Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Bình luận các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở? Nêu một số giải pháp góp phần hoàn thiện vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.58 KB, 11 trang )

Đề bài: Bình luận các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất ở? Nêu một số giải pháp góp phần hoàn thiện vấn đề này.
Bài làm:
I. Tính cấp thiết của đề tài.
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là một trong những yếu tố của sản xuất và để phát triển sản xuất, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các
khi dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc
phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu
mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay. Như vậy, ta có thể khẳng
định vai trò của đất đai đối với sản xuất, đời sống thật to lớn.
Từ nhận thức được vị trí hết sức quan trọng ấy của đất đai mà Đảng
và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm đến vấn đề đất đai. Sau những
năm đổi mới tìm ra hướng đi trong việc phát triển nền kinh tế thị trường có
sự quản lí sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đất nước ta đã
có nhiều đổi mới và phát triển. Trong đó, hệ thống pháp luật đất đai nói
chung và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất ở nói riêng phần nào được Nhà nước đặc biệt quan tâm, nhằm đảm bảo
quyền lợi cho những người dân nằm trong diện bị thu hồi đất, giúp họ có
được cuộc sống tốt đẹp sau khi phải rời bỏ nơi sinh sống của họ.
Mặc dù Luật đất đai năm 2003 đã được ban hành để phù hợp với xu
thế phát triển của đất nước, nhưng trong thực tiễn xây dựng cũng như thi
hành pháp luật đã nảy sinh nhiều khuyết điểm, bất cập, một số quy định
không còn phù hợp với tình hình thực tế, nhất là từ khi chúng ta áp dụng
chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài thì đất đai và việc thu hồi, hỗ
trợ tái định cư lại càng trở nên cấp thiết, cần được quan tâm, xem xét đúng


mức. Tình hình này đã dẫn đến việc thi hành và áp dụng Luật không thống
nhất với nhau, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các chủ thể tham gia quan
hệ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất mà đặc biệt ở


đây đó là thu hồi đất ở, một loại đất hết sức nhạy cảm và luôn gặp khó khăn
nhất trong việc thu hồi.
II.

Các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất.

1. Phạm vi và đối tượng được bồi thường thiệt hại.
Khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an
ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, mục đích phát triển kinh tế thì
người có đất bị thu hồi được bồi thương thiệt hại. Phạm vi của việc bồi
thường thiệt hại bao gồm : bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người có đất
bị thu hồi theo quy định của pháp luật ;
Theo Điều 5 Nghị định 197/2004/NĐ – CP, việc bồi thường, hỗ trợ
cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất được quy định như sau :
- Bồi thường hoặc hỗ trợ đối với toàn bộ diện tích đất mà Nhà nước
thu hồi đất. Như vậy, Nhà nước tiến hành thu hồi diện tích đất thực tế là bao
nhiêu thì sẽ bồi thường toàn bộ số diện tích đất đã thu hồi. Tùy từng trường
hợp cụ thể mà việc bồi thường có thể bằng tiền, nhà ở hoặc bằng đất ;
- Không chỉ bồi thường về đất mà Nhà nước còn bồi thường hoặc hỗ
trợ về tài sản hiện có gắn liền với đất và các chi phí đầu tư vào đất bị Nhà
nước thu hồi ;
- Hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi
nghề và hỗ trợ khác cho người bị thu hồi đất. Đây là sự hỗ trợ trong thời
gian đầu dành cho người có đất ở bị thu hồi, thay đổi điều kiện và hỗ trợ đào
tạo cho người lao động nông nghiệp chuyển sang nghề khác tạo cho người
dân có cuộc sống ổn định.


- Hỗ trợ để ổn định sản xuất và đời sống tại khu tái định cư ;

Chính sách hỗ trợ của Nhà nước khi bồi thường thiệt hại về đất không
chỉ thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta mà còn giúp đỡ người bị thu hồi
đất nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất;
Hơn nữa, Nghị định 197/204/NĐ – CP còn quy định người sử dụng
đất khi bị Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì sẽ được bố trí
tái định cư bằng việc bồi thường bằng nhà ở, giao đất ở mới hoặc bồi thường
bằng tiền để tự lo chỗ ở mới (Điều 4). Như vậy, phạm vi bồi thường thiệt hại
khi Nhà nước thu hồi đất bao gồm: (i) Bồi thường thiệt hại về đất thực tế thu
hồi ; (ii) Bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi; (iii) Hỗ
trợ người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở ; (iv) Hỗ trợ người bị thu hồi
đất sản xuất đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp; (v) Hỗ trợ người bị thu hồi đất
gặp khó khăn về cuộc sống do việc thu hồi đất gây ra.
b, Đối tượng được bồi thường thiệt hại.
Bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất là một trong những
chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, không phải mọi đối
tượng bị thu hồi đất đều được bồi thường thiệt hại mà chỉ những đối tượng
do pháp luật quy định mới được bồi thường. Điều 2 Nghị định số
197/2004/NĐ – CP quy định đối tượng được bồi thường thiệt hại bao gồm:
Tổ chức, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, hộ gia đình, cá nhân trong nước,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sử
dụng đất bị Nhà nước thu hồi đất (gọi chung là người bị thu hồi đất). Như
vậy, tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi đất
cũng được áp dụng theo quy định của Nghị định này. Đây chính là điểm mới
so với Nghị định số 22/1998/NĐ – CP ngày 22/04/1998 của Chính Phủ.
Trước đây, Điều 3 của Nghị định số 22/1998/NĐ – CP quy định : Việc đền
bù thiệt hại khi thu hồi đất của tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế,


người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã được Nhà nước Việt Nam cho thuê
đất giải quyết theo quyết định riêng của Thủ tướng Chính Phủ. Hiện nay

theo quy định hiện hành mọi người sử dụng đất không phân biệt là tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân trong nước hay tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng đất
khi bị Nhà nước thu hồi đất đều được bồi thường thiệt hại về đất theo nghị
định số 197/2004/NĐ – CP. Như vậy, pháp luật đã thể hiện sự công bằng,
bình đẳng không có sự phân biệt đối xử đối với các chủ thể sử dụng đất
trong việc bồi thường thiệt hại về đất ;
Người bị thu hồi đất không chỉ được Nhà nước bồi thường thiệt hại về
đất mà còn được bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi.
Tuy nhiên, pháp luật hiện hành cũng quy định tài sản được Nhà nước bồi
thường phải là tài sản hợp pháp của người bị thu hòi đất. Quy định này nhằm
bảo vệ một trong những quyền cơ bản của người sử dụng đất được ghi nhận
trong Luật đất đai năm 2003 đó là : Người sử dụng đất được quyền hưởng
thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất (Điều 105) ;
2. Nguyên tắc chung về chi trả bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại là những phương hướng chỉ đạo, là cơ
sở chủ yếu nhất để dựa vào đó mà pháp luật điều chỉnh những quan hệ về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chúng ta có thể rút ra một số
nguyên tắc chung được áp dụng để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư, dù đó là đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, đất chuyên dùng hay
đất ở... thì đều phải sự trên những nguyên tắc này, cụ thể :
a, Nguyên tắc bồi thường theo khung giá đất do Nhà nước quy định sát với
giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện
bình thường.


Điều 23 Hiến pháp 1992 quy định “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ
chức không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết vì lí do quốc
phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng
có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường”. Đây

là cơ sở pháp lý cao nhất định hướng cho toàn bộ công tác bồi thường tài sản
(trong đó có bồi thường thiệt hại về đất) khi Nhà nước trưng dụng tài sản của
tổ chức, cá nhân sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng ở nước ta.
b, Nguyên tắc bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng, nhà ở hoặc
bằng tiền.
Do đất đai có vị trí và tai trò rất quan trọng đối với con người. Đặc
biệt nó trực tiếp ảnh hưởng, tác động lớn đến cuộc sống và sản xuất của họ.
Nếu không có đất, cuộc sống của người dân bị đảo lộn theo chiều hướng
xấu, thậm chí rơi vào cảnh nghèo đói... Nhận thức được vấn đề này, pháp
luật đất đai nước ta đã đề ra nguyên tắc khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và
phát triển kinh tế thì trước tiên căn cứ vào quỹ đất đai, tình hình thực tế sẽ
thực hiện việc bồi thường cho người bị thu hồi đất bằng một diện tích đất
tương đương khác có cùng mục đích sử dụng để bảo đảm cho họ có điều
kiện vật chất để ổn định sản xuất và đời sống. Trường hợp không có hoặc
không còn đất để bồi thường thì mới xem xét đến việc chi trả bồi thường cho
người sử dụng bằng tiền.
c, Nguyên tắc bồi thường đầy đủ các thiệt hại thực tế về đất.
Việc bồi thường thiệt hại về đất cho người sử dụng khi Nhà nước thu
hồi đất được tiến hành dựa trên cơ sở bồi thường toàn bộ các thiệt hại thực tế
về đất mà người sử dụng đất phải gánh chịu do việc thu hồi đất của Nhà


nước gây ra. Theo đó, các thiệt hại này là thiệt hại thực tế và là hậu quả phát
sinh trực tiếp từ việc thu hồi đất của nhà nước gây ra, bao gồm:
- Bồi thường thiệt hại về diện tích đất thực tế bị thu hồi ;
- Bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với diện tích đất thực tế bị
thu hồi ;
- Hỗ trợ di chuyển chỗ ở cho người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ

ở;
- Hỗ trợ khó khăn về đời sống mà người bị thu hồi đất gặp phải do
việc thu hồi đất của Nhà nước gây ra ;
- Hỗ trợ về đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, bố trí sắp xếp công ăn
việc làm mới cho người trực tiếp sản xuất bị thu hồi đất mà không có đất để
giao cho họ tiếp tục sản xuất ;
d, Nguyên tắc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện đúng
pháp luật, công bằng, bình đẳng, công khai, minh bạch và dân chủ.
Bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất là công việc liên quan
đến giải quyết các lợi ích về kinh tế giữa người thu hồi đất, người bị thu hồi
đất và những tổ chức, cá nhân khác có liên quan. Do đó, nó trực tiếp ảnh
hưởng đến quyền lợi của người bị thu hồi đất. Thực tiễn áp dụng bồi thường
thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất cho thấy ở địa phương nào mà công tác
này thực hiện không đúng pháp luật, không công khai, minh bạch ; vi phạm
sự công bằng và không phát huy quyền làm chủ của người dân chủ ở đó
công tác này thực hiện rất khó khăn, phức tạp, không tạo được sự đồng
thuận của người dân dẫn đến những tranh chấp, khiếu kiện đông người kéo
dài ; thậm chí người dân có những phản ứng tiêu cực, manh động gây mất ổn
định về chính trị, tình hình an ninh, trật tự xã hội... Ngược lại, địa phương
nào thực hiện tốt việc bồi thường thiệt hại theo phương châm “dân chủ, đúng
pháp luật, công bằng, bình đẳng, công khai” thì lại tạo được sự đồng thuận,


ủng hộ tự chính bản thân những người bị thu hồi đất và công việc bồi thường
thiệt hại được thực hiện nhanh chóng, thuận tiện, ít gặp trở ngại. Công tác
bồi thường, giải phóng mặt bằng được thực hiện nhanh gọn và đúng tiến độ,
thời gian triển khai thực hiện dự án, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
3. Quy định riêng về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất ở.
Việc xác định đất nào là đất ở để khi Nhà nước thu hồi được bồi

thường theo đất ở thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan tài nguyên và môi
trường;
Người sử dụng đất ở khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ
ở được bồi thường bằng giao đất ở mới, nhà ở tại khi tái định cư hoặc bồi
thường bằng tiền theo đề nghị của người có đất bị thu hồi và phù hợp với
thực tế ở địa phương.
Diện tích đất bồi thương bằng giao đất ở mới cho người có đất bị thu
hồi cao nhất bằng hạn mức giao đất ở địa phương; Trường hợp đất ở bị thu
hồi có diện tích lớn hơn hạn mức giao đất ở thì UBND cấp tỉnh căn cứ vào
quỹ đất ở địa phương và số nhân khẩu ở hộ gia đình bị thu hồi đất nhưng
không vượt quá diện tích của đất bị thu hồi;
Trường hợp diện tích đất ở còn lại của người sử dụng đất sau khi Nhà
nước thu hồi đất nhỏ hơn hạn mức giao đất ở theo quy định của địa phương,
thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phảu hướng dẫn sử dụng theo quy
hoạch chi tiết xây dựng đô thụ và quy hoạch điểm dân cư nông thông; nếu
người bị thu hồi đất có yêu cầu Nhà nước thu hồi phần diện tích còn lại thì
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất sử dụng theo quy hoạch chi tiết
xây dựng đô thị và quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn;


Người sử dụng đất ở khi Nhà nước thu hồi đất mà thuộc đối thượng
không được bồi thường đất nếu không còn nơi ở nào khác thì được UBND
cấp có thẩm quyền xem xét giải quyết cho mua, thuê nhà ở hoặc giao đất ở
mới; người được thuê nhà hoặc mua nhà phải trả tiền mua nhà, thuê nhà, nộp
tiền sử dụng đất theo quy định.
Mặt khác, pháp luật còn đề cập đến việc bồi thương đất ở đối với
những người đang đồng quyền sử dụng đất; Cụ thể:
- Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất chung có đồng
quyền sử dụng đất, khi Nhà nước thu hồi đất được bồi thường theo diện tích
đất thuộc quyền sử dụng; nếu không có giấy tờ xác định diện tích đất thuộc

quyền sử dụng riêng của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thì bồi thường chung
cho các đối tượng có đồng quyền sử dụng đất;
- UBND cấp tỉnh hướng dẫn vieecn tiếp nhận và phân chua tiền bồi
thường cho những người này nhằm đảm bảo nguyên tắc người được bồi
thường trực tiếp nhận tiền bồi thường và tổng số tiền bồi thường của từng tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân đang có đồng quyền sử dụng đất bằng tổng số
tiền bồi thường cho toàn bộ diện tích đất đồng quyền sử dụng.
III. Thực trạng và một số giải pháp góp phần hoàn thiện vấn đề này.
1. Thực trạng bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
- Cơ chế, chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất để sử dụng phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế đã được Chính phủ quan tâm chỉ
đạo sửa đổi, bổ sung hoàn thiện theo hướng ngày càng bảo đảm quyền lợi
của người bị thu hồi đất. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện cũng
còn một số bất cập, trong đó nổi lên hai nội dung lớn.


Một là, việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất tại một số dự án còn chưa tốt, chưa đảm bảo dân chủ, công khai,
minh bạch; giá đất tính bồi thường còn chưa phù hợp; chưa chú trọng tạo
việc làm mới, chuyển đổi nghề cho người có đất bị thu hồi.
Hai là, chưa có cơ chế bắt buộc để bảo đảm có quỹ đất và có nguồn vốn xây
dựng khu tái định cư trước khi thu hồi đất. Chất lượng khu tái định cư chưa
đáp ứng yêu cầu “có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ”.
- Còn tồn tại những lỗi vi phạm thuộc về các cơ quan chức năng trong
công tác thu hồi đất, giải phóng mặt bằng như: tổ chức cưỡng chế thu hồi đất
khi không có phương án sử dụng đất; không thành lập hội đồng đền bù hỗ
trợ trước khi thu hồi đất; không tổ chức đối thoại với người bị thu hồi đất;…
- Công tác tái định cư còn nhiều bất cập như: Chậm tiến độ thi công
các dự án tái định cư dẫn tới quỹ nhà tái định cư không kịp hoàn thiện để bố

trí tái định cư phục vụ công tác giải phóng mặt bằng theo kế hoạch. Đơn cử
như dự án khu nhà ở di dân giải phóng mặt tại Hoàng Cầu, Đống Đa; dự án
X1, X2 phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân... Việc chậm triển khai các dự
án cũng dẫn tới phải điều chỉnh nhiều lần tổng mức đầu tư, nhiều phát sinh
phức tạp do giá cả nguyên vật liệu liên tục tăng.
2. Một số giải pháp hoàn thiện vấn đề này.
Để tháo gỡ và giải quyết những bất cập và hạn chế nêu trên cần phải
tăng cường kiểm tra, yêu cầu các địa phương thực hiện nghiêm các quy định
hiện hành, đồng thời Bộ TNMT đang tổ chức rà soát cơ chế, chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư để kiến nghị bổ sung, sửa đổi cho phù hợp trong
thời gian tới.


Xây dựng bảng giá đất mới sao cho hợp lý. Bảng giá đất mới này
cũng sẽ phải được xây dựng chi tiết hơn theo vị trí, vùng, mục đích sử dụng
đất và điều chỉnh kịp thời khi thị trường có biến động lớn; làm căn cứ để xác
định nghĩa vụ tài chính, tính bồi thường khi nhà nước thu hồi đất và các mục
tiêu khác trong quản lý đất đai.
Cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án xây nhà tái đinh cư, chủ
động thực thiện nhiều giải pháp tái định cư nhằm đáp ứng đủ nhu cầu cho
người dân bị thu hồi đất như tái định cư và tạm cư bằng tiền; mua quỹ nhà
kinh doanh tại các khu đô thị mới; mua quỹ nhà của các nhà đầu tư dự án BT
đã có hoặc giao nhà đầu tư dự án BT ứng vốn xây dựng nhà tái định cư…


Tài liệu tham khảo:

1, Luật đất đai 2003
2, Nghị định của Chính phủ số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

3, Nghị định của Chính phủ số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi
hành Luật đất đai.
Một số website:
/> /> />


×