Tải bản đầy đủ (.pdf) (207 trang)

Văn hóa kinh doanh của doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.4 MB, 207 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ ÁNH

VĂN HOÁ KINH DOANH CỦA DOANH NHÂN
VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1:

Trang
1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH

9

1.1.

Tổng quan tình hình nghiên cứu

9



1.2.

Lý luận về văn hoá kinh doanh

29

Chương 2:

SỰ HÌNH THÀNH VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
TẦNG LỚP DOANH NHÂN VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ
KỶ XX

47

Khái lược điều kiện hình thành
Quá trình hình thành và hoạt động kinh doanh

47
56

NHẬN DIỆN VĂN HOÁ KINH DOANH CỦA TẦNG LỚP
DOANH NHÂN VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX

75

3.1.
3.2.
3.3.


Triết lý - tư tưởng kinh doanh
Giá trị, chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh
Thực hành kinh doanh

75
83
91

3.4.
3.5.

Nhân cách doanh nhân
Nhận xét chung về văn hoá kinh doanh của tầng lớp doanh

101

nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX

107

2.1.
2.2.
Chương 3 :

Chương 4:
4.1.
4.2.

BÀN LUẬN VỀ DOANH NHÂN VÀ VĂN HÓA KINH DOANH
VIỆT NAM - TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI


113

Doanh nhân và văn hóa kinh doanh Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX - những bài học cho doanh nhân hiện nay
Vấn đề đặt ra đối với việc kiến tạo văn hoá kinh doanh Việt

113

Nam hiện nay

129

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
TÀI LIỆU THAM KHẢO

146

PHỤ LỤC

149
150


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Trang
Bảng 2.1: Hoạt động vận tải bằng tàu thuyền của các thương nhân

Việt Nam từ năm 1910 đến năm 1924
Bảng 2.2: Tình hình xuất cảng lụa

70
71


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đầu thế kỷ XX, cùng với sự xuất hiện của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, những yếu tố văn minh phương Tây và sự xáo trộn về chính
trị, văn hoá - xã hội, trong lòng xã hội Việt Nam đã hình thành một lớp
người mới - tầng lớp doanh nhân. Bắt đầu từ các chí sĩ yêu nước trong
phong trào Duy Tân với Lương Văn Can - “người thầy” đầu tiên của các
nhà buôn lúc bấy giờ, tác giả của cuốn giáo khoa “Thương học phương
châm”, đến giữa thế kỷ XX, tầng lớp doanh nhân Việt Nam phát triển
tương đối mạnh mẽ. Họ đã có những đóng góp cho dân tộc, đặc biệt là khi
Cách mạng tháng Tám thành công.
Ngay từ những ngày đầu mới giành được độc lập, tầng lớp doanh nhân
đã trở thành chỗ dựa cho Chính phủ, là “ân nhân” của cách mạng. Những
đóng góp quý báu của doanh nhân nửa đầu thế kỷ XX không chỉ là sự cung
cấp nguồn tài chính cho các phong trào vận động cách mạng mà họ còn là
những người xây dựng nên văn hoá kinh doanh, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ
của người Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước mất chủ quyền.
Tuy nhiên, trải qua nhiều thập kỷ chiến tranh và những chính sách sai
lầm thời hậu chiến đã kìm hãm sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, làm lu
mờ vai trò của doanh nhân Việt Nam. Từ năm 1986, chính sách Đổi mới đã
làm thay đổi diện mạo đất nước, đã phát huy được mọi lực lượng, mọi thành
phần kinh tế, trong đó có tầng lớp doanh nhân. Sau hơn ba mươi năm đổi mới,

dưới sự lãnh đạo của Đảng, đội ngũ doanh nhân Việt Nam không ngừng lớn
mạnh và trưởng thành, cùng các giai tầng khác góp phần quan trọng trong xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng đất nước
ngày càng giàu mạnh.
Tầng lớp doanh nhân Việt Nam - chủ thể của văn hoá kinh doanh có
vai trò vô cùng lớn đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Năm 2004, Chính


2
phủ đã ra Quyết định lấy ngày 13 tháng 10 (ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
thư khen ngợi giới công thương - tầng lớp doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX) là ngày Doanh nhân Việt Nam để tôn vinh những con người đang ngày
đêm đóng góp cho nền kinh tế nước nhà. Đó là dấu mốc quan trọng nhắc nhở
các doanh nhân Việt Nam nhớ đến vai trò của mình trong quá trình thúc đẩy,
phát triển kinh tế xã hội, góp phần xây dựng một nước Việt Nam ngày càng lớn
mạnh trong quá trình hội nhập kinh tế, cũng là dịp để các thế hệ doanh nhân
ngày nay ôn nhớ về những tấm gương doanh nhân trong lịch sử, thúc đẩy tinh
thần kinh doanh trong xã hội.
Đối với nước ta hiện nay, để trở thành một quốc gia vững mạnh cần
xây dựng một nền văn hoá kinh doanh hiện đại trên cơ sở kế thừa các giá trị
văn hoá kinh doanh của dân tộc. Mặt khác, nghiên cứu, xây dựng và phát triển
văn hoá kinh doanh hiện đại là một nhiệm vụ trong xây dựng và phát triển văn
hoá và con người Việt Nam. Nhằm làm sáng tỏ đặc điểm, nội dung của văn
hóa kinh doanh nửa đầu thế kỷ XX, qua đó thấy rõ ý nghĩa của văn hoá
kinh doanh thời kỳ này trong việc xây dựng văn hoá kinh doanh ở Việt
Nam hiện nay, nghiên cứu sinh đã chọn vấn đề “Văn hoá kinh doanh của
doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ,
chuyên ngành Văn hoá học.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích

Trên cơ sở tìm hiểu văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX, luận án nêu ý nghĩa của văn hóa kinh doanh thời kỳ này và
những vấn đề đặt ra cho công cuộc xây dựng văn hoá kinh doanh hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Luận án làm rõ khái niệm văn hoá kinh doanh, cơ cấu và vai trò của
nó từ phương diện Văn hóa học.


3
- Tìm hiểu hoàn cảnh xuất hiện tầng lớp doanh nhân Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XX và khái quát về hoạt động kinh doanh của họ.
- Làm rõ những nội dung cơ bản, đặc điểm của văn hoá kinh doanh của
tầng lớp doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
- Phân tích một số ý nghĩa cơ bản của văn hoá kinh doanh của doanh
nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và những vấn đề đặt ra đối với việc xây
dựng văn hoá kinh doanh của tầng lớp doanh nhân Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu văn hoá kinh doanh của lớp doanh nhân giai đoạn
đầu thế kỷ XX đến Cách mạng tháng Tám thành công.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung phân tích văn hóa kinh doanh của tầng lớp doanh
nhân Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Để làm rõ văn hoá kinh doanh
nửa đầu thế kỷ XX, nghiên cứu sinh cũng tìm hiểu về hoàn cảnh ra đời và
hoạt động kinh doanh của tầng lớp doanh nhân giai đoạn này. Tham chiếu
tình hình hiện nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu luận án
4.1. Phương pháp luận
4.1.1. Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin

về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng làm nền tảng cho việc nghiên cứu điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội xuất hiện tầng lớp doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và văn
hoá kinh doanh của họ. Đặc điểm, vai trò của văn hoá kinh doanh của họ tác
động đến đời sống xã hội như thế nào.
Văn hoá kinh doanh là một kiểu, một “tiểu văn hoá”, tồn tại trong một
môi trường văn hoá nhất định của một thời đại, một cộng đồng cụ thể. Luận


4
án nghiên cứu bối cảnh nửa đầu thế kỷ XX mà lớp doanh nhân tồn tại với
những sự kiện, những ảnh hưởng tác động lên nó. Để nghiên cứu bối cảnh ra
đời của tầng lớp doanh nhân Việt Nam, tác giả chủ trương mở rộng phạm vi
nghiên cứu ra khỏi hoàn cảnh của từng cá nhân đơn lẻ, thay vào đó là việc
nghiên cứu, tìm hiểu các tác nhân như sự biến đổi của tình hình thế giới, tác
động của nhà cầm quyền Pháp và sự chuyển biến về kinh tế, văn hóa, xã hội
giai đoạn này. Đây chính là những yếu tố sẽ giúp giải thích các hành động của
chủ thể văn hóa, tránh được cái nhìn phiến diện, chủ quan khi nghiên cứu.
4.1.2. Lý thuyết cộng đồng
Lý thuyết cộng đồng của D.W. McMillan và D.M. Chavis tiếp cận từ
góc độ tâm lý học được vận dụng trong nhiều nghiên cứu văn hóa học. Hai
nhà nghiên cứu cho rằng ý thức cộng đồng dựa trên cơ sở của bốn yếu tố:1) tư
cách thành viên, 2) ảnh hưởng, 3) sự hội nhập và sự đáp ứng các yêu cầu, 3)
sự gắn bó chia sẻ tình cảm. Cho dù các cộng đồng khác nhau nhưng đều có
điểm chung là sức cố kết và bản sắc của cộng đồng. Cũng nghiên cứu văn hóa
cộng đồng, nhà nghiên cứu A. Wildavsky tiếp cận văn hóa của các nhóm cộng
đồng theo hướng “lựa chọn văn hóa”.
Mặc dù đối tượng nghiên cứu của luận án là văn hóa kinh doanh
nhưng tác giả cũng đi sâu tìm hiểu cộng đồng doanh nhân Việt Nam giai
đoạn 1900-1945 vì họ là chủ thể của nền văn hóa này; trong luận án, tác

giả nêu mối quan hệ giữa quy định nội bộ của cộng đồng doanh nhân với
sự cố kết, gắn bó làm nên sức mạnh của lớp doanh nhân nửa đầu thế kỷ
XX cũng như văn hóa ứng xử của cộng đồng doanh nhân trong quá trình
hoạt động kinh doanh. Qua quá trình tìm hiểu đặc điểm doanh nhân Việt
Nam với những giá trị nhân cách, bản sắc cộng đồng, tổ chức thiết chế...
luận án thể hiện cấu trúc của văn hóa kinh doanh Việt Nam được hình
thành trong lòng xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.


5
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam nửa đầu
thế kỷ XX, luận án sử dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vừa là cơ sở phương pháp
luận vừa là phương pháp nghiên cứu cơ bản và quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa. Bên cạnh
đó, luận án kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành (hay
cách tiếp cận liên ngành), phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
phỏng vấn sâu của xã hội học..., cụ thể như sau;
4.2.1. Phương pháp liên ngành
Văn hoá học là bộ môn nằm ở giao điểm của các ngành khoa học xã hội
và nhân văn, nói cách khác là một chuyên ngành không chuyên ngành (“non
discip linary” discipline). Đó cũng là phương pháp liên ngành/hậu liên ngành.
Theo tác giả Trần Ngọc Thêm, văn hoá học là khoa học chuyên sâu đặc biệt.
Cái đặc biệt là ở độ bao quát rộng các sự kiện và tính khái quát cao trong yêu
cầu khảo cứu (...). Văn hoá học là sự tổng hợp và khái quát hoá thế giới con
người về mặt định tính. Vì vậy, không có một khoa học xã hội và nhân văn
nào không liên quan đến văn hoá học [xem 96]. Và chính do vậy, như đã nói
ở trên, văn hoá học là một ngành khoa học giáp ranh giữa khoa học xã hội và
khoa học nhân văn. Hơn nữa đề tài luận án “Văn hoá kinh doanh của doanh
nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX” là đề tài nằm trên ranh giới giữa Văn hoá học,

Nhân học, Xã hội học, Kinh tế học và Đạo đức học nên việc sử dụng phương
pháp liên ngành vào nghiên cứu là rất cần thiết và phù hợp. Nó cho phép sử
dụng các khái niệm, phạm trù, các kết quả nghiên cứu của các chuyên ngành
trên vào hệ thống, khái quát các vấn đề mà đề tài đặt ra.
Sử dụng phương pháp liên ngành vào đề tài luận án còn giúp tác giả
khai thác và xử lý hiệu quả các nguồn tư liệu khác nhau trong vấn đề nghiên
cứu của đề tài.


6
4.2.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp phân tích được sử dụng để đánh giá, phân loại các loại tài
liệu dùng trong quá trình nghiên cứu đề tài. Sử dụng phương pháp phân tích,
để tìm ra đặc điểm văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các tài liệu thứ cấp.
Phương pháp tổng hợp sẽ giúp nghiên cứu sinh tìm hiểu nhiều nguồn tài liệu
liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Từ những dữ liệu thu thập được qua quá
trình tổng hợp tài liệu, nghiên cứu sinh lựa chọn, phân tích, dựa trên các cơ sở
lý luận để đưa ra luận chứng và giải quyết vấn đề.
Để phục vụ việc nghiên cứu đề tài của luận án, tác giả đã thu thập, tổng
hợp và phân tích hồi cố một số nguồn tài liệu từ Trung tâm Lưu trữ quốc gia
I, Viện Thông tin khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam, Thư viện quốc gia Việt Nam; những đề tài, đề án, các công trình khoa
học viết về văn hoá kinh doanh và đặc biệt những tài liệu về các doanh nhân
đầu thế kỷ XX và những hoạt động kinh doanh của họ. Từ những tài liệu đơn
lẻ về hoạt động của các công ty, những bài viết trên tạp chí, kể cả những bài
quảng cáo tiếp thị sản phẩm..., luận án khái quát về quy mô, hoạt động của
các tổ chức sản xuất kinh doanh... của doanh nhân nửa đầu thế kỷ XX.
4.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Trong nghiên cứu khoa học, để thu nhận và xử lý kết quả sát với vấn đề

nghiên cứu, đòi hỏi kiến thức chuyên ngành, sự nhạy cảm về mặt tâm lý, sự
am hiểu về đối tượng được hỏi... Để có được kết quả sát với yêu cầu của đề
tài luận án, tác giả đã phân loại, soạn câu hỏi phỏng vấn phù hợp với từng
nhóm đối tượng như sau:
- Những nhà nghiên cứu lịch sử, văn hoá, kinh tế. Để tìm hiểu về ý
nghĩa, vai trò của tầng lớp doanh nhân đối với dân tộc, đất nước buổi đầu thế
kỷ XX, tác giả đã tiến hành phỏng vấn 3 nhà nghiên cứu gồm các nhà sử học


7
và kinh tế học. Nội dung phỏng vấn đi sâu vào những ý kiến nhận xét đánh
giá của các chuyên gia về những giá trị trong văn hóa kinh doanh, về sự tồn
tại và phát triển tất yếu của doanh nhân giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
- Doanh nhân và hậu duệ của tầng lớp doanh nhân đầu thế kỷ XX.
Đây là những nhân chứng sống trực tiếp kinh doanh hoặc là con cháu của
gia đình doanh nhân. Để thu nhập các ký ức, các cảm nhận của họ về sự
nghiệp kinh doanh và văn hoá kinh doanh của cha ông họ, tác giả đi sâu
tìm hiểu truyền thống gia đình, những hình ảnh hoặc câu chuyện về sự
nghiệp kinh doanh của doanh nhân.
- Một số doanh nhân Việt Nam hiện nay. Đây là thế hệ doanh nhân
đang trực tiếp kinh doanh trên thương trường. Tác giả đã tiếp cận 3 doanh
nhân, trong đó có doanh nhân là chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ, có doanh nhân
là nhà quản lý của tập đoàn kinh tế lớn; qua đó thấy được họ suy nghĩ như thế
nào trước các doanh nhân tiền bối, họ học tập được gì ở lớp doanh nhân ấy để
xây dựng văn hoá kinh doanh hiện nay.
4.2.4. Phương pháp so sánh và đối chiếu
So sánh, đối chiếu là một phương pháp nghiên cứu được dùng trong
nhiều ngành khoa học khác nhau, đặc biệt phổ biến trong nghiên cứu nhân
học văn hoá, văn hoá dân gian và văn hoá học. Tuỳ vào đặc điểm bản chất của
đối tượng nghiên cứu, vào nhiệm vụ nghiên cứu của từng ngành khoa học mà

phương pháp này sẽ phát huy vai trò quan trọng.
Với luận án nghiên cứu về văn hoá kinh doanh của doanh nhân cách
đây gần một thế kỷ, phương pháp so sánh và đối chiếu là một phương pháp
thích hợp để tham chiếu điều kiện lịch sử trong hai giai đoạn khác nhau, đặc
điểm khác nhau trong văn hoá kinh doanh của từng thời kỳ.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án làm rõ khái niệm văn hoá kinh doanh và vai trò của nó; phân
tích đặc điểm văn hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ


8
XX. Từ đó rút ra những ý nghĩa lịch sử và những vấn đề đặt ra cho doanh
nhân Việt Nam trong xây dựng và phát triển văn hoá kinh doanh hiện nay.
Luận án có những nhận xét, đánh giá khách quan đặc điểm, giá trị văn
hoá kinh doanh của doanh nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Kết quả nghiên cứu của luận án là tư liệu tham khảo cho các nghiên
cứu về lịch sử doanh nhân và văn hoá kinh doanh Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận án có kết cấu gồm 4 chương, 11 tiết:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và lý
luận về văn hóa kinh doanh.
Chương 2: Sự hình thành và hoạt động kinh doanh của tầng lớp doanh
nhân Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Chương 3: Nhận diện văn hoá kinh doanh của tầng lớp doanh nhân Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Chương 4: Bàn luận về doanh nhân và văn hóa kinh doanh Việt Nam truyền thống và hiện đại.


9

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về văn hóa kinh doanh
Văn hoá kinh doanh được xem như là một nhân tố quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Cho đến nay vẫn chưa thể khẳng định
khái niệm văn hoá kinh doanh đã xuất hiện từ khi nào, song ý niệm về văn
hoá kinh doanh đã xuất hiện từ lâu trong các nước có nền kinh tế thị trường
phát triển. Nghiên cứu các tài liệu về văn hoá kinh doanh trong nước và trên
thế giới, chúng ta thấy có một số nội dung sau:
1.1.1.1. Nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới, các công trình nghiên cứu về các yếu tố văn hoá trong
kinh doanh xuất hiện khá sớm. Ngay từ thế kỷ XVIII, Adam Smith (17221790), nhà kinh tế học nước Anh đã cho rằng kinh tế không thể vận hành
nếu thiếu hiểu biết về vai trò của quan điểm đạo đức. Quan điểm đạo đức
được đề cập ở đây chính là một phương diện của văn hoá kinh doanh.
Benjamin Franklin (1706-1790), nhà chính trị, nhà khoa học Mỹ gốc Anh đã
viết “Hãy nhớ rằng sự tín nhiệm (credit) là tiền bạc”, “Hãy nhớ câu châm
ngôn: người trả tiền đàng hoàng là người chủ của túi tiền người khác”,
“Anh hãy xuất hiện như một người chu đáo và lương thiện, điều này sẽ làm
tăng tín nhiệm của anh” [xem 65,tr.89-90]. Max Werber cho rằng đó là “hình
ảnh văn hoá Mỹ” hay “đạo đức kinh tế”. Đây không chỉ đơn giản là “mẹo
kinh doanh” - những lời dạy như vậy có rất nhiều - đó là một ethos (thói quen,
tập quán hay lối sống) hay “phẩm chất” của người làm kinh doanh. Đây được
xem là tinh thần của văn hoá kinh doanh [65, tr.90-91].
Từ những năm 1970, khái niệm đạo đức kinh doanh, một nội dung
tương đồng với văn hóa kinh doanh trở nên phổ biến trên các diễn đàn học



10
thuật và các phương tiện truyền thông. Từ những năm 1980, tại các trường đại
học ở một số quốc gia, môn học Đạo đức kinh doanh (business ethics) đã
được đưa vào chương trình giảng dạy. Tiêu biểu là cuốn “Business Ethics,
Ethical Decision making and cases” của O. C. Farrell, J. Fraedrich, L. Farrell
[121]. Đây là một trong những tài liệu được sử dụng rộng rãi trong giảng dạy
đạo đức kinh doanh tại một số trường đại học trên thế giới. Trong đó, các tác
giả trình bày về đạo đức kinh doanh từ góc độ quản lý / tổ chức. Tác phẩm
trình bày tổng quan về đạo đức kinh doanh, đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan
trọng của đạo đức kinh doanh với sự phát triển bền vững trong nền kinh tế
toàn cầu và mối quan hệ giữa các bên liên quan, trách nhiệm xã hội và quản
trị doanh nghiệp. Tài liệu cũng đưa ra những tình huống cụ thể trong môi
trường phức tạp đòi hỏi các nhà quản lý ra quyết định thể hiện trách nhiệm,
vai trò của doanh nghiệp với xã hội.
Bài viết Business Ethics and Corporate Social Responsibility - Is there
a Dividing Line của tác giả Mridula Goel, Preeti E. Ramanathan [119]. Trong
đó, các tác giả đã đưa ra khái niệm về đạo đức kinh doanh, các nguyên tắc
luân lý và ra quyết định, vấn đề quản trị và quy tắc ứng xử của doanh nghiệp;
khẳng định trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) là một yếu tố cấu thành
của đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội doanh nghiệp cần được nhìn nhận
trong bối cảnh của một mô hình tổng thể của đạo đức kinh doanh. Bài viết
nghiên cứu vai trò của đạo đức và trách nhiệm xã hội chi phối các hoạt động
của một công ty và các hệ thống giá trị làm nền tảng cho hoạt động kinh
doanh của họ.
Ngày nay, các nghiên cứu về văn hóa kinh doanh càng được quan tâm
nhiều hơn. Vấn đề văn hoá kinh doanh được nghiên cứu theo hai hướng: thứ
nhất, quan niệm văn hoá kinh doanh là văn hoá doanh nghiệp (corporate culture)
như Organisational Culture của tác giả Andrew Brown, Culture and
Enterprise - development, representation and morality of business của



11
Donlavoie và Emily Chamlee. Nhiều mô hình văn hoá doanh nghiệp được
xây dựng như mô hình văn hoá tháp Eiffel, mô hình văn hoá tên lửa dẫn
đường... Thứ hai, quan niệm văn hoá kinh doanh là sự hiểu biết phong tục,
tập quán kinh doanh, những đặc điểm về văn hóa truyền thống của một quốc
gia, dân tộc hoặc khu vực cụ thể như cuốn Business Passport to Japan của
tác giả Sue Shinomiya và Brian Szepkouski, Business Culture in Euroque
của W. Brierley, et al (2012), hay Managing Cultural Differences, của
Robert T. Moran,... Các tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thấu hiểu
khi giao tiếp và làm việc với đối tác tại các nước và các nền văn hóa khác
nhau trên thế giới để đạt được lợi nhuận tốt nhất và hiệu suất cao nhất. Đặc
biệt, cuốn When culture collide - Managing successfully [122] của Richard
D. Lewis đã được tái bản nhiều lần, đi sâu tìm hiểu sự đa dạng văn hoá; sự
khác biệt về văn hóa trong kinh doanh quốc tế, tác giả nhấn mạnh mỗi quốc
gia có những đặc tính văn hóa kinh doanh khác nhau; mỗi nền văn hóa có
các tiêu chí đánh giá vì vậy cần tôn trọng văn hoá của các dân tộc khác
nhau; phân loại các nền văn hoá và cú sốc văn hoá. Tác giả cũng đề cập đến
vấn đề quản lý và lãnh đạo trong các nền văn hóa khác nhau, để giành lợi thế
cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế cần có những ứng xử hợp lý với sự khác
biệt về văn hoá; tìm hiểu văn hoá các nước trên thế giới, giới thiệu một số
quốc gia trong đó có Việt Nam.
Như vậy, các nghiên cứu về văn hoá kinh doanh ở nước ngoài dù được
tiếp cận ở các hướng khác nhau nhưng đều nhấn mạnh yếu tố bền vững, nhân
văn trong kinh doanh và trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội.
1.1.1.2. Nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, đầu thế kỷ XX, vấn đề “đạo làm giàu”, “thương đức,
thương tài”, “giữ chữ tín” đã được đề cập trong nhiều tài liệu như Thương học
phương châm của Lương Văn Can [11] cũng như trên rất nhiều bài viết báo
chí. Đây được coi là những chuẩn mực trong kinh doanh mà các doanh nhân



12
phải tuân thủ. Tuy nhiên, khái niệm về văn hoá kinh doanh mới chỉ được quan
tâm nghiên cứu khi công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng gắn
với sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đầu tiên khái niệm văn hoá kinh doanh xuất hiện trong Hội thảo khu
vực châu Á - Thái Bình Dương về chủ đề “Văn hoá và kinh doanh” do Trung
tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia tổ chức năm 1995. Trong cuốn kỷ
yếu đề tài có một số bài đề cập trực tiếp về văn hoá kinh doanh như bài “Văn
hoá kinh doanh ở nước ta - thực trạng và giải pháp” của tác giả Đỗ Huy. Theo
tác giả Đỗ Huy, “văn hoá kinh doanh là một bộ phận cấu thành nền văn hoá
chung, phản ánh trình độ của con người trong lĩnh vực kinh doanh”, “bản chất
của văn hoá kinh doanh là làm cho cái lợi gắn chặt chẽ với cái đúng, cái tốt,
cái đẹp”. Đây cũng là quan niệm được nhiều nhà nghiên cứu ghi nhận trong
các công trình về lĩnh vực này.
Cuối những năm 1990, đầu những năm 2000, văn hoá kinh doanh đã
được nghiên cứu và đưa vào giảng dạy tại một số trường đại học kinh tế như:
Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Thương mại, Đại học Kinh tế (thuộc Đại
học Quốc gia Hà Nội), Đại học Ngoại thương... với các nhà nghiên cứu như:
Đỗ Minh Cương, Dương Thị Liễu, Phùng Xuân Nhạ, Nguyễn Hoàng Ánh,...
Trong số những tài liệu chuyên sâu về văn hóa kinh doanh có cuốn Triết lý kinh
doanh với quản lý doanh nghiệp do Nguyễn Thị Doan, Đỗ Minh Cương chủ
biên [17]. Các tác giả phân tích và nhấn mạnh vai trò của triết lý kinh doanh
trong hoạt động của các doanh nghiệp, có vai trò định hướng, dẫn dắt các hoạt
động của chủ thể kinh doanh.
Cũng về đề tài này, Đỗ Minh Cương còn biên soạn cuốn sách Văn hóa
kinh doanh và triết lý kinh doanh [15]. Trong cuốn sách, tác giả đã đề cập đến
vấn đề văn hoá kinh tế, văn hoá kinh doanh, triết lý kinh doanh, những kiến



13
thức chung về văn hoá và vai trò của văn hoá đối với sự phát triển kinh tế xã
hội; nội dung, vai trò của triết lý doanh nghiệp; triết lý kinh doanh Việt Nam.
Theo tác giả “Văn hoá kinh doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hoá vào
trong hoạt động kinh doanh của chủ thể, là cái văn hoá mà các chủ thể kinh
doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh hình thành nên những kiểu kinh
doanh ổn định và đặc thù của họ” [15,tr.69-70]. Văn hoá kinh doanh của các
nhà kinh doanh, doanh nghiệp… được nhận biết từ hai phương diện chính:
một là các nhân tố văn hoá (hệ giá trị, tâm lý dân tộc, triết lý chung mà chủ
thể lựa chọn từ văn hoá dân tộc, tức là lối kinh doanh có văn hoá, kiểu kinh
doanh phù hợp với văn hoá các dân tộc; hai là các giá trị, sản phẩm văn
hoá như hệ giá trị, triết lý, tập tục riêng, nghệ thuật… mà chủ thể kinh
doanh tạo ra trong quá trình hoạt động, tức là lối sống có văn hoá của các
chủ thể kinh doanh. Tác giả khẳng định văn hóa kinh doanh là một bộ phận
của văn hóa kinh tế, “văn hóa kinh doanh Việt Nam chính là kiểu, cách
thức làm kinh tế của người Việt Nam khi ta so sánh với kiểu kinh doanh
của các dân tộc, quốc gia khác để tìm ra những đặc thù văn hóa có tính bền
vững của nó” [15,tr.183]. Văn hóa kinh doanh là một hệ thống với nhiều
thành tố khác nhau; cả yếu tố tích cực và tiêu cực, vì vậy, muốn nhận diện
đúng về văn hóa kinh doanh Việt Nam cần nhận thức đầy đủ tính hai mặt của
nó. Phần triết lý kinh doanh, theo tác giả, đó là những tư tưởng triết học phản
ánh thực tiễn kinh doanh thông qua con đường trải nghiệm, suy ngẫm và khái
quát hoá của các chủ thể kinh doanh. Tác giả cũng trình bày sơ lược về sự
hình thành và phát triển triết lý kinh doanh ở nước ta, đặc điểm triết lý kinh
doanh Việt Nam trong các thời kỳ.
Trong cuốn Giáo trình Đạo đức kinh doanh và văn hóa công ty [84],
tác giả Nguyễn Mạnh Quân cho rằng đạo đức kinh doanh gồm những nguyên
tắc và chuẩn mực có tác dụng hướng dẫn hành vi trong mối quan hệ kinh doanh;



14
chúng được những người có liên quan (như người đầu tư, khách hàng, người
quản lý, người lao động, đại diện cơ quan pháp lý, cộng đồng dân cư, đối tác, đối
thủ…) sử dụng để phán xét một hành động cụ thể là đúng hay sai, hợp đạo đức
hay phi đạo đức [84 tr.18]. Tác giả cũng cho rằng văn hoá công ty hay văn hoá
doanh nghiệp cũng chính là văn hoá tổ chức, văn hoá kinh doanh. Văn hoá
công ty là một hệ thống các ý nghĩa, giá trị, niềm tin chủ đạo (cách) nhận thức
và phương pháp tư duy được mọi thành viên của một tổ chức cùng đồng thuận
và có ảnh hưởng ở phạm vi rộng đến cách thức hành động của từng thành
viên. Văn hoá công ty thể hiện sự đồng thuận về quan điểm, sự thống nhất
trong cách tiếp cận và trong hành vi của các thành viên một tổ chức, công ty.
Đó là bản sắc riêng hay bản sắc văn hoá của một tổ chức mà mọi người có thể
xác định được và thông qua đó có thể nhận ra được quan điểm và triết lý đạo
đức của một tổ chức, công ty. Văn hoá kinh doanh là biểu hiện của đạo đức
kinh doanh của tổ chức. Như vậy, tác giả đã đồng nhất văn hoá công ty/văn
hoá doanh nghiệp với văn hoá tổ chức/văn hoá kinh doanh và văn hoá kinh
doanh với đạo đức kinh doanh. Bên cạnh đó, các phân tích còn chưa rõ ràng
giữa các khái niệm.
Giáo trình văn hóa kinh doanh do Dương Thị Liễu chủ biên [54] là
cuốn giáo trình phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy của trường Đại học
Kinh tế quốc dân và một số trường đại học kinh tế khác. Trong đó, các tác giả
cung cấp kiến thức tổng quan về văn hoá kinh doanh và các yếu tố cấu thành
văn hoá kinh doanh; phân tích sự đa dạng, phong phú của văn hoá kinh doanh
Việt Nam và quốc tế; giới thiệu một số tình huống trong văn hoá kinh doanh.
Tác giả đưa ra khái niệm văn hoá kinh doanh theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, văn hoá kinh doanh là toàn bộ các giá trị vật chất và các
giá trị tinh thần do chủ thể kinh doanh sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt
động kinh doanh, trong sự tương tác giữa chủ thể kinh doanh với môi trường



15
kinh doanh [54, tr.43]. Theo nghĩa hẹp, văn hoá kinh doanh là một hệ thống
các giá trị, các chuẩn mực, các khái niệm và hành vi do chủ thể kinh doanh
tạo ra trong quá trình kinh doanh, được thể hiện trong cách ứng xử của họ
với xã hội, tự nhiên ở một cộng đồng hay một khu vực [54,tr.43]. Văn hoá
kinh doanh là toàn bộ các giá trị văn hoá được chủ thể kinh doanh sử dụng và
tạo ra trong hoạt động kinh doanh tạo nên bản sắc kinh doanh của chủ thể đó.
Văn hoá kinh doanh là làm cho cái lợi gắn bó với cái đúng, cái tốt, cái đẹp.
Theo các tác giả, văn hoá kinh doanh được cấu thành bởi các yếu tố chính là
triết lý kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn hoá doanh nhân, văn hoá doanh
nghiệp và văn hoá ứng xử trong hoạt động kinh doanh. Nhận diện văn hoá
kinh doanh của Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử, tác giả dành ra gần
chục trang khái quát về văn hoá kinh doanh thời kỳ Pháp thuộc với hai tấm
gương doanh nhân tiêu biểu là Lương Văn Can và Bạch Thái Bưởi. Có thể
nói, đây là một trong những tài liệu rất có giá trị, nghiên cứu chuyên sâu về
văn hoá kinh doanh và là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho những người quan
tâm về lĩnh vực này.
Trong tài liệu Nhân cách doanh nhân và văn hoá kinh doanh ở Việt Nam
trong thời kì đổi mới, hội nhập quốc tế [75], các tác giả Phùng Xuân Nhạ,
Dương Thị Liễu, Đỗ Minh Cương trình bày khái niệm, cấu trúc của nhân cách
doanh nhân, văn hoá doanh nhân và khẳng định nhân cách doanh nhân, văn
hoá doanh nhân chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất
là yếu tố thể chế kinh tế, môi trường kinh doanh. Theo các tác giả “Nhân
cách doanh nhân Việt Nam là tổng hoà các yếu tố hợp thành mẫu hình con
người doanh nhân Việt Nam bao gồm đức, tài, phong cách, thể chất, sự
cống hiến và phát triển... có đặc điểm tâm lý và bản sắc riêng so với cộng
đồng và tầng lớp khác trong xã hội nước ta cũng như so với doanh nhân các
nước khác” [75, tr.18].



16
Cấu trúc của nhân cách doanh nhân gồm: đức, trí, thể, lợi, trong đó yếu
tố lợi vừa là mục tiêu, vừa là động lực tạo nên thành công của doanh nhân, trí
là yếu tố tiền đề, thể là yếu tố “giá đỡ”, đức là yếu tố quan trọng nhưng cũng
là điểm yếu của doanh nhân Việt Nam. Từ nghiên cứu về văn hoá và giá trị
văn hoá, các tác giả đưa ra định nghĩa “văn hoá kinh doanh là một hệ thống
các giá trị, chuẩn mực, quan niệm và hành vi do chủ thể kinh doanh tạo ra
trong quá trình kinh doanh, được thể hiện trong cách ứng xử của họ với xã hội
- tự nhiên ở một cộng đồng hay khu vực nào đó” [75,tr.42]. Văn hoá kinh
doanh bao gồm văn hoá doanh nghiệp, văn hoá trong tiêu dùng, văn hoá trong
đàm phán kinh doanh, văn hoá trong marketing, xúc tiến xây dựng và quảng
bá thương hiệu. Còn văn hoá doanh nghiệp gồm một hệ thống các giá trị như
coi trọng khách hàng, giữ chữ tín, đề cao con người, tôn trọng môi trường do
doanh nghiệp sáng tạo và tích luỹ trong quá trình hoạt động kinh doanh, trong
mối quan hệ với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Bên cạnh đó còn có một số luận án tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề văn
hoá kinh doanh và văn hoá doanh nhân... ở nước ta như:
Nguyễn Hoàng Ánh với luận án Vai trò của văn hoá trong kinh doanh quốc
tế và vấn đề xây dựng văn hoá kinh doanh ở Việt Nam [3]. Tác giả đề cập đến
khái niệm văn hoá kinh doanh; những nét đặc trưng của văn hoá kinh doanh và
các yếu tố cấu thành văn hoá kinh doanh. Theo tác giả, văn hoá kinh doanh của
một quốc gia bao gồm bốn yếu tố: văn hoá doanh nghiệp, văn hoá kinh doanh
trong marketing; văn hoá đàm phán và văn hoá tiêu dùng. Tác giả tiếp cận văn hoá
kinh doanh Việt Nam dưới góc nhìn của kinh doanh quốc tế. Từ phân tích tình
hình thực trạng văn hoá kinh doanh nước ta, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm
xây dựng văn hoá kinh doanh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Vũ Tiến Dũng với Tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong kết cấu xã hội
- giai cấp thời kỳ đổi mới [19]. Dưới góc độ triết học, tác giả luận án phân tích



17
vị trí, vai trò và xu hướng biến đổi của tầng lớp doanh nhân Việt Nam trong
kết cấu xã hội giai cấp thời kỳ đổi mới. Đề xuất những giải pháp thiết thực để
phát huy hơn nữa vai trò của tầng lớp doanh nhân ở nước ta.
Nguyễn Thị Ngọc Anh với luận án Vấn đề văn hoá kinh doanh ở nước
ta hiện nay [2] được bảo vệ tại Học viện khoa học xã hội. Theo tác giả, văn
hoá kinh doanh là một bộ phận cấu thành nền văn hoá chung của một dân tộc,
phản ánh hoạt động kinh doanh và mức độ gắn kết giữa cái lợi với những giá
trị chân - thiện - mỹ của con người trong từng giai đoạn lịch sử. Như vậy dưới
góc nhìn triết học, tác giả đã nêu được bản chất của văn giá kinh doanh, thuộc
tính văn hoá trong kinh doanh. Tác giả cũng cho rằng văn hoá doanh nghiệp
nằm trong văn hoá kinh doanh, văn hoá kinh doanh là một bộ phận của văn
hoá dân tộc. Luận án giới thiệu về văn hoá kinh doanh ở Việt Nam theo hai
giai đoạn, trước và sau đổi mới, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm phát triển
văn hoá kinh doanh gồm khơi dậy những giá trị dân tộc, học hỏi kinh nghiệm
quốc tế, tiếp tục hoàn thiện môi trường thể chế kinh doanh…
Ngoài ra, gần gũi với văn hóa kinh doanh còn có luận án Văn hoá
doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Nguyễn Viết Lộc
[57]. Tác giả đưa ra định nghĩa về văn hoá doanh nhân, các yếu tố ảnh hưởng
đến văn hoá doanh nhân Việt Nam và hệ giá trị doanh nhân Việt Nam. Trên cơ
sở khảo sát kiểm định hệ giá trị văn hoá doanh nhân Việt Nam, đánh giá thực
trạng, xu hướng biến đổi của nó và nêu lên một số quan điểm, giải pháp nhằm
xây dựng văn hoá doanh nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Luận án tiến sĩ kinh tế Văn hoá kinh doanh Hoa Kỳ và bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam của Nguyễn Tuấn Minh [68] bảo vệ tại Học viện khoa
học xã hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam năm 2013. Dưới góc độ
nhân học văn hoá, tác giả cho rằng, văn hoá kinh doanh là một hệ thống các biểu
trưng cụ thể về vật chất, các giá trị, các chuẩn mực, các quan niệm và các khuôn

mẫu quy định hành vi, hay cách ứng xử trong hoạt động kinh doanh của các


18
thành viên trong một cộng đồng, hay một xã hội nhất định. Đặc trưng của văn
hoá kinh doanh bao gồm: tính tập quán, tính cộng đồng, tính dân tộc, tính chủ
quan, tính khách quan, tính kế thừa, tính học hỏi, tính tiến hoá. Tác giả phân tích
văn hoá kinh doanh Hoa Kỳ, tính cách của người Mỹ trong kinh doanh và so
sánh đối chiếu với văn hoá kinh doanh Việt Nam, từ đó đưa ra các bài học kinh
nghiệm cho xây dựng văn hóa kinh doanh ở Việt Nam.
Ngoài ra còn một số bài viết trên tạp chí cũng đề cập đến văn hóa kinh
doanh và xây dựng văn hóa kinh doanh.
Bài “Bàn về đạo kinh doanh của người Việt” của Dương Trung Quốc
[85] tập trung bàn về hai khái niệm “Kinh doanh” và “Đạo kinh doanh” nhằm
mục đích đưa ra một khái niệm “Đạo kinh doanh” của riêng người Việt.
Từ những tư liệu lịch sử về Bùi Thị Hý, một nhà buôn lớn của Việt Nam ở thế
kỷ XV, tình hình sản xuất và buôn bán đồ gốm Chu Đậu từ thế kỷ XV, đến
các doanh nhân đầu thế kỷ XX như Bạch Thái Bưởi, Trương Văn Bền,
Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn Hữu Thu,... tác giả đã khẳng định “chủ nghĩa dân
tộc” và “năng lực hội nhập” là hai đặc trưng mang tính truyền thống cũng là
bản lĩnh được tích tụ khi bàn về “đạo kinh doanh” của người Việt.
Một số bài nghiên cứu như “Xây dựng nền văn hoá kinh doanh”, của
Nguyễn Trần Bạt [5], “Văn hóa kinh doanh và một số giải pháp xây dựng văn
hóa kinh doanh Việt Nam” của Dương Thị Liễu [55],;... Với nhiều cách tiếp
cận khác nhau, các bài viết đã đề cập đến khái niệm, nội hàm của văn hoá
kinh doanh; vai trò của văn hoá kinh doanh với sự phát triển kinh tế hiện nay
và một số giải pháp xây dựng văn hoá kinh doanh ở Việt Nam.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về lớp doanh nhân Việt Nam đầu thế
kỷ XX và văn hóa kinh doanh của họ
Do điều kiện lịch sử, sự phát triển của doanh nhân Việt Nam đã có một

thời gian dài gián đoạn trong thế kỷ XX vừa qua. Những nghiên cứu về doanh
nhân giai đoạn đầu thế kỷ XX cũng không được quan tâm nhiều.


19
Liên quan đến đề tài, có một số công trình đề cập dưới các dạng khác nhau.
1.1.2.1. Tài liệu trước năm 1945
Khái niệm “văn hóa kinh doanh” ở Việt Nam chưa từng được xuất hiện
trong những năm đầu thế kỷ XX nhưng những giá trị về chữ tín, về đạo kinh
doanh cũng đã được các doanh nhân coi như chuẩn mực để hướng tới. Vì vậy,
tác giả tìm tòi tài liệu giới thiệu về những doanh nhân (là những nhà tư sản,
nhà công thương) giai đoạn này và những hoạt động kinh doanh của họ qua
các bài viết trên những trang báo, tài liệu còn lưu trữ được tại Trung tâm lưu
trữ quốc gia, Thư viện Quốc gia Việt Nam... Qua đó, khắc họa đôi nét về tình
hình kinh doanh của doanh nhân người Việt và văn hóa kinh doanh của họ.
Trước năm 1945, một số tài liệu về sự hình thành tầng lớp doanh nhân
Việt Nam xuất hiện. Mở đầu trong những tài liệu về đổi mới văn hoá giáo
dục, phát động kinh doanh thực nghiệp là tác phẩm Văn minh tân học sách
(trong tập Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX [63]). Đây được coi là
tác phẩm tuyên ngôn của phong trào Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục.
Trong cuốn Văn minh tân học sách, các nhà Duy Tân đã chỉ rõ nguyên
nhân “khởi điểm” gây ra sự yếu kém của người Việt là: nội hạ, ngoại di,
không thèm hỏi đến chính thuật và kỹ năng của nước khác; quý đạo vương,
khinh đạo bá, không thèm giảng đến cái học phú cường cơ xảo của nước
ngoài; cho xưa là phải, nay là quấy, không chịu xem xét kiến thức và những
sự suy nghĩa bàn luận của người sau; trọng quan và khinh dân, không thèm kể
đến tình hình hay dở ở chốn hương thôn [63, tr.214].
Trên các báo, tạp chí xuất hiện nhiều bài viết cổ suý phát động phong
trào kinh doanh thực nghiệp.
Trước hết phải kể đến báo kinh tế đầu tiên ở nước ta là Nông cổ mín

đàm với mục Thương cổ luận do Lương Dũ Thúc (bút danh của Lương Khắc
Ninh) đăng ngay trang nhất, phân tích tỉ mỉ những hạn chế của người Việt trong


20
kinh doanh, “cầm tay chỉ việc” cho những người muốn thực hành buôn bán như:
cách lập sổ sách, các lĩnh vực nên kinh doanh nhằm cổ súy phát triển thương
mại. Trần Chánh Chiếu - doanh nhân tiêu biểu, người đứng đầu dẫn dắt phong
trào kinh doanh tại Nam Kỳ cũng đã viết nhiều bài trên các báo Nông cổ mín
đàm. Tờ Đăng cổ tùng báo cũng đăng tải nhiều bài viết của Nguyễn Văn Vĩnh
hô hào lập hội buôn, chấn hưng kinh tế… Sau này, vấn đề này được đăng tải
thường xuyên trên các tờ báo Thực nghiệp dân báo, Hữu thanh, Lục tỉnh tân
văn, Đông Dương tạp chí…
Phong trào phát triển thương mại, cạnh tranh với thương nhân nước
ngoài lên cao từ sau năm 1919. Nhiều bài viết được đăng tải trên các phương
tiện báo chí nhằm khích lệ dân chúng, nhất là giới doanh nhân tham gia kinh
doanh, đoàn kết, góp sức chung vốn làm giàu như bài Nghề buôn phải dọ giá,
[92], Thương mãi - tái luận, [51]; Tâm bổn tân thương - Annam xin ghé mắt, ghi
đề kế lâu dài [53],... Bài Việt Nam đoàn thể hội- An Nam thương cuộc công ty
[47] tường thuật cuộc họp của Annam Thương cuộc công ty, gồm Nguyễn
Phú Khai (hội trưởng), Trần Quang Nghiêm, Nguyễn Chánh Sắt,... trong đó
có phân công cụ thể công việc từng thành viên, kế hoạch quảng bá mục đích,
hình ảnh của công ty...
Trên diễn đàn báo chí có nhiều bài viết kêu gọi người Việt dùng hàng
trong nước, đầu tư kinh doanh, lập thương hội, đoàn kết để cạnh tranh với
thương nhân người Hoa, người Ấn như bài Chớ nên để bọn Kiều thương
khinh dễ [62] nêu lên nỗi xót xa trước thực trạng nền kinh doanh trong tay
thương nhân Hoa kiều và kêu gọi mọi người đoàn kết chung tay tiến hành
công cuộc tranh thương với tư bản Hoa kiều và chỉ ra một số cách để mở cửa
hàng buôn bán, kinh doanh. Bài “Muốn nước giàu dân thịnh kíp dùng đồ nội

hóa” [42] phản ánh tình trạng sính ngoại và sự tràn ngập đồ ngoại trên thị
trường, kêu gọi dân chúng sử dụng đồ nội hóa để kích thích sản xuất trong


21
nước. Bài “Hiện tình buôn bán người mình còn thua người khách” [39],
Thương mãi luận, [31], bàn về việc cạnh tranh yếu kém của các nhà buôn
người Việt, khích lệ các hiệu buôn người Việt tranh thương với thương nhân
Hoa kiều, Pháp kiều.
Đặc biệt, thời gian này xuất hiện một số tác phẩm dạy nghề buôn bán
như cuốn Thương hội chỉ nam của Trần Ngọc Bích (1924). Tác giả trình bày
một số hiểu biết cơ bản về việc lập Hội buôn bán và công ty cổ phần để kinh
doanh buôn bán; Luật lập Hội buôn ngày 24/6/1867 của nước Pháp (đã dịch
sang tiếng tiếng Việt) cho những nhà buôn Annam tham khảo.
Tuy nhiên, phải đến khi xuất hiện cuốn Thương học phương châm
của tác giả Lương Văn Can [11]- người được coi là “người thầy của các
nhà buôn”, những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh doanh buôn bán của
người Việt mới được phân tích sâu sắc và khá đầy đủ. Đây được coi là
cuốn “sách giáo khoa” đầu tiên về kinh doanh buôn bán. Trong tác phẩm
dày 36 trang này, Lương Văn Can đã nêu lên được đặc tính, thái độ của
người Việt với việc kinh doanh buôn bán và những điểm yếu khiến người
Việt không phát triển lĩnh vực này, từ đó “chỉ đường cho nhà buôn” nhằm
phát triển thương nghiệp buôn bán ở nước ta.
Nổi bật trên Nam Phong tạp chí có bài viết Chấn chỉnh thương
trường - một cái gương cho thương giới nước ta: ông Bạch Thái Bưởi, của
tác giả Thượng Chi (Phạm Quỳnh) [12] nhằm giới thiệu sự nghiệp, tài
năng, đạo đức kinh doanh của “ông vua đường thuỷ” Bạch Thái Bưởi niềm tự hào của giới doanh nhân lúc bấy giờ “Ông thật làm vẻ vang cho
nòi giống nước ta và rửa được cho ta cái tiếng là dân nước An Nam không
làm được sự buôn bán to” [12, tr.281]. Cũng trên Nam Phong tạp chí số 39
tháng 9 năm 1920 có bài Nghề hàng hải mới nhóm ở nước ta: nói về tàu

Bình Chuẩn của công ty Bạch Thái, ca ngợi gương kinh doanh của doanh
nhân Bạch Thái Bưởi khẳng định bản lĩnh, tài năng của ông.


22
Bên cạnh những tài liệu chữ Quốc ngữ, tác giả cũng tham khảo một số
tài liệu bằng tiếng Pháp về tình hình hoạt động kinh doanh của người Việt
như: Báo cáo về Hợp tác xã Đồng Lợi “Les “Dong-Loi” sociétés coopératives
indegènes au Tonkin” trên “Bulletin économique de L’indochine” (Tạp chí
Kinh tế Đông Dương) [128] về hoạt động thủ công nghiệp, một số công ty
thương mại của các doanh nhân người Việt.
Một số tài liệu lưu trữ gồm những báo cáo về tình hình sản xuất, vốn
điều lệ, thông tin doanh nghiệp của các công ty do người Việt sở hữu như
Công ty Đồng Lợi Kiến An, công ty sản xuất gạch ngói Hưng Ký của Trần
Văn Thanh, công ty sản xuất gốm của Nguyễn Văn Giêm, công ty dệt lụa Lê
Quang Long...
Association amicale des employés indegènes de commerce et
d’industrie au Tonkin (Điều lệ của Công thương Đồng nghiệp Bắc kỳ) [124];
giới thiệu về Hội Công thương đồng nghiệp Bắc kỳ, về mục đích, tổ chức,
thành viên của Hội, các Hội đồng trị sự tại các thành phố lớn.
Associatuon Amicale des Employes Indigenes de Commerce et
d’Industrie du Tonkin et de l’Annam (A.M.E.C.I) (Điều lệ của Hội Trung
Bắc công thương đồng nghiệp) [125], bao gồm 53 điều, đề cập đến mục
đích, quy định gia nhập, hội đồng trị sự... của Hội.
1.1.2.2. Tài liệu sau năm 1945
Sau cách mạng tháng Tám, các nhà sử học quan tâm nghiên cứu về các
phong trào yêu nước, về giai cấp tư sản, qua đó hoạt động kinh doanh, văn
hóa kinh doanh của các doanh nhân đầu thế kỷ XX thấp thoáng trong nhiều
tác phẩm.
Thập niên 1950, trên các tạp chí xuất hiện một số bài viết về tư sản Việt

Nam, vốn là những doanh nhân trên thương trường như bài “Tình hình và đặc
tính của giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc” của tác giả Nguyễn Công


×