên quan’ của thông tin được
cung cấp bởi BCTC. Do vậy, trong một tương lai không xa, việc nghiên cứu, xây dựng
cơ sở lý luận và điều kiện, phương pháp vận dụng “Nguyên tắc giá trị hợp lý” trở
thành một vấn đề cần được Việt Nam xem xét và thực hiện một cách nghiêm túc;

Thứ hai, cần khẩn trương đánh giá, sửa đổi, bổ sung cập nhật 26 chuẩn mực đã
ban hành cho phù hợp với những thay đổi của IAS/IFRS và thực tiễn hoạt động kinh
doanh tại Việt Nam;
Thứ ba, nhằm đáp ứng kịp thời sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế, cần sớm
ban hành 5 chuẩn mực kế toán liên quan đến các đối tượng và giao dịch đã phát sinh
trong đời sống kinh tế, bao gồm: Thanh toán bằng cổ phiếu (IFRS 02); Tìm kiếm,
thăm dò và xác định giá trị các nguồn tài nguyên khoáng sản (IFRS 06); Công cụ tài
chính (IFRS 7; IFRS 9); Các khỏan tài trợ của Chính phủ (IAS 20): Tổn thất tài sản
(IAS 36). Một số chuẩn mực cũng cần có bước chuẩn bị để ban hành trong thời gian
tiếp theo như: Tài sản nắm giữ để bán và hoạt động kinh doanh không liên tục; Phúc
lợi của nhân viên Nông nghiệp;
13


-

-

Thứ tư, Việt Nam cần từng bước tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh tế và luật
pháp phù hợp với yêu cầu của IAS/IFRS. Chẳng hạn như thị trường giao dịch tài sản
cần phải ‘minh bạch’ và ‘hoạt động’ để có thể sử dụng giá trị hợp lý làm cơ sở đo
lường giá trị tài sản…
Tuy nhiên Hiện nay, chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn chưa hòa hợp hoàn toàn
với chuẩn mực kế toán quốc tế. Sự khác biệt chủ yếu giữa VAS và IAS/IFRS là khác
biệt về cơ sở đo lường tài sản dựa trên cơ sở giá trị hợp lý và vấn đề khai báo thông
tin. Sự chưa hòa hợp giữa VAS và IAS/IFRS có những nguyên nhân trực tiếp và những
nguyên nhân thuộc về yếu tố xã hội, kinh tế và pháp luật. Nhìn chung, việc Việt Nam
lựa chọn mô hình vận dụng có chọn lọc IAS/IFRS làm cơ sở chủ yếu để xây dựng hệ
thống chuẩn mực kế toán cho mình là một sự lựa chọn hợp lý. Trong thời gian tới, để
đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về kế toán, phù hợp quá trình hội nhập kinh tế của

đất nước, Việt Nam cần tiến hành một số giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa mang
tính lâu dài, bao gồm cả giải pháp trực tiếp đối với hệ thống chuẩn mực kế toán và giải
pháp thuộc về môi trường kinh tế, pháp luật.
Từ 1 số tài liệu tham khảo, em thấy chuẩn mực kế toán việt nam với chuẩn mực
kế toán có 1 số điểm chung như sau:
Khi xây dựng các các chuẩn mực kế toán, quan điểm xuyên suốt của Việt Nam là tuân
thủ hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế. VAS cơ bản đã được xây dựng dựa trên
IAS/IFRS, theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc
điểm nền kinh tế và trình độ quản lý của doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, VAS đã cơ
bản tiếp cận với IAS/IFRS, phản ánh được phần lớn các giao dịch của nền kinh tế thị
trường, nâng cao tính công khai, minh bạch thông tin về BCTC của các doanh nghiệp.
Hệ thống kế toán và chuẩn mực quốc tế về kế toán (IASs/IFRSs) được soạn thảo bởi
Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB). Nó được soạn thảo và công bố theo
những quy trình rất chặt chẽ để đảm bảo chất lượng của các chuẩn mực và đảm bảo
tính thực hành cao. Rất nhiều quốc gia khác của châu Á và trên thế giới đang điều
chỉnh các chuẩn mực của mình để phù hợp hơn với IFRS và giảm thiểu sự khác nhau
nếu có.
Ngoài ra, chúng cũng có những điểm khác biệt.
Khác với hệ thống kế toán Việt Nam (VAS), hệ thống kế toán quốc tế (IAS)
không có sự bắt buộc mang tính hình thức (như biểu mẫu báo cáo thống nhất, hệ thống
tài khoản kế toán thống nhất, hình thức sổ kế toán, mẫu các chứng từ gốc thống nhất).
IAS mặc dù đưa ra rất chi tiết các định nghĩa, phương pháp làm, cách trình bày và
những thông tin bắt buộc phải trình bày trong các báo cáo tài chính nhưng IAS không
bắt buộc phải sử dụng chung các biểu mẫu báo cáo tài chính, hệ thống tài khoản, các
hệ thống chứng từ, sổ kế toán. IAS có bộ khung khái niệm và tính thống nhất cao giữa
các chuẩn mực. VAS còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng, thiếu nhiều vấn đề và đặc biệt là
14


còn mâu thuẫn giữa các chuẩn mực hoặc sự không thống nhất giữa chuẩn mực và

hướng dẫn về chuẩn mực đó.
Hệ thống tài khoản kế toán thống nhất của Việt Nam chỉ quan tâm chủ yếu đến
thông tin của báo cáo tài chính cho các nhà đầu tư chứ chưa quan tâm đến thông tin
quản trị nội bộ. Theo thông lệ quốc tế, tên gọi tài khoản chính là tên gọi ngắn gọn của
số dư tài khoản hay chỉ tiêu cần quản lý. Không ghép chung nhiều chỉ tiêu khác nhau
vào chung một tài khoản. Các chỉ tiêu khác nhau phải được ghi chép và báo cáo theo
các tài khoản riêng biệt.
+ Nói về sự khác nhau trong cân đối kế toán: IAS khác VAS trong hầu hết khoản
mục của bảng cân đối kế toán như kế toán tiền, doanh nghiệp ghi độc lập với ngân
hàng. Các khoản phải thu thương mại tách biệt với các khoản phải thu từ bán tài sản cố
định (TSCĐ). Giá thành phẩm được tính theo phương pháp giá thành thông thường
hơn là thực tế và nó không chấp nhận phương pháp LIFO. Các tài sản sinh vật và sản
phẩm nông nghiệp thu hoạch từ các tài sản sinh vật được ghi nhận theo giá trị hợp lý
trừ đi chi phí điểm bán hàng ước tính. Các khoản chứng khoán thương mại ngắn hạn
được ghi nhận theo giá trị hợp lý (giá thị trường) cuối mỗi kỳ, chênh lệch được ghi vào
lãi lỗ chưa thực hiện trên báo cáo kết quả. Các khoản chứng khoán sẵn sàng để bán
cũng được điều chỉnh theo giá trị hợp lý cuối kỳ, nhưng nó được ghi tăng giảm vốn
chủ sở hữu trên bảng cân đối kế toán không ghi vào báo cáo lãi lỗ. Việc nhận cổ tức
bằng cổ phiếu không ghi tăng thu nhập mà chỉ thuần túy ghi bút toán ghi nhớ làm tăng
số lượng cổ phiếu lên, đồng thời giảm đơn giá vốn nhưng tổng giá vốn không đổi.
+ sự khác nhau trong báo cáo kết quả kinh doanh: Để việc so sánh và quản trị
được tốt hơn, theo IFRSs, lãi hoạt động kinh doanh là các khoản lãi lỗ từ các hoạt
động kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, nó không bao gồm các khoản thu
nhập và chi phí tài chính. Chi phí tài chính theo thông lệ quốc tế chỉ đơn giản là chi phí
lãi vay và các chi phí trực tiếp liên quan đến vay tiền bao gồm cả việc lãi lỗ do thay
đổi tỷ giá ngoại tệ phát sinh từ việc vay tiền như một khoản chi phí lãi vay. Các chi phí
khác và thu nhập khác theo IAS bao gồm như bất động sản đầu tư theo mô hình giá trị
hợp lý, các khoản chênh lệch giá trị hợp lý cuối kỳ so với đầu kỳ được ghi nhận là lãi
lỗ trong báo cáo tài chính kỳ đó. Theo VAS, chỉ áp dụng phương pháp giá gốc trừ đi
khấu hao lũy kế. Do vậy, không có khoản lãi, lỗ này phát sinh. Trường hợp tài sản cố

định được chính phủ cho tặng, theo IAS, doanh nghiệp chỉ được ghi nhận như một
khoản thu nhập trong các kỳ liên quan để phù hợp với các chi phí liên quan (khấu hao)
mà chúng được nhận để bù đắp. Theo VAS, nó được ghi nhận toàn bộ thu nhập vào kỳ
nhận được tài sản.
Theo IAS, lãi dùng để tính EPS cơ bản là lãi thuần thuộc các cổ đông. Nó không
bao gồm các khoản lãi, nhưng được dùng để chia cho nhân viên hay đối tượng khác
như quỹ khen thưởng, phúc lợi. VAS không trừ các quỹ này nên rất nhiều tình huống
15


EPS tính theo VAS cao hơn theo IAS khá nhiều thông thường từ 5 - 15%, cá biệt có
thể lên đến 30%. Theo IAS, EPS pha loãng và EPS cơ bản phải được trình bày trên bề
mặt và nổi bật như nhau trên báo cáo kết quả kinh doanh. Tuy nhiên, hiện nay VAS
chưa có thông tư hướng dẫn chi tiết, nên các DOANH NGHIệP vẫn không báo cáo
EPS pha loãng trên báo cáo kết quả kinh doanh. Trường hợp chia cổ tức bằng cổ phiếu,
khác với IAS, VAS chưa quy định việc điều chỉnh hồi tố EPS. Trong trường hợp đó,
việc phân tích xu hướng EPS qua các năm theo số liệu EPS gốc (không điều chỉnh) sẽ
bị sai lệnh rất nghiêm trọng.
2.3 NGUYÊN NHÂN TỒN TẠI NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA CHUẨN MỰC KẾ
TOÁN VIỆT NAM VÀ CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ
2.3.1 Nguyên nhân trực tiếp
- VAS về cơ bản được soạn thảo dựa trên các IAS/IFRS tương ứng được ban
hành đến cuối năm 2003, nhưng sau đó không được cập nhật những sửa đổi của IAS
liên quan và IFRS mới được ban hành sau năm 2003;
- IAS/IFRS ngày càng hướng tới đo lường tài sản dựa trên cơ sở giá trị hợp lý
nhằm đảm bảo tính ‘liên quan’ của thông tin kế toán đối với các đối tượng sử dụng,
trong khi đó giá gốc vẫn là cơ sở đo lường chủ yếu được qui định bởi VAS;
- IAS/IFRS cho phép sử dụng xét đoán và ước tính nhiều hơn so với VAS, dẫn
đến IAS/IFRS yêu cầu khai báo thông tin liên quan đến sử dụng xét đoán và ước tính
nhiều hơn.

2.3.2 Nguyên nhân thuộc về môi trường kế toán
- Thứ nhất, văn hoá của người Việt Nam là tránh rủi ro và sự không chắc chắn.
Áp dụng IAS/IFRS, sự không chắc chắn là rất cao bởi vì BCTC theo IAS/IFRS sử
dụng nhiều ước tính kế toán, ví dụ như giá trị hợp lý. VAS với các ước tính kế toán ít
hơn và thận trọng hơn làm hạn chế những yếu tố không chắc chắn, tuy nhiên, điều này
cũng giảm nhiều sự phù hợp của thông tin trên BCTC. Đặc điểm văn hoá này là yếu tố
ảnh hưởng gián tiếp và rất quan trọng đến việc VAS chưa áp dụng hoàn toàn
IAS/IFRS.
- Thứ hai, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn khá non trẻ, Việt Nam mới phát
triển kinh tế thị trường từ những năm cuối của thế kỷ 20, thị trường vốn của Việt Nam
là một trong những thị trường non trẻ nhất trên thế giới, mới được hình thành hơn
mười năm nay. Đến nay, nó vẫn chưa thể hiện rõ vai trò quan trọng trong nền kinh tế,
mới chỉ trong phạm vi quốc gia, chưa liên thông với thị trường vốn trên thế giới. Trong
khi đó, định hướng của IAS/IFRS là xây dựng hệ thống các chuẩn mực kế toán hoàn
toàn thị trường và hỗ trợ thị trường vốn, một hệ thống chuẩn mực kế toán phục vụ cho
lợi ích chung, chất lượng cao, dễ hiểu và có thể áp dụng trên toàn thế giới, nhằm giúp
những người tham gia vào các thị trường vốn khác nhau trên thế giới ra quyết định
16


kinh tế. Do vậy, định hướng phát triển của VAS để phục vụ cho các nhà đầu tư trên thị
trường vốn không mạnh như IAS/IFRS; nhu cầu của Việt Nam về một hệ thống kế
toán phức tạp và hợp lý như IAS/IFRS để phục vụ thị trường vốn là chưa cấp bách.
- Thứ ba, Việt Nam là một nước theo hướng điển chế luật (code law) hay luật
thành văn (civil law), khác với các nước theo hướng thông luật (common law). Trong
các nước theo hướng điển chế luật, nhìn chung, sự bảo vệ quyền cổ đông và yêu cầu
về tính minh bạch của thông tin thấp hơn trong các nước theo hướng thông luật. VAS
được xây dựng phù hợp với đặc điểm hệ thống luật của một nước theo hướng điển chế
luật trong khi IAS/IFRS được phát triển phù hợp với hệ thống luật của các nước theo
hướng thông luật. Ngoài ra, Việt Nam là quốc gia mà cơ sở, nguyên tắc kế toán được

quy chiếu vào chế độ kế toán quốc gia. Theo đó, Nhà nước có vai trò kiểm soát kế toán
về phương pháp đo lường, đánh giá, soạn thảo và trình bày báo cáo; việc soạn thảo,
ban hành các chuẩn mực kế toán và các hướng dẫn thực hiện phải do các cơ quan nhà
nước thực hiện và được đặt trong các bộ luật hoặc các văn bản pháp lý dưới luật.
Trong khi đó, tại các quốc gia phát triển IAS/IFRS, các cơ sở, nguyên tắc kế toán
không quy chiếu vào chế độ kế toán quốc gia; việc kiểm soát của Nhà nước được thực
hiện thông qua việc giải thích mục tiêu, nguyên tắc kế toán, phương pháp đo lường,
đánh giá, soạn thảo và trình bày BCTC; chuẩn mực, nguyên tắc kế toán thường được
thiết lập bởi các tổ chức tư nhân chuyên nghiệp, điều đó cho phép chúng trở nên dễ
thích ứng với thực tiễn và sáng tạo hơn, và phần lớn các nguyên tắc này không được
quy định trực tiếp trong các văn bản luật.

17


CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ ĐƯA CHUẨN MỰC KẾ TOÁN
VIỆT NAM(VAS) GẦN VỚI CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ( IAS/ IFRS)
3.1 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN.
Việc áp dụng IAS/IFRS đã mở ra một thời kỳ mới làm thay đổi cách thức ghi
nhận, đo lường và trình bày các yếu tố của BCTC, loại trừ sự khác biệt trong chuẩn
mực kế toán, là điều kiện để đảm bảo các doanh nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới áp
dụng các nguyên tắc kế toán một cách thống nhất trong lập và trình bày BCTC.
IAS/IFRS được chấp nhận như chuẩn mực lập BCTC cho các công ty tìm kiếm sự
thừa nhận trên thị trường chứng khoán thế giới. Để giảm thiểu những khác biệt giữa
VAS và IAS/IFRS cần thực hiện một số giải pháp như:
Thứ nhất, cần đánh giá, sửa đổi, bổ sung cập nhật 26 chuẩn mực đã ban hành
cho phù hợp với những thay đổi của IAS/IFRS và thực tiễn hoạt động kinh doanh tại
Việt Nam;
Thứ hai, nhằm đáp ứng kịp thời sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế, cần ban
hành 5 chuẩn mực kế toán liên quan đến các đối tượng và giao dịch đã phát sinh trong

đời sống kinh tế, bao gồm: Thanh toán bằng cổ phiếu (IFRS 02); Tìm kiếm, thăm dò
và xác định giá trị các nguồn tài nguyên khoáng sản (IFRS 06); Công cụ tài chính
(IFRS 7; IFRS 9); Các khỏan tài trợ của Chính phủ (IAS 20): Tổn thất tài sản (IAS
36). Một số chuẩn mực cũng cần có bước chuẩn bị để ban hành trong thời gian tiếp
theo như: Tài sản nắm giữ để bán và hoạt động kinh doanh không liên tục; Phúc lợi
của nhân viên; Nông nghiệp;
Thứ ba, Việt Nam cần từng bước tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh tế và luật
pháp phù hợp với yêu cầu của IAS/IFRS. Chẳng hạn như thị trường giao dịch tài sản
cần phải ‘minh bạch’ và ‘hoạt động’ để có thể sử dụng giá trị hợp lý làm cơ sở đo
lường giá trị tài sản…
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ ĐƯA CHUẨN MỰC KẾ TOÁN VIỆT NAM LẠI
GẦN VỚI CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ.
Các giải pháp đưa các chuẩn mực kế toán Việt Nam về gần với các chuẩn mực
kế toán quốc tế đã phân tích ở trên sẽ hoàn toàn không có tính khả thi nếu như không
xét đến các điều kiện chủ quan tác động bên ngoài:
3.2.1 Sự phát triển của nền kinh tế:
Có những quy định trong chuẩn mực kế toán quốc tế mà chỉ có thể thực hiện
được khi nền kinh tế của một nước là nền kinh tế thị trường. Ví dụ như các quy định
về đánh giá lại tài sản hay xác định giá trị hợp lý trong IAS 16, IAS 38 chỉ thực hiện
được khi mà các tài sản được đánh giá lại giá trị có thị trường hoạt động.
Một nền kinh tế thị trường mới có thể những thị trường hoạt động cung cấp các
ước tính đáng tin cậy về giá trị của tài sản. Nếu chúng ta cứ bàn về vấn đề hoàn thiện
18


các chuẩn mực kế toán Việt Nam theo các chuẩn mực kế toán quốc tế mà không có cơ
sở vững chắc từ nền kinh tế thỡ đú sẽ là những giải pháp không khả thi. Không chỉ có
vậy, nền kinh tế phát triển thì mới nảy sinh các hoạt động kinh tế cần sự điều chỉnh của
các chuẩn mực kế toán quốc tế. Như hoạt động tài chính ở nước ta chưa phát triển đến
mức cần có chuẩn mực kế toán điều chỉnh nờn dự thế giới đó cú IAS 32 là chuẩn mực

kế toán quốc tế về trình bày công cụ tài chính thì cho đến nay Việt Nam mới chỉ bàn
đến việc soạn thảo chuẩn mực kế toán này ở Việt Nam.
Do đó, tốc độ phát triển của nền kinh tế là một điều kiện quyết định việc tiến
hành đưa chuẩn mực kế toán Việt Nam về gần với chuẩn mực kế toán quốc tế là nhanh
hay chậm, dễ dàng hay khó khăn.
Mà để đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế thì cần phải có những chính
sách phát triển kinh tế đúng hướng của Nhà Nước. Bên cạnh đó Nhà Nước cần hoàn
thiện các cơ chế và hệ thống pháp luật kinh tế tài chính phù hợp với nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà Nước
3.2.2 sự chuẩn bị của các doanh nghiệp
Các chuẩn mực kế toán đưa ra vừa để quản lý các hoạt động của doanh nghiệp
vừa để tạo điều kiện cho doanh nghiệp dễ dàng thực thi các nghĩa vụ của họ về báo
cáo tài chính.
Do đó, các chuẩn mực có thể có sức sống trong thực tiễn hoạt động của doanh
nghiệp hay không phụ thuộc vào các doanh nghiệp rất nhiều.
Nếu như các doanh nghiệp không tìm hiểu các chuẩn mực được ban hành và có ý
thức chấp hành nghiêm chỉnh các chuẩn mực thỡ cỏc chuẩn mực kế toán sẽ hoàn toàn
không có ý nghĩa thực tiễn. Việc tuân theo các chuẩn mực đòi hỏi doanh nghiệp phải
hiểu được đỳng, sõu và đầy đủ định nghĩa, khái niệm và cách hạch toán được quy định
trong các chuẩn mực. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện nếu như hội kế toán và
kiểm toán Việt Nam (VAA) đứng ra chủ trì và tổ chức nhiều buổi hội thảo để phổ biến
các chuẩn mực kế toán cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc
với những người thực hiện việc soạn thảo các chuẩn mực để giải đáp các vướng mắc
trong khi thực hành các chuẩn mực kế toán ở doanh nghiệp. Đó có thể coi như là một
cầu nối giữa những người soạn thảo chuẩn mực và những người tuân theo chuẩn mực
tạo ra một sự tác động qua lại giữa hai đối tượng đó.
Các doanh nghiệp cũng phải có ý thức đầu tư hơn nữa vào việc cải thiện việc tổ
chức công tác kế toán, hệ thống thông tin và nguồn nhân lực kế toán ở doanh nghiệp
mình. Đó là do các chuẩn mực kế toán quốc tế yêu cầu hệ thống kế toán của doanh
nghiệp phải cung cấp nhiều thông tin chi tiết và phức tạp hơn (ví dụ như phải trình bày

nhiều thông tin hơn trên báo cáo tài chính). Do đó, nếu doanh nghiệp không có hệ
thống thông tin tốt đáp ứng nhu cầu thông tin chi tiết, không có đội ngũ nhân viên kế
19


toán đủ khả năng sử dụng hệ thống thông tin và đủ khả năng lập các báo cáo theo các
chuẩn mực kế toán quốc tế thì việc áp dụng hoàn toàn các chuẩn mực kế toán quốc tế
ở các doanh nghiệpViệt Nam là hoàn toàn không khả thi. Do đó, Nhà Nước và các bộ
ban ngành liên quan nờn cú chiến lược, kế hoạch giúp đỡ các doanh nghiệp cải thiện
hệ thống thông tin, tổ chức công tác hạch toán kế toán một cách khoa học và hiệu quả
hơn và nâng cao khả năng tri thức của nguồn nhân lực kế toán. Một biện pháp hiệu quả
để nâng cao nhân lực của nguồn nhân lực kế toán thì ngay từ bây giờ các doanh nghiệp
nên giúp đỡ nhân viên kế toán của mình tiếp cận với các bằng cấp kế toán quốc tế uy
tín như ACCA của Anh, CPA của ÚC,…..
Như vậy, để chuẩn bị cho việc đưa các chuẩn mực kế toán Việt Nam về gần với
các chuẩn mực kế toán quốc tế thì chúng ta cần phải chuẩn bị rất nhiều điều kiện hỗ
trợ như đã phân tích ở trên. Không có những điều kiện hỗ trợ đú thỡ bất cứ giải pháp
nào đưa ra để giỳp cỏc chuẩn mực kế toán Việt Nam tiệm cận với các chuẩn mực kế
toán quốc tế đều không có tính khả thi

20


KẾT LUẬN
Hiện nay, chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn chưa hòa hợp hoàn toàn với chuẩn
mực kế toán quốc tế. Sự khác biệt chủ yếu giữa VAS và IAS/IFRS là khác biệt về cơ
sở đo lường tài sản dựa trên cơ sở giá trị hợp lý và vấn đề khai báo thông tin. Sự chưa
hòa hợp giữa VAS và IAS/IFRS có những nguyên nhân trực tiếp và những nguyên
nhân thuộc về yếu tố xã hội, kinh tế và pháp luật. Nhìn chung, việc Việt Nam lựa chọn
mô hình vận dụng có chọn lọc IAS/IFRS làm cơ sở chủ yếu để xây dựng hệ thống

chuẩn mực kế toán cho mình là một sự lựa chọn hợp lý. Trong thời gian tới, để đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về kế toán, phù hợp quá trình hội nhập kinh tế của đất
nước, Việt Nam cần tiến hành một số giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính
lâu dài, bao gồm cả giải pháp trực tiếp đối với hệ thống chuẩn mực kế toán và giải
pháp thuộc về môi trường kinh tế, pháp luật.
Để đưa các chuẩn mực kế toán Việt Nam về gần với các chuẩn mực kế toán quốc
tế thì không chỉ là vấn đề sửa đổi, bổ sung các chuẩn mực mà còn phải hoàn thiện cơ
chế soạn thảo chuẩn mực và còn phụ thuộc vào các điều kiện khác như tốc độ phát
triển của nền kinh tế và sự chuẩn bị của các doanh nghiệp.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính (2001-2005), “Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam”; Nhà Xuất Bản
2.
3.
4.
5.

Tài chính, Hà Nội;
Bộ Tài chính - Vụ Chế độ Kế toán và Kiểm toán (2008), Nội dung và hướng dẫn 26
Chuẩn mực kế toán Việt Nam; Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội;
Deloitte Việt Nam (2008), “Tóm tắt so sánh IFRS và VAS”, Web
Bùi Công Khánh (2007), “Từ khuôn mẫu lý thuyết kế toán quốc tế nhìn về chuẩn mực
chung kế toán Việt Nam”, Tạp chí kế toán, (số 69).
Ngân hàng Thế Giới (2002), “Chuẩn mực kế toán Quốc tế”, Nhà Xuất Bản Thống kê,
Hà Nội

22



PHỤ LỤC
Sơ đồ 1.2.2: Quy trình chuẩn cho việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế.
Đề xuất dự án soạn thảo chuản
mực kế toán quốc tế

Xem xét việc hợp tác với các tổ
chức soạn thảo chuẩn mực quốc
gia

Thành lập các nhóm làm việc
(working group)

Đưa ra văn bản mời thảo luận
(discussion paper)

Công bố bản thảo lấy ý kiến công
chúng (exposure draft)

Thu thập và xem xét các nhận xét

Soạn thảo chính thức chuẩn mực kế
toán quốc tế

23




×