Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

đáp án bài tập nhóm hình sự 2 do có mâu thuẫn trong kinh doanh, p đã nhờ q đến đốt xưởng của n vào ban đêm hậu quả là toàn bộ nhà xưởng và máy móc của n đã bị thiêu rụi, thiệt hại 350 triệu đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.94 KB, 7 trang )

ĐÁP ÁN BÀI TẬP NHÓM HÌNH SỰ 2: DO CÓ MÂU THUẪN TRONG KINH
DOANH, P ĐÃ NHỜ Q ĐẾN ĐỐT XƯỞNG CỦA N VÀO BAN ĐÊM. HẬU
QUẢ LÀ TOÀN BỘ NHÀ XƯỞNG VÀ MÁY MÓC CỦA N ĐÃ BỊ THIÊU RỤI,
THIỆT HẠI 350 TRIỆU ĐỒNG.

ĐỀ BÀI SỐ 4
Do có mâu thuẫn trong kinh doanh, P đã nhờ Q đến đốt xưởng của N vào ban đêm.
Hậu quả là toàn bộ nhà xưởng và máy móc của N đã bị thiêu rụi, thiệt hại 350 triệu đồng.
Câu hỏi:
1. Định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với hành vi của P, Q. (2 điểm)
2. Giả sử khi đốt, Q không biết còn 1 công nhân của N bị say rượu ngủ quên trong
xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người. Q có phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết
của người công nhân này không? Tại sao? (3 điểm)
3. Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xoá
án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội của Q là tái phạm
hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao? (2 điểm)

TRẢ LỜI
1.

1. Định tội danh và khung hình phạt đối với hành vi của P và Q:
Định khung tội danh và khung hình phạt đối với P:
P phạm tội đồng phạm theo Điều 20 BLHS:
“1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.


2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người
đồng phạm.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.


Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện
tội phạm.”
Xét theo tình huống trong đề bài, P và Q đã cố ý cùng thực hiện một tội phạm là cố
ý hủy hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều 143 BLHS. Ở đây P chính là
người tổ chức, vì mâu thuẫn trong kinh doanh mà P đã chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc Q
thực hiện việc đốt xưởng của N vào ban đêm nhằm mục đích phá hoại tài sản trong
xưởng của N. Còn Q là người thực hành, Q là người trực tiếp đốt xưởng của N, gây thiệt
hại về máy móc và tài sản trong xưởng là 350 triệu đồng.
Chính vì vậy, P sẽ phải chịu TNHS về tội cố ý hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài
sản theo quy định tại khoản 3 Điều 143 BLHS với khung hình phạt tù từ bảy năm đến
mười lăm năm vì P là đồng phạm với Q.
Định tội danh và khung hình phạt đối với hành vi của Q:
Q phạm tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo quy định tại Điều
143 BLHS với những dấu hiệp pháp lí sau:
-

Mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội này là hành vi hủy hoại tài sản

hoặc hành vi làm hư hỏng tài sản. Ở đây, hành vi của Q là hủy hoại tài sản của N. Hành vi
hủy hoại là hành vi làm cho làm cho tài sản mất giá trị sử dụng ở mức độ không còn hoặc
khó có khả năng khôi phục lại được. Hành vi đó có thể là hành động (như đập phá, đốt…)


hoặc không hành động (như không tắt máy khi có sự cố dẫn đến máy bị hư hỏng hoàn
toàn…).
Q đã có hành vi hủy hoại tài sản của N bằng cách đốt xưởng làm cho máy móc và nhà
xưởng của N mất giá trị sử dụng.
-

Hậu quả của tội phạm: CTTP tội này đòi hỏi có hậu quả là tài sản bị hủy hoại


hoặc làm hư hỏng. Tội phạm được coi là hoàn thành khi hậu quả này đã xảy ra. Trong
tình huống, hành vi của Q đã gây ra hậu quả là hủy hoại tài sản của N. Tội của Q đã hoàn
thành vì hậu quả mà Q mong muốn là phá hủy tài sản của N đã xảy ra, thiệt hại tới 350
triệu đồng.
-

Quan hệ nhân quả: là dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội hủy hoại hoặc cố

ý làm hư hỏng tài sản. Người có hành vi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về thiệt hại tài
sản bị phá hủy hoặc hư hỏng nếu giữa hành vi của họ có mối quan hệ nhân quả, nghĩa là
thiệt hại do chính họ gây ra. Như vậy, hành vi của Q đốt xưởng của N dẫn đến hậu quả
nhà xưởng và máy móc của N bị thiêu rụi, thiệt hại 350 triệu đồng, đó chính là mối quan
hệ nhân quả, thiệt hại của N do chính Q gây ra nên Q phải chịu trách nhiêm hình sự về
thiêt hại tài sản của N.
-

Mặt chủ quan: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc

cố ý gián tiếp. Người phạm tội biết hành vi của mình có khả năng hủy hoại hoặc làm hư
hỏng tài sản nhưng đã thực hiện hành vi đó vì mong muốn tài sản bị hủy hoại hoặc vì đã
có ý thức chấp nhận thiệt hại đó xảy ra để đạt được mục đích khác của mình. Xét đề bài,
lỗi của Q là lỗi cố ý trực tiếp vì Q biết hành vi đốt xưởng của mình có khả năng hủy hoại
tài sản của N nhưng đã thực hiện hành vi đó vì mong muốn tài sản của N bị phá hủy.


Từ những phân tích trên, có thể định khung hình phạt đối với hành vi của Q theo
điểm a, khoản 3, Điều 143:
“ 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến
mười lăm năm:

a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu
đồng;”
Mà thiệt hại Q gây ra cho N là toàn bộ nhà xưởng và máy móc của N bị thiêu rụi,
không còn khả năng khôi phục, nên Q sẽ bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

2.

Giả sử khi đốt, Q không biết còn 1 công nhân của N bị say rượu ngủ quên

trong xưởng nên đã gây ra hậu quả chết người. Q có phải chịu trách nhiệm hình sự
về cái chết của người công nhân không? Tại sao?
Theo giả sử tình huống đã cho thì Q có phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết
của người công nhân với tội vô ý làm chết người theo Điều 98 BLHS. Tại vì:
Căn cứ vào tình huống đã cho thì Q phạm tội vô ý làm chết người: “Vô ý làm
chết người là hành vi của một người không thấy trước được hành vi của
mình có khả năng gây ra chết người mặc dù phải thấy trước và có thể
thấy trước hoặc tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra chết
người nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra”. Ta thấy Q trong tình huống
trên đã thỏa mãn những dấu hiệu pháp lí của tội này, đó là:
-

Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội vô ý làm chết người là chủ thể thường,

là người có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Trong tình huống đã cho không nói
rõ Q bao nhiêu tuổi, tuy nhiên có thể thấy Q là người có năng lực TNHS vì P nhờ Q đốt


xưởng nhằm mục đích giải quyết mâu thuẫn trong kinh doanh nên chắc chắn sẽ phải nhờ
một người có đầy đủ năng lực làm việc đó để đề phòng những sự việc bất lợi có thể xảy
ra.

-

Khách thể của tội phạm: là quyền được sống của con người, là một trong

những khách thể quan trọng nhất được luật hình sự bảo vệ. Đối tượng là con người đang
sống, những người đang tồn tại trong thế giới khách quan với tư cách là con người – thực
thể tự nhiên và xã hội. Như vậy, trong tình huống trên Q tước đoạt tính mạng trái pháp
luật của người công nhân đang say rượu ngủ trong xưởng, xâm phạm tới quan hệ nhân
thân được luật hình sự bảo vệ.
-

Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khánh quan của tội phạm: Người

phạm tội có hành vi vi phạm những quy tắc an toàn về tính mạng sức khỏe của con
người. Trong tình huống trên, chính hành vi Q đốt xưởng và máy móc của N đã khiến
công nhân của N đang ngủ quên trong xưởng bị chết. Đây là trường hợp hành động phạm
tội. Như vậy, hành vi của Q do không cẩn thận xem xét kỹ lưỡng trong khi đốt xưởng nên
đã dẫn tới hậu quả người công nhân chết trong đám cháy.
-

Hậu quả của tội phạm: Hậu quả của tội vô ý làm chết người là dấu hiệu bắt

buộc của CTTP. Hành vi đốt xưởng của Q đã gây ra hậu quả là làm cho người công nhân
bị chết. Nếu không có hậu quả làm người công nhân chết thì không cấu thành tội vô ý
làm chết người.
-

QHNQ giữa hành vi và hậu quả của tội phạm: là dấu hiệu bắt buộc của

CTTP. Người có hành vi vi phạm chỉ phải chịu TNHS về hậu quả chết người đã xảy ra

nếu nguyên nhân gây ra hậu quả chết người này là do hành vi của họ gây ra.Trong tình
huống trên thì hậu quả người công nhân chết là do hành vi của Q gây ra (đốt xưởng). Q


đốt xưởng của N nhằm thiêu rụi xưởng và máy móc của N nhưng do không cẩn thận
kiểm tra xưởng trước khi đốt nên không biết trong xưởng còn có công nhân say rượu ngủ
quên nên đã dẫn đến hậu quả là làm cho người công nhân chết. Như vậy, nguyên nhân
người công nhân chết là do hành vi đốt xưởng của Q. Nếu Q không đốt xưởng thì người
công nhân không chết.
Do đó, căn cứ vào các dấu hiệu pháp lý có thể xác định Q đã phạm tội vô ý làm chết
người với lỗi vô ý do cẩu thả, Q phải chịu TNHS về tội này theo quy định tại khoản 1
Điều 98 BLHS năm 1999: “Người nào vô ý làm chết người thì bị phạt tù từ
sáu tháng đến năm năm”.
3.

Giả sử Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa

được xoá án tích lại thực hiện hành vi phạm tội nêu trên thì trường hợp phạm tội
của Q là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao?
Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, chưa được xóa án tích lại
thực hiện hành vi phạm tội cố ý hủy hoại tài sản thì trường hợp phạm tội của Q
là tái phạm nguy hiểm. Tại vì:
Theo giả sử thì Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội cướp tài sản, tức là Q
vừa phải chịu TNHS về tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133: “ Người nào dùng
vũ lực , đe dọa dung vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm
cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được
nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.”
Mà căn cứ theo khoản 3 Điều 8 BLHS: “3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội
phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội



phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội
phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình.” Trường hợp phạm tội cướp tài sản của Q là thuộc loại
tội phạm rất nghiêm trọng vì khung hình phạt cao nhất đối với tội của cướp tài sản theo
khoản 1 Điều 133 là mười năm tù thuộc trong khoảng khung hình phạt của loại tội rất
nghiêm trọng tại khoản 3 Điều 8 ( khung hình phạt cao nhất lên đến mười lăm năm tù).
Điểm a, khoản 2 Điều 49 quy định: “ 2. Những trường hợp sau đây coi là
tái phạm nguy hiểm:
a, Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa
án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; ”
Xét theo đề bài, Q vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù áp dụng theo khoản 1 Điều
133 là thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, mà lại chưa được xóa án tích, Q lại thực hiện
phạm tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo khoản 3 Điều 143 BLHS
với lỗi cố ý, đây là loại tội rất nghiêm trọng vì khung hình phạt của tội này là từ bảy năm
đến mười lăm năm.

Qua những căn cứ, phân tích trên thì trường hợp phạm tội của Q là tái phạm nguy
hiểm.



×