Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích các nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nêu ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.29 KB, 15 trang )

PHÂN TÍCH CÁC NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT? NÊU Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH
CÁC NGUYÊN TẮC NÀY

MỞ BÀI
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, giữ vai trò rất quan trọng trong phát tri ển kinh
tế - xã hội và sự ổn định đời sống của người dân. Trong quá trình phát triển đất nước theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc thu hồi đất để phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng và phát triển kinh tế - xã hội là một quá trình tất yếu, tác động rất lớn đến
người bị thu hồi đất. Để bù đắp cho họ một phần thiệt thòi đó, Nhà nước ta đã ban hành
chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dành cho người bị thu hồi đất, từng b ước
hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện ngày càng tốt hơn cho người có đất bị thu h ồi ổn
định đời sống và sản xuất. Để hiểu thêm về vấn đề này em xin chọn đề tài số 9 : “ Phân
tích các nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất? Nêu ý nghĩa của việc quy định các nguyên tắc này” làm bài tập
học kỳ của mình.


NỘI DUNG
I.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI
ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT.

1.

Khái niệm bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, trong trường hợp cần thiết, Nhà nước thu
hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; lợi ích công cộng và các mục đích
phát triển kinh tế thì người bị thu hồi đất được bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.


-

Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử
dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại
đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai ( khoản 11
Điều 3 Luật Đất Đai 2013)

-

Bồi thường về đất là việc nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất
đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất ( khoản 12 Điều 3
Luật Đất đai 2013)

-

Hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người
có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển ( khoản 14
Điều 3 Luật Đất đai 2013)

-

Tái định cư là việc bố trí chỗ ở mới, ổn định cho người bị thu hồi đất
mà phải di chuyển chỗ ở. Theo quy định của pháp luật thì khu tái định


cư phải được xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, đảm bảo đủ điều kiện
hoặc tốt hơn nơi ở cũ.
2.Cơ sở pháp lý của việc quy định về nguyên tắc bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
Nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị

thu hồi đất, khắc phục bất cập và điều tiết sự hài lòa giữa lợi ích Nhà
nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Việc quy định các nguyên tắc
một cách hợp lý và tuân theo sẽ giúp cho công tác giải quyết các vấn
đề về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư diễn ra một cách nhanh chóng
và đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người dân. Luật Đất đai năm
2013 tiếp tục kế thừa, luật hóa những quy định phù hợp đã và đang đi
vào thực tiễn của pháp Luật đất đai năm 2003 đồng thời đã sửa đổi, bổ
sung một số quy định mới nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập của
Luật Đất đai 2003. Về nguyên tắc khi bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất trong Luật Đất đai 2013 quy định ở Điều 74,
Điều 83, Điều 88 và hướng dẫn thực hiện tại Nghị định 47/2014/NĐ-CP.
II.

NỘI DUNG NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

1.

Nguyên tắc bồi thường
Các chế định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trong Luâṭ Đât́ đai năm 2003 trên thực tế đã không thể thể chế, truyền tải hết các quy
định mang tính nguyên tắc để thực hiện thống nhất khi xử lý những vấn đề phức tạp phát
sinh trong thực tiễn thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại các địa phương, các bộ,


ngành. Khắc phục hạn chế này, Luâṭ Đât́ đai năm 2013 đã tách nguyên tắc bồi thường về
đất và nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà
nước thu hồi đất thành 02 điều riêng biệt ( Điều 74 và Điều 88). Trong đó, quy định c ụ
thể các nguyên tắc bồi thường về đất và các nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản gắn
liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất để các bộ, ngành, địa phương và người thu hồi đất

căn cứ vào đó thống nhất thực hiện. Nội dung cụ thể nguyên tắc bồi thường như sau:
·

“ Điều 74. Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất

1.

Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được
bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.

2.

Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích
sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được
bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.

3.

Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo dân chủ,
khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp
luật.”
Nguyên tắc trên thể hiện khi nhà nước lấy đi phần lợi ích của người dân mà có đầy đủ
điều kiện được bồi thường thì Nhà nước có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại.
Thứ nhất, người sử dụng đất ( 6 đối tượng quy định tại Điều 75) nếu
có đủ các điều kiện quy định như Luật định sẽ được Nhà nước bồi
thường theo thiệt hại thực tế họ mắc phải khi gặp phải chính sách thu
hồi đất của Nhà nước. Đều đó thể hiện sự bình đẳng của nhà nước đối
với người sử dụng đất, họ được đối xử như nhau trên pháp luật.



Thứ hai, việc bồi thường sẽ ưu tiên bồi thường băng đất rồi sau đó
đến trả tiền ( trừ một số trường hợp khác muốn lấy tiền hay buộc lấy
đất). Khi Nhà nước lấy đất thì bồi thường bằng đất cùng loại, nếu
không có đất cùng loại thì được bồi thường bằng tiền với giá trị tương
đương. Cách tiếp cận này xuất phát từ quan niệm coi đất đai là tài sản
có thể được trả thay bằng tiền bồi thường để mua được một thửa đất
tương đương. Quy định này cũng nhằm ngăn ngừa tình trạng người bị
thu hồi đất đòi bồi thường quá cao do giá trị của đất đai tăng lên từ
việc chuyển mục đích sử dụng đất hoặc do sự đầu tư của Nhà nước
mang lại.
Thứ ba, việc bồi thường phải dân chủ, khách quan, tức là phảm đảm
bảo khi người dân bị thu hồi đất mà có đủ các điều kiện thì phải được
bồi thường một cách nhanh chóng, hợp lý, công khai, công bằng như
những người khác và phải tuân thủ theo quy định của pháp luật.
·

“ Điều 88. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản sản xuất, kinh
doanh khi Nhà nước thu hồi đất

1.

Khi Nhà nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền
với đất bị thiệt hại về tài sản thì được bồi thường.

2.

Khi Nhà nước thu hồi đất mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài phải ngừng sản xuất, kinh doanh mà có thiệt hại thì được bồi

thường thiệt hại.”


Đây là một điểm mới của Luật đất đai 2013 khi đã bắt đầu xem xét bồi thường về
đất không chỉ với tư cách là tài sản mà còn là tài nguyên và t ư li ệu s ản xu ất. Trên th ực t ế,
ngoài ý nghĩa tài sản, đất đai còn là tài nguyên thiên nhiên, là nguồn sống của con
người; do đó khi thu hồi đất ngoài việc bồi thường giá trị của đất còn ph ải b ồi th ường
thiệt hại về tài sản sản xuất, kinh doanh cho người dân là phù hợp.
Nếu chỉ hỗ trợ một khoản trong một thời gian nhất định thì coi
như đã phó mặc việc tìm kiếm kế sinh mới cho người mất đất. Do đó, thay
vì phó mặc gánh nặng hỗ trợ đào tạo nghề đối với người mất đất cho Nhà nước, nhà đầu
tư cần phải được yêu cầu cùng bàn bạc với người mất đất về cơ hội tìm sinh kế mới cho
họ; đồng thời, nhà đầu tư phải chi trả cho người mất đất một khoản tiền tương ứng với
mức thu từ sử dụng đất trước đây cho tới khi người bị mất đất có nguồn thu nhập mới và
theo nguyên tắc, càng để lâu, chi phí bồi thường càng lớn để bắt buộc nhà đầu tư không
thể trì hoãn.
2.

Nguyên tắc hỗ trợ, tái định cư

Là một điểm mới của Luật Đất Đai 2013, Nhà nước đã quy định một cách rõ ràng các
nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất: cụ thể Khoản 1 Điều 83 Lu ật Đất đai 2013
quy định;
“ 1. Nguyên tắc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất:
a, Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ngời việc được b ồi th ường theo quy
định của Luật này còn được Nhà nước xem xét hỗ trợ;
b, Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công
khai và đúng quy định của pháp luật.”



Thứ nhất, Cũng giống như ở bồi thường, khi Nhà nước thu hồi đất
của người dân ngoài việc phải bồi thường lại phần của họ bị mất còn
phải hỗ trợ cho người dân để họ sớm khắc phục tình hình, nhanh chóng
ổn định đời sống. Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp và sự quan tâm
của Nhà nước với người dân bị mất đất. Tại khoản 2 Điều 83 Luật này
cũng quy định các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như: hỗ trợ
ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm
kiếm việc làm đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp
kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải di chuyển chỗ ở;
hỗ trợ tái định cư đối với trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá
nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở;
và các hỗ trợ khác
Thứ hai, một trong các hình thức hỗ trợ là hỗ trợ về chỗ ở, tái định
cư. Nhằm khắc phục tình trạng một số khu vực tái định cư chất lượng còn thấp, không
đồng bộ về cơ sở hạ tầng, chưa đảm bảo tiêu chí có điều kiện phát tri ển b ằng ho ặc t ố h ơn
nơi ở cũ. Nhiều địa phương chưa lập khu tái định cư chung cho các dự án tại địa bàn nên
nhiều dự án chưa có khu tái định cư đã thực hiện thu hồi đất ở, thậm chí có những dự án
mà người có đất bị thu hồi phải đi thuê nhà để ở nhiều năm mà vẫn chưa được bồ trí vào
khu tái định cư, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định về lập và thực hiện dự án tái định cư,
bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở .
Thứ ba, Tính dân chủ, công bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định của pháp
luật. Ở cả trong nguyên tắc về bồi thường cũng như hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất đều


đề cập tới tính bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công khai minh bạch, dân chủ,
đúng pháp luật. Đây là một đòi hỏi khách quan trong quá trình thực thi các quy định của
pháp luật về bồi thường hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, vừa là cơ chế để kiểm
soát hoạt động này. Bởi tất cả nội dung, phạm vi, giới hạn, trình tự, thủ tục…bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đều do pháp luật quy định.

III.

Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH CÁC NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG,
HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, giữ vai trò rất quan trọng trong
phát triển kinh tế-xã hội và sự ổn định đời ống của người dân. Trong quá
trình phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc thu h ồi đất để
phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh t ế - xã hội là m ột quá
trình tất yếu, tác động rất lớn đến người bị thu hồi đất. Để bù đắp cho họ một phần thiệt
thòi đó, Nhà nước ta đã ban hành chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dành cho
người bị thu hồi đất, từng bước hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện ngày càng tốt hơn
cho người có đất bị thu hồi ổn định đời sống và sản xuất.
Việc quy định các nguyên tắc bồi thường và hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
mang nhiều ý nghĩa to lớn có thể kể đến là:
Quy định thêm, sữa đổi và bổ sung thêm các quy định như trên
sẽ giúp việc thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị thu hồi
đất sẽ được đảm bảo. Từ đó các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước có cơ chế
pháp lý chặt chẽ, phù hợp để tổ chức thực hiện việc thu hồi đất nhằm mục đích phát tri ển
kinh tế - xã hội cũng như lợi ích công cộng, an ninh quốc phòng. Đồng thời hạn chế được


tình trạng khiếu kiện, khiếu nại đối với chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi bị
thu hồi đất như trong thời gian vừa qua.
Công khai, minh bạch và dân chủ trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ
giúp cho người dân được tham gia trực tiếp bàn bạc , kiểm soát những vấn đề liên
quan đến quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình khi nhà nước thu hồi đất. Bởi
mặc dù ở nước ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân, tuy nhiên nhà nước đã giao quyền chi ếm
hữu, sử dụng đất cho người dân. Việc nhà nước thu hồi đất sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
những lợi ích hợp pháp mà người sử dụng đất tạo ra trong quá trình s ử d ụng đất, vì v ậy
họ cần phải được tham gia bàn bạc, đưa ra ý kiến, nguyện vọng thông qua đó b ảo vệ

quyền và lợi ích chính đáng của mình. Từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật
đất đai khi nhà nước thu hồi đất phù hợp với lợi ích chung của xã hội
Thông qua việc công khai, minh bạch, dân chủ người dân không chỉ nắm được
các quyền và nghĩa vụ của mình khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh t ế mà còn có đi ều ki ện
để bày tỏ những mong muốn, nguyện vọng của mình tới các cơ quan nhà n ước có th ẩm
quyền. Các cơ quan nhà nước nắm được nguyện vọng của nhân dân để có thể xem xét,
giải quyết kịp thời, không để nảy sinh những mâu thuẫn trong quá trình gi ải phóng m ặt
bằng. Điều này sẽ tạo tâm lí thoải mái, tạo lòng tin của người dân vào các quyết định c ủa
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, từ đó có thể hạn chế được những tranh chấp khiếu kiện
kéo dài.
IV.

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT KHI ÁP DỤNG TRONG
THỰC TẾ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC CHẾ ĐỊNH NÀY.


1.

Thực trạng.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
như : Việc tổ chức tái định cư cho các hộ dân có đất bị thu hồi trong thời gian qua đã
được các cấp, ngành quan tâm. Chỗ ở tái định cư và đời sống của người dân cơ bản được
đảm bảo, nâng mức bồi thường đất nông nghiệp, chú trọng đào tạo nghề để chuyển đổi
nghề nghiệp cho người nông dân.. Ngoài ra còn tồn tại một số hạn chế, bất cập v ề v ấn đề
này như:
Việc triển khai các dự án chủ yếu thu hồi vào đất nông nghiệp, đối tượng bị thu hồi
đất làm sản xuất nông nghiệp cũng chiếm đến 69%, tiếp đó là thu hồi vào đất ở t ại khu
dân cư nông thôn. Việc thu hồi đất thực hiện các dự án nêu trên không chỉ ảnh hưởng đến

địa bàn sinh sống mà còn ảnh hưởng đến phương kế sinh nhai của các hộ, đặc biệt là các
hộ sản xuất nông nghiệp.Ở mỗi địa phương đều có những cách làm, cách vận dụng khác
nhau, vì thế mức độ hài lòng của người dân đối với chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư cũng rất khác nhau, thể hiện qua việc đánh giá về mức độ ổn định đời sống, mức
độ đảm bảo đời sống của nguồn thu nhập sau thu hồi đất. Long An là địa ph ương có t ỷ l ệ
cao nhất về số hộ hài lòng với cuộc sống sau thu hồi đất, tuy nhiên t ỷ lệ này c ũng chỉ đạt
50%.
Điều tra cho thấy, 100% các hộ dân bị thu hồi đất đều không được tham gia đào
tạo trực tiếp mà được Nhà nước trả bằng tiền. Một số hộ đã đi học nghề, tuy nhiên chỉ có
17% lao động đã học nghề có thể áp dụng ngành nghề đã đào tạo, còn đến 83% lao động
đi học nghề trả lời không áp dụng vào công việc ngành nghề đã đào tạo. Trong 1.445 hộ
phỏng vấn, chỉ có 345 lao động của các hộ này tìm kiếm được công việc tại chính dự án


đã thu hồi đất, 313 lao động của các hộ tìm kiếm được công việc t ại các d ự án khác.
Trong khi đó khả năng thu hút lao động vào các khu công nghiệp còn thấp, chưa đến 35%
tổng số lao động đang làm việc, chưa kể một lượng lớn lao động không đáp ứng yêu cầu
về tay nghề (chỉ có 27,23% lao động bị thu hồi đất tốt nghiệp trung học ph ổ thông và
14% lao động được đào tạo chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp hoặc học nghề). Tuy nhiên,
phần lớn lao động tại khu vực nông thôn hiện nay đều rơi vào độ tu ổi đã khá cao, trên 35
tuổi, khó có thể học những nghề đòi hỏi nhiều chất xám.
2.

Phương hướng hoàn thiện các chế định.

Những nguyên tắc và quy định trên cho thấy Luật thực định đã đặc biệt quan tâm
tới sinh kế của người có đất thu hồi. Tuy nhiên, một s ố quy định v ề b ồi th ường, h ỗ tr ợ và
tái định cư trong dự thảo này cho thấy vẫn chưa giải quyết được triệt để những vướng
mắc, bất cập, đáp ứng được yêu cầu thực tế, do vậy để bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị thu hồi đất, em xin đề xuất một số nội dung làm cơ sở, phương

hướng hoàn thiện các nguyên tắc và nội dung của bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất.
Một là, Luật đất đaicần xem xét bồi thường về đất không chỉ với
tư cách là tài sản mà còn là tài nguyên và tư liệu sản xuất nhiều hơn
nữa. Như đã nêu trên, thực tế ngoài ý nghĩa là tài sản, đất đai còn là
tài nguyên thiên nhiên, tư liệu sản xuất và là nguồn sống của con
người. Do đó, thay vì chỉ bồi thương đất như một loại tài sản, Nhà nước,
nhà đầu tư cần phải được yêu cầu cùng bàn bạc với người mất đất một
khoản tiền tương ứng với mức thu từ sử dụng đất trước đây cho tới khi
người bị mất đất có nguồn thu nhập mới và theo nguyên tắc này, càng


để lâu, chi phí bồi thường càng lớn bắt buộc các nhà đầu tư không được
trì hoãn. Chính quyền địa phương cũng khó đánh đổi mọi giá cho sự
phát triển, như vậy chắc chắn sẽ giảm được tham nhũng từ đất đai và
bảo vệ được nguồn lực đất đai.
Hai là, cần đa dạng hóa hình thức bồi thường trên cơ sở nâng cao
đồng thuận xã hội. Hình thức bồi thường theo pháp luật hiện hành
thiếu sự đồng thuận của người dân đang dẫn đến khiếu kiện về đất đai
ngày càng nhiều. Theo đó, để tạo nguồn vốn phát triển cho địa
phương, tạo quan hệ đối tác dài hạn giữa nhà đầu tư và cộng đồng dân
cư địa phương, nước ta có thể áp dụng cơ chế “chia sẻ lợi ích”. Hình
thức chia sẻ gồm: giảm giá cung cấp điện, nước cho dân cư địa
phương; chuyển một phần nguồn thu ngân sách nhà nước cho chính
quyền địa phương và chia sẻ nguồn thu cho những người bị ảnh hưởng;
chính quyền địa phương được bình đẳng với chủ đầu tư tham gia vào
các quyết định vận hành dự án; tạo điều kiện cho địa phương để phát
triển hạ tầng, đào tạo nghề, tạo việc làm mới trong khu vực phi nông
nghiệp; địa phương được thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp từ dự
án; khôi phục và phát triển đời sống của cư dân địa phương; đóng góp

cho phát triển hạ tầng cho cộng đồng địa phương…
Ba là, nâng cao sự đồng thuận của người dân đối với phương án
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.Để phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư do cơ quan có thẩm quyền đưa ra phù hợp, nhận được sự đồng
thuận của người dân; bảo đảm việc hỗ trợ được khách quan, công


bằng, kịp thời, công khai và đúng quy định, cần bổ sung nguyên tắc bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư tại Điều 74 của dự thảo Luật như
sau: “Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được phê duyệt khi đạt
được ít nhất 70% ý kiến đồng ý của những người tham gia ý kiến từ
cộng đồng ssdân cư địa phương”.


KẾT THÚC
Tóm lại, quy định các nguyên tắc để giải quyết các vấn đề liên quan đến b ồi
thường, hỗ trợ và tái định cư là một trong những vấn đề quan trọng và cấp thiết hiện nay
để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất và cá nhân, tổ chức có liên
quan. Các nhà làm luật đã cố gắng hoàn thiện hơn về vấn đề này tuy nhiên vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu của thực tiễn, hy vọng trong khoảng thời gian s ớm nh ất Nhà n ước s ẽ
có những chính sách giải quyết tốt, toàn vẹn và hợp lý hơn về vấn đề này.



×