Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Đề xuất giải pháp cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1002.47 KB, 120 trang )

i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

NGUYỄN CÔNG THẮNG

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CẢI THIỆN CHỈ SỐ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH (PCI) CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh

LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.TRẦN VĂN BÌNH

Hà Nội - 2010


ii

Lời cảm ơn

Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS.Trần Văn Bình đã
tận tình chỉ bảo, góp ý và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt
nghiệp này.
Nhân đây tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý Thầy Cô, những người đã tận tình
truyền đạt kiến thức cho tôi trong hai năm học cao học vừa qua.
Những lời cảm ơn sau cùng con xin cảm ơn cha mẹ và mọi người trong gia
đình đã hết lòng quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất để con hoàn thành được luận văn
tốt nghiệp này.


Nguyễn Công Thắng


iii

Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ từ
Thầy hướng dẫn và những người tôi đã cảm ơn. Các nội dung nghiên cứu và kết quả
trong đề tài này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình
nào.
Hà Nội, ngày 18 tháng 10 năm 2010
Tác giả

Nguyễn Công Thắng


iv

Mục lục
Trang
Trang phụ bìa…………………………………………………………………….

i

Lời cảm ơn……………………………………………………………………….

ii

Lời cam đoan…………………………………………………………………….


iii

Mục lục…………………………………………………………………………..

iv

Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt………………………………………………

v

Danh mục các bảng, sơ đồ……………………………………………………….

vi

LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………...

1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP
TỈNH (PCI) VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ ……………………………...

4

1.1 Xuất phát tình hình…………………………………………………………...

4

1.2 Khái niệm về chỉ số PCI……………………………………………………...

7


1.3 Cơ sở lý luận về phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh……….

8

1.3.1 Cơ sở hình thành phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.

8

1.3.2 Các chỉ số cấu thành năng lực cạnh tranh cấp tỉnh……………………

10

1.3.3 Thứ hạng và phân tích thứ hạng chỉ số PCI…………………………...

25

1.4 Các bước tiến hành điều tra thu thập thông tin và xác định chỉ số PCI……...

26

1.5 Vai trò và ý nghĩa của PCI trong việc hoạch định chiến lược kinh tế - xã hội
của các địa phương và chính sách quốc gia……………………………………...

37

Chương 2: PHÂN TÍCH SỰ THAY ĐỔI CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH (PCI) CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI…………………………………

42


2.1 Chỉ số PCI của các địa phương qua các năm (2005-2009)…………………..

42

2.2 Báo cáo đánh giá chỉ số PCI của Hà Nội…………………………………….

43

2.2.1 Xếp hạng PCI của Hà Nội qua các năm……………………………….

43

2.2.2 Các chỉ số thành phần PCI của Hà Nội qua các năm………………….

44

2.2.3 Phân tích, xác định nguyên nhân thay đổi của các chỉ số thành phần...

46

Chương 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI THIỆN CHỈ SỐ PCI
CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI…………………………………………………..

94

3.1. Các giải pháp cải thiện chung đến từng chỉ số thành phần.............................

94


3.2. Một số giải pháp có tính khả thi cao đặt ra cho chính quyền Hà Nội.............

105

KẾT LUẬN……………………………………………………………………...

108

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………...

110

PHỤ LỤC………………………………………………………………………..

111


v

Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
1. Các chữ viết tắt:
KTTN: Kinh tế tư nhân.
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân.
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước.
GPMB: Giải phóng mặt bằng.
TP HCM: Thành phố Hồ Chí Minh.
GCNQSDĐ: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
KCN: Khu công nghiệp.
UBND: Ủy ban nhân dân.
CSHT: Cơ sở hạ tầng.

KHĐT (KH&ĐT): Kế hoạch và đầu tư.
CNTT&TT: Công nghệ thông tin và truyền thông.
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn.
CCHC: Cải cách hành chính.
DN: Doanh nghiệp.
2. Tên một số tổ chức, chỉ số, dự án:
PCI: Provincial Competitiveness Index (Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh).
GCI: Global Competitiveness Index (Chỉ số cạnh tranh quốc gia).
WEF: World Economic Forum (Diễn đàn kinh tế thế giới).
CPI: Corruption Perceptions Index (Chỉ số nhận thức tham nhũng).
TI: Transparency International (Tổ chức minh bạch quốc tế).
DAI: Development Alternatives Inc (Một tổ chức phi chính phủ của Mỹ)
VNCI: Dự án Nâng cao Năng lực Cạnh tranh Việt Nam.
VCCI: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
USAID: Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ.
WTO: World Trade Organization (Tổ chức Thương mại Thế giới).


vi

Danh mục các bảng, sơ đồ
Trang
Bảng 1.1: Những địa phương tiến bộ vượt bậc trong bảng xếp hạng năm
2006 và 2007

26

Sơ đồ 1.1: Quá trình thu thập số liệu phục vụ cho việc xây dựng chỉ số PCI

27


Bảng 1.2: Biểu trọng số và các chỉ số thành phần

33

Bảng 1.3: Phân tích nhân tố với sự điều chỉnh Varimax về các
điều kiên truyền thống:

35

Bảng 2.2: Bảng thống kê điểm các chỉ số thành phần PCI của Hà Nội
từ năm 2005 - 2009

35

Bảng 2.3a.1: Bảng số liệu Chỉ số gia nhập thị trường của Hà Nội năm 2005

47

Bảng 2.3a.2: Bảng số liệu Chỉ số gia nhập thị trường của Hà Nội năm 2006

47

Bảng 2.3a.3: Bảng số liệu Chỉ số gia nhập thị trường của Hà Nội năm 2007

48

Bảng 2.3a.4: Bảng số liệu Chỉ số gia nhập thị trường của Hà Nội năm 2008

49


Bảng 2.3a.5: Bảng số liệu Chỉ số gia nhập thị trường của Hà Nội năm 2009

49

Bảng 2.3b.1: Bảng số liệu chỉ số Tiếp cận và sử dụng ổn định trong sử dụng
đất của Hà Nội năm 2005

51

Bảng 2.3b.2: Bảng số liệu chỉ số Tiếp cận và sử dụng ổn định trong sử dụng
đất của Hà Nội năm 2006

52

Bảng 2.3b.3: Bảng số liệu chỉ số Tiếp cận và sử dụng ổn định trong sử dụng
đất của Hà Nội năm 2007

53

Bảng 2.3b.4: Bảng số liệu chỉ số Tiếp cận và sử dụng ổn định trong sử dụng
đất của Hà Nội năm 2008

54

Bảng 2.3b.5: Bảng số liệu chỉ số Tiếp cận và sử dụng ổn định trong sử dụng
đất của Hà Nội năm 2009

54


Bảng 2.3c.1: Bảng số liệu chỉ số Tính minh bạch và tiếp cận thông tin của
Hà Nội năm 2005

57

Bảng 2.3c.2: Bảng số liệu chỉ số Tính minh bạch và tiếp cận thông tin của
Hà Nội năm 2006

57


vii

Trang
Bảng 2.3c.3: Bảng số liệu chỉ số Tính minh bạch và tiếp cận thông tin của
Hà Nội năm 2007

58

Bảng 2.3c.4: Bảng số liệu chỉ số Tính minh bạch và tiếp cận thông tin của
Hà Nội năm 2008

59

Bảng 2.3c.5: Bảng số liệu chỉ số Tính minh bạch và tiếp cận thông tin của
Hà Nội năm 2009

60

Bảng 2.3d.1: Bảng số liệu chỉ số Chi phí thời gian của Hà Nội năm 2005


63

Bảng 2.3d.2: Bảng số liệu chỉ số Chi phí thời gian của Hà Nội năm 2006

63

Bảng 2.3d.3: Bảng số liệu chỉ số Chi phí thời gian của Hà Nội năm 2007

64

Bảng 2.3d.4: Bảng số liệu chỉ số Chi phí thời gian của Hà Nội năm 2008

64

Bảng 2.3d.5: Bảng số liệu chỉ số Chi phí thời gian của Hà Nội năm 2009

65

Bảng 2.3e.1: Bảng số liệu chỉ số Chi phí không chính thức của Hà Nội năm
2005

67

Bảng 2.3e.2: Bảng số liệu chỉ số Chi phí không chính thức của Hà Nội năm
2006

67

Bảng 2.3e.3: Bảng số liệu chỉ số Chi phí không chính thức của Hà Nội năm

2007

67

Bảng 2.3e.4: Bảng số liệu chỉ số Chi phí không chính thức của Hà Nội năm
2008

68

Bảng 2.3e.5: Bảng số liệu chỉ số Chi phí không chính thức của Hà Nội năm
2009

68

Bảng 2.3f.1: Bảng số liệu chỉ số Ưu đãi doanh nghiệp nhà nước của Hà Nội
năm 2005

71

Bảng 2.3f.2: Bảng số liệu chỉ số Ưu đãi doanh nghiệp nhà nước của Hà Nội
năm 2006

72

Bảng 2.3f.3: Bảng số liệu chỉ số Ưu đãi doanh nghiệp nhà nước của Hà Nội
năm 2007

72

Bảng 2.3f.4: Bảng số liệu chỉ số Ưu đãi doanh nghiệp nhà nước của Hà Nội

năm 2008

73


viii

Trang
Bảng 2.3g.1: Bảng số liệu chỉ số Tính năng động và tiên phong của Hà Nội
năm 2005

74

Bảng 2.3g.2: Bảng số liệu chỉ số Tính năng động và tiên phong của Hà Nội
năm 2006

74

Bảng 2.3g.3: Bảng số liệu chỉ số Tính năng động và tiên phong của Hà Nội
năm 2007

75

Bảng 2.3g.4: Bảng số liệu chỉ số Tính năng động và tiên phong của Hà Nội
năm 2008

75

Bảng 2.3g.5: Bảng số liệu chỉ số Tính năng động và tiên phong của Hà Nội
năm 2009


76

Bảng 2.3h.1: Bảng số liệu chỉ số Chính sách PTKTTN của Hà Nội năm
2005

78

Bảng 2.3h.2: Bảng số liệu chỉ số Chính sách PTKTTN của Hà Nội năm
2006

78

Bảng 2.3h.3: Bảng số liệu chỉ số Chính sách PTKTTN của Hà Nội năm
2007

79

Bảng 2.3h.4: Bảng số liệu chỉ số Chính sách PTKTTN của Hà Nội năm
2008

79

Bảng 2.3h.5: Bảng số liệu chỉ số Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp của Hà Nội
năm 2009

80

Bảng 2.3i.1: Bảng số liệu chỉ số Đào tạo lao động của Hà Nội năm 2006


83

Bảng 2.3i.2: Bảng số liệu chỉ số Đào tạo lao động của Hà Nội năm 2007

84

Bảng 2.3i.3: Bảng số liệu chỉ số Đào tạo lao động của Hà Nội năm 2008

84

Bảng 2.3i.4: Bảng số liệu chỉ số Đào tạo lao động của Hà Nội năm 2009

85

Bảng 2.3k.1: Bảng số liệu Thiết chế pháp lý của Hà Nội năm 2006

87

Bảng 2.3i.2: Bảng số liệu Thiết chế pháp lý của Hà Nội năm 2007

88

Bảng 2.3i.3: Bảng số liệu Thiết chế pháp lý của Hà Nội năm 2008

88


ix

Trang

Bảng 2.3i.4: Bảng số liệu Thiết chế pháp lý của Hà Nội năm 2009

89

Bảng 2.4.1: Bảng số liệu chỉ số Công nghệ thông tin của Hà Nội năm 2008

91

Bảng 2.4.2: Bảng số liệu chỉ số Cơ sở hạ tầng của Hà Nội năm 2008

91

Bảng 2.4.3: Bảng số liệu chỉ số Cơ sở hạ tầng của Hà Nội năm 2009

92

Bảng 3.1: Bảng chỉ số tổng hợp PCI năm 2009 của thành phố Hà Nội

94


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm vừa qua, cùng với xu thế toàn cầu hóa, tính cạnh tranh giữa
các quốc gia đang ngày một gia tăng. Báo cáo cạnh tranh toàn cầu (một bản tin của
Diễn đàn kinh tế thế giới – WEF: World Economic Forum), phát hành lần đầu vào năm
1979 nhằm đánh giá khả năng cung cấp mức độ thịnh vượng cao hay thấp đối với dân
chúng ở mỗi quốc gia, trong đó có công bố “chỉ số cạnh tranh quốc gia” (GCI - Global

Competitiveness Index) nhằm đo lường khuynh hướng của các thế chế, chính sách,
những nhân tố tạo thành trạng thái hiện thời & những mức giới hạn về trạng thái thịnh
vượng kinh tế”. Không chỉ có vậy, rất nhiều các chỉ số liên quan đến tính cạnh tranh
giữa các quốc gia cũng được hình thành nhằm lý giải sự vươn lên mạnh mẽ cũng như
sự kìm hãm phát triển của một số quốc gia, ví dụ như: Chỉ số thương hiệu quốc gia của
Anholt gồm 06 tiêu chí đánh giá; chỉ số nhận thức tham nhũng (Corruption Perceptions
Index – CPI) do Tổ chức minh bạch quốc tế (Transparency International - TI) công
bố…
Đối với các nước đang phát triển, khu vực kinh tế tư nhân giữ vai trò vô cùng
quan trọng đối với sự thịnh vượng của nền kinh tế. Các nước có môi trường pháp lý
thuận lợi đều thành công trong việc khuyến khích đầu tư tư nhân, tăng trưởng kinh tế,
tạo ra công ăn việc làm và xóa đói giảm nghèo. Việt Nam chắc chắn không là ngoại lệ
và từ thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2000, Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển rất
mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân. Hơn 136.400 doanh nghiệp thuộc khu vực tư
nhân được đăng ký chính thức kể từ năm 2000, tăng gần gấp 6 lần so với 9 năm trước
khi Luật Doanh nghiệp ra đời. Tuy nhiên, vấn đề nảy sinh là sự thành công này mới chỉ
tập trung ở một số ít tỉnh, thành phố. Mười một trong số sau mươi tư tỉnh thành hiện


2

chiếm tới hơn 60% sự gia tăng số lượng doanh nghiệp tư nhân và hơn 70% doanh thu
của khu vực tư nhân.
Kế thừa thành tựu của những chỉ số phản ánh tính cạnh tranh giữa các quốc gia
đã được ban hành trên thế giới và đứng trước vấn đề đặt ra như trên, chỉ số năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) được xây dựng (bắt đầu từ năm 2005) nhằm thể hiện những
khác biệt của các tỉnh và thành phố về môi trường pháp lý và chính sách trong khối
doanh nghiệp tư nhân. Dự án xây dựng chỉ số PCI là kết quả hợp tác nghiên cứu giữa
Dự án Nâng cao Năng lực Cạnh tranh Việt Nam (VNCI) và Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI). Đến nay qua hơn 4 năm nghiên cứu và ban hành các

chỉ số PCI từng năm (từ 2005 đến 2009), chỉ số PCI đã phần nào cho thấy những ảnh
hưởng và vai trò nhất định của mình đối với nền kinh tế nói riêng và xã hội nói chung.
Các nhà quản lý và hoạch định chính sách đã bắt đầu quan tâm đến PCI nhiều hơn
trước khi ban hành những văn bản pháp lý đối với địa phương của mình. Tuy nhiên,
đối với đa số người dân Việt Nam ngay cả ở khu vực Hà Nội – là một trong những nơi
cập nhật và nắm bắt thông tin nhanh nhất trong cả nước, vẫn chưa hiểu rõ về Chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và câu hỏi thường được đặt ra là: “Tại sao kinh tế Hà Nội
phát triển như vậy (chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh) mà Chỉ số PCI lại chỉ ở mức
trung bình?” hay “Làm cách nào để cải thiện một cách rõ rệt chỉ số PCI của Hà Nội
trên bảng xếp hạng hàng năm?”… Lý do là ngoài những báo cáo PCI hàng năm do
VCCI cung cấp vẫn chưa có nhiều những nghiên cứu, đánh giá tổng hợp về PCI qua
các năm để đa số người dân nắm rõ.
Vì vậy, để trả lời cho những câu hỏi trên và mong muốn đem đến cho người đọc
một cái nhìn tổng quan về PCI kể từ khi ra đời đến nay (từ 2005 – 2009), tôi đề xuất
nghiên cứu đề tài: “Đề xuất giải pháp cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh của
Thành phố Hà Nội”.
2. Mục tiêu của đề tài:


3

Nghiên cứu này tập trung vào việc đề ra các giải pháp để cải thiện chỉ số năng
lực cạnh tranh của thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Tình hình kinh tế xã hội và những thay đổi chỉ số PCI của Hà Nội từ năm 2005
– 2009.
4. Kết quả đạt được:
Qua việc phân tích rõ sự thay đổi của từng chỉ số thành phần của chỉ số PCI của
Hà Nội qua các năm, những vấn đề còn tồn tại của Hà Nội đã được bộc lộ. Đó chính là
cơ sở để đưa ra những giải pháp cải thiện chỉ số PCI của Hà Nội.

5. Bố cục của luận văn:
Luận văn này bao gồm 03 chương:
- Chương I: Tổng quan về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và phương
pháp đánh giá.
- Chương II: Phân tích sự thay đổi chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI) của thành
phố Hà Nội.
- Chương III: Đề xuất một số giải pháp cải thiện chỉ số PCI của Hà Nội.


4

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH
(PCI) VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
1.1 Xuất phát tình hình
Ngày nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, sự vững mạnh của khu vực kinh tế
tư nhân được xem có vai trò then chốt đối với sự thịnh vượng của nền kinh tế. Các
nước có môi trường pháp lý thuận lợi, thúc đẩy cơ chế thị trường đều đạt được thành
công trong khuyến khích đầu tư tư nhân, tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều việc làm và
góp phần xóa đói giảm nghèo.
Những năm gần đây, Việt Nam là nơi người ta có thể nhận thấy rõ điều này. Từ
khi thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2000, một đạo luật đã dỡ bỏ đáng kể những rào
cản gia nhập thị trường và nhiều rào cản pháp lý khác cho doanh nghiệp, Việt Nam đã
chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của khu vực tư nhân. Hơn 136.400 doanh nghiệp
thuộc khu vực tư nhân được đăng ký chính thức kể từ năm 2000, tăng gấp sáu lần so
với chín năm trước khi Luật Doanh nghiệp ra đời. Sự lớn mạnh đó đã góp phần đưa
nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm ở mức ấn tượng: Khoảng 7%
mỗi năm. Từ đó tạo ra số việc làm cần thiết cho số lao động rất lớn và không ngừng gia
tăng của Việt Nam, đưa một bộ phận đáng kể người dân thoát khỏi đói nghèo.
Mặc dù khu vực kinh tế nhà nước tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế, Chính phủ đã bày tỏ quan điểm đồng tình về đầu tư và thương mại ở khu vực

kinh tế tư nhân phải đóng vai trò trung tâm trong tiến trình phát triển kinh tế của Việt
Nam. Mặc dù bước chuyển về chiến lược phát triển kinh tế quốc gia của Việt Nam là
câu chuyện đã được biết đến rộng rãi trên quốc tế, song còn ít ai hiểu rõ một câu
chuyện khác phức tạp hơn nhiều. Đó là câu chuyện về mô hình phát triển kinh tế ở cấp
tỉnh và vai trò quan trọng của chính quyền địa phương.
Các địa phương của một quốc gia không cùng phát triển đồng đều không phải là
quan niệm mới mẻ. Ngoại trừ một vài quốc đảo hay quốc gia nhỏ, ở mỗi nước đều có
xu hướng phát triển kinh tế theo hướng một số vùng phát triển nhanh hơn những vùng


5

khác. Về điểm này, câu chuyện của Việt Nam lý thú hơn ở chỗ là một nước với một
Đảng cầm quyền và một chính quyền Trung ương vững mạnh nhưng các chính quyền
địa phương vẫn có vai trò đáng kể trong việc tạo ra tốc độ và mô hình phát triển riêng
của mình.
Mô hình phát triển của Việt Nam có nhiều điểm cần lưu ý. Khoảng 20% số tỉnh,
thành (tức là 11 tỉnh, thành trong số 64 tỉnh, thành) hiện chiếm tới hơn 60% sự gia tăng
số doanh nghiệp tư nhân và hơn 70% tổng mức đầu tư và doanh thu của khu vực tư
nhân. Một mặt, đầu tư của khu vực Nhà nước (là khu vực hiện vẫn chiếm tỉ trọng rất
đáng kể trong GDP) được phân bổ khá đồng đều giữa các vùng miền và trước mắt góp
phần thu hẹp sự cách biệt về mức sống. Nhưng mặt khác, các số liệu nghiên cứu cho
thấy xu hướng tăng trưởng chỉ tập trung ở một số vùng của đất nước, phần còn lại thì
tụt hậu và tỏ ra kém năng động hơn rất nhiều nên khó lòng bắt kịp những vùng đó.
Tuy không phải quá bất thường nhưng mô hình phát triển này đặt ra hai thách
thức đối với Việt Nam. Thứ nhất, về lâu dài cả nước khó có thể duy trì tốc độ tăng
trưởng kinh tế nhanh nếu nhiều tỉnh, thành có kinh tế tư nhân phát triển kém năng
động. Những tỉnh, thành phát triển nhanh rất có thể sẽ thấy tốc độ phát triển của họ chỉ
còn ở mức vừa phải do ảnh hưởng của bối cảnh cạnh tranh ngày càng tăng làm giá cả
đất đai, lao động ngày càng cao và sinh ra nhiều áp lực mới cho hệ thống cơ sở hạ

tầng. Tốc độ tăng trưởng cao thường dễ đạt được hơn ở quy mô kinh tế thấp và phần
lớn các tỉnh năng động trong thập niên vừa qua nhanh chóng nhận thấy khó mà tiếp tục
duy trì tốc độ tăng trưởng luôn ở hai con số. Nếu các tỉnh, thành còn lại không đẩy
mạnh tốc độ phát triển của mình, tốc độ tăng trưởng của cả nước sẽ giảm sút và điều đó
đồng nghĩa với việc mức sống và sự đói nghèo sẽ ít được cải thiện hơn. Thứ hai, việc
tăng trưởng kinh tế chủ yếu tập trung ở 11 tỉnh, thành đang tạo nên khuynh hướng
thịnh vượng mà chính quyền Trung ương sẽ thấy khó chấp nhận được về ý nghĩa chính
trị. Mặc dù mức sống không đồng đều của người dân ở các vùng ít khi là nguyên nhân
gây ra bất ổn xã hội, nhưng chính quyền Trung ương thường chịu áp lực chính trị buộc


6

phải tiến hành những biện pháp cải thiện đời sống ở những vùng tụt hậu. Trong phần
lớn các trường hợp, can thiệp “để mang đến sự cân đối” là cách giải quyết không hiệu
quả vì nó làm chậm lại sự phát triển và đẩy lùi hơn nữa việc thực hiện mục tiêu giảm
nghèo của quốc gia. Nói cách khác, sự khác biệt “một trời một vực” về phát triển kinh
tế giữa các vùng có thể có ảnh hưởng chính trị ở chỗ nó sẽ tác động đến việc lựa chọn
chính sách phát triển, từ đó làm giảm tăng trưởng tổng thể.
Sự cách biệt đáng kể này trong phát triển kinh tế ở Việt Nam có thể làm nhiều
nhà quan sát ngạc nhiên, nhất là trong bối cảnh có một chính quyền Trung ương vững
mạnh, cam kết và quyết tâm cải tổ. Lẽ tất nhiên, một số khác biệt này có thể do điều
kiện tự nhiên và điều kiện ban đầu của vùng miền đó, chẳng hạn như vị trí địa lý, chất
lượng nguồn lực lao động… Nhưng ở Việt Nam, chính quyền Trung ương đã cố gắng
rút ngắn những khác biệt đáng kể về phát triển kinh tế ở cấp tỉnh. Chính phủ cho phép
và thậm chí còn khuyến khích các tỉnh thử nghiệm và phát huy sáng kiến ở cấp tỉnh,
coi đây là một cách thức lựa chọn mô hình đổi mới an toàn, hiệu quả sẽ được áp dụng
thực hiện ở quy mô quốc gia. Hơn thế nữa, giống như ở hầu hết các nước, những nỗ
lực của Chính phủ nhằm xác định và chỉ đạo nền kinh tế quốc gia đều tỏ rõ là cách làm
không hoàn hảo, nhất là trong điều kiện hệ thống luật pháp và quy định của Trung

ương còn thiếu tính rõ ràng dẫn đến việc các địa phương hiểu và áp dụng không giống
nhau.
Ở Việt Nam, việc kinh tế phát triển khác xa nhau giữa các tỉnh có thể được xem
là kết quả của một số nhân tố, một số liên quan đến điều kiện tự nhiên, điều kiện ban
đầu của khu vực đó, một số khác liên quan đến bản thân chính quyền tỉnh. Để góp phần
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng ở những tỉnh tụt hậu và duy trì tốc độ tăng trưởng ở
những tỉnh năng động, chính quyền tỉnh cần nắm bắt những mặt nào chính quyền tỉnh
đang làm tốt và những mặt nào còn cần phải cải thiện.
Năm 2002, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Quỹ Châu
Á đã thực hiện dự án nghiên cứu đầu tiên tại 14 tỉnh, thành, nghiên cứu này tập trung


7

vào quan hệ tương tác giữa các yếu tố điều hành kinh tế và sự phát triển kinh tế của
tỉnh, thành đó. Kết quả của dự án nghiên cứu này sau đó đã trở thành cơ sở khởi động
một dự án nghiên cứu khác có quy mô lớn hơn, nghiên cứu về sự khác biệt giữa các
tỉnh, thành. Dự án nghiên cứu thứ hai do VNCI đảm nhận. VNCI là dự án phát triển
kinh tế do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ. Mục tiêu nghiên cứu là
nhằm xác định được các nhân tố điều hành kinh tế có vai trò then chốt đối với sự tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Chỉ số PCI được xây dựng với mục tiêu giúp lý giải nguyên nhân thậm chí
không thể đạt được trong thời gian ngắn, kết quả nghiên cứu cho thấy thực tiễn điều
hành kinh tế tốt có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng ở cấp tỉnh và những thực
tiễn này còn góp phần lý giải sự khác biệt về phát triển kinh tế giữa các tỉnh. Hoặc tại
sao các tỉnh có thể đạt kết quả phát triển kinh tế tương đồng mặc dù điều kiện truyền
thống ban đầu của mỗi tỉnh rất khác nhau? Tập trung vận dụng các thực tiễn điều hành
tốt sẽ góp phần cải thiện sự phát triển kinh tế mà không nhất thiết phải đòi hỏi có được
ngay sự thay đổi to lớn về cơ sở hạ tầng hay con người.
1.2 Khái niệm về chỉ số PCI

Chỉ số Năng lực Cạnh tranh Cấp tỉnh (PCI - Provincial Competitiveness Index)
do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Dự án Nâng cao Năng lực
Cạnh tranh Việt Nam (VNCI) hợp tác xây dựng năm 2005 nhằm đánh giá và xếp hạng
môi trường kinh doanh và chính sách phát triển khu vực Kinh tế tư nhân (KTTN) của
42 tỉnh, thành phố trên cả nước có tính đến những điều kiện khác biệt về vị trí địa lý,
cơ sở hạ tầng, quy mô thị trường giữa các tỉnh, thành phố. Ý tưởng xây dựng chỉ số
PCI bắt nguồn từ một nghiên cứu trước đây của Quỹ Châu Á và VCCI. Đó là nghiên
cứu “Những thực tiễn tốt trong điều hành kinh tế cấp tỉnh ở Việt Nam”, được thực hiện
vào năm 2003 – 2004 tại 14 tỉnh của Việt Nam. Mặc dù chỉ số PCI áp dụng phương
pháp xây dựng chỉ số khác, nhưng vẫn sử dụng những công cụ mà Quỹ Châu Á –
VCCI đã từng thiết kế và sử dụng trong nghiên cứu trước.


8

Dự án Nâng cao Năng lực Cạnh tranh Việt Nam (VNCI) là một dự án phát triển
kinh tế do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ. Dự án do công ty
Development Alternatives Inc (DAI) điều hành. Quỹ Châu Á là nhà thầu phụ chính của
DAI chịu trách nhiệm thực hiện hợp phần Nghiên cứu môi trường chính sách của Dự
án. Mục đích của hợp phần này là nhằm góp phần cải thiện môi trường chính sách về
kinh doanh, đặc biệt tập trung vào môi trường chính sách cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa.
Cụ thể, bằng cách thực hiện điều tra mới đối với doanh nghiệp dân doanh để tìm
hiểu về sự đánh giá của doanh nghiệp đối với môi trường kinh doanh ở địa phương và
kết hợp dữ liệu điều tra với các số liệu so sánh thu thập được từ các nguồn chính thức
về điều kiện ở địa phương, chỉ số PCI cho điểm các tỉnh theo thang điểm 100. Xuyên
suốt các Chỉ số PCI qua các năm từ 2006 đến 2008 là 10 chỉ số thành phần (đối với
năm 2005 là 8 thành phần và năm 2009 là 9 thành phần), bao gồm:
1. Chi phí gia nhập thị trường (Chi phí thành lập doanh nghiệp).
2. Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất.

3. Tính minh bạch và tiếp cân thông tin.
4. Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước/Thanh tra và kiểm tra.
5. Chi phí không chính thức.
6. Ưu đãi đối với Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) (Môi trường cạnh tranh) Î Chỉ
số này sau bị lược bỏ trong báo cáo PCI 2009.
7. Tính năng động và tiên phong của chính quyền tỉnh.
8. Chính sách phát triển khu vực KTTN.
9. Thiết chế pháp lý. Î chỉ số này được bổ sung bắt đầu từ báo cáo PCI 2006
10. Đào tạo lao động. Î chỉ số này được bổ sung bắt đầu từ báo cáo PCI 2006
1.3 Cơ sở lý luận về phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
1.3.1 Cơ sở hình thành phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh


9

Chỉ số PCI được xây dựng với một số điểm đặc biệt góp phần làm cho kết quả
nghiên cứu có thể được vận dụng dễ dàng vào công tác đổi mới điều hành.
Thứ nhất, bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các điều kiện truyền thống ban đầu
tới sự tăng trưởng kinh tế (những điều kiện này là các nhân tố căn bản cần thiết cho sự
tăng trưởng nhưng rất khó hoặc thậm chí không thể đạt được trong thời gian ngắn), kết
quả nghiên cứu cho thấy thực tiễn điều hành kinh tế tốt ở cấp tỉnh có vai trò quan trọng
đối với sự tăng trưởng và những thực tiễn này còn góp phần lý giải sự khác biệt về phát
triển kinh tế giữa các tỉnh hoặc tại sao các tỉnh đạt kết quả phát triển kinh tế tương
đồng mặc dù điều kiện truyền thống ban đầu của mỗi tỉnh này rất khác nhau. Tập trung
vận dụng các thực tiễn điều hành tốt sẽ góp phần cải thiện sự phát triển kinh tế mà
không nhất thiết phải đòi hỏi ngay một sự thay đổi to lớn nào về mặt hạ tầng cơ sở vật
chất hay con người ở vùng đó.
Thứ hai, bằng cách chuẩn hóa điểm quanh các thực tiễn tốt nhất đã có ở Việt
Nam, chỉ số PCI hướng chính quyền địa phương vào cải thiện cách điều hành của họ,
không nhất thiết cứ phải dựa vào chuẩn mực lý tưởng nào về mô hình điều hành mà có

thể căn cứ ngay vào những thực tiễn tốt nhất đã sẵn có ở các tỉnh bạn và ngay trong
cùng một hệ thống chính trị. Vì vậy, về lý thuyết, bất cứ tỉnh nào cũng có thể đạt tới
điểm tuyệt đối bằng cách áp dụng thực tiễn tốt sẵn có của Việt Nam. Điều đó có nghĩa
là chẳng có lý gì để biện hộ cho sự điều hành yếu kém ở tỉnh mình khi mà chính quyền
của bất cứ tỉnh nào đều có thể tự cải thiện để tạo ra môi trường kinh doanh hấp dẫn
ngay tại địa phương mình.
Thứ ba, bằng cách so sánh thực tiễn điều hành kinh tế với thực tế phát triển
kinh tế, chỉ số PCI cung cấp các đánh giá ban đầu về tầm quan trọng của thực tiễn điều
hành đối với sức thu hút đầu tư và tăng trưởng. Cuộc nghiên cứu này là một minh
chứng cụ thể về mối tương quan giữa thực tiễn điều hành kinh tế tốt với đánh giá của
doanh nghiệp, và đặc biệt quan trọng là với sự cải thiện phúc lợi của địa phương. Mối
quan hệ thứ hai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó nêu rõ các chính sách và thực tiễn


10

điều hành kinh tế tốt không chỉ làm lợi cho các doanh nghiệp mà còn làm lợi cho xã
hội, khu vực kinh tế tư nhân năng động sẽ tạo thêm việc làm, góp phần nâng cao mức
sống cho nhân dân.
1.3.2 Các chỉ số cấu thành năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
Chỉ số PCI đánh giá và xếp hạng các tỉnh dựa trên thái độ và việc thực thi chính
sách của chính quyền tỉnh đối với khu vực KTTN. Tất nhiên, có rất nhiều yếu tố khác
ở địa phương có ảnh hưởng đến dự định và cam kết đầu tư của doanh nghiệp như qui
mô thị trường, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và vị trí địa lý…Tuy nhiên những yếu tố
truyền thống này, thường không chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những thái độ và thực thi
chính sách hiện tại của chính quyền tỉnh trong giai đoạn ngắn hạn hoặc trung hạn. Sự
khác biệt về các điều kiện truyền thống giữa các tỉnh thường được duy trì trong một
thời gian dài. TP.HCM sẽ luôn có thị trường lớn hơn Hà Tĩnh. Bình Dương sẽ luôn có
vị trí tốt hơn Cà Mau hoặc Kon Tum. Cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực của Hà Nội có
thể sẽ luôn tốt hơn Hà Giang.

Nếu chỉ số cạnh tranh được xây dựng dựa trên cả những điều kiện truyền thống
này, sẽ hạn chế tính hấp dẫn của các kết quả điều tra. Những tỉnh, thành phố lớn và
phát triển như TP.HCM, Hà Nội, Bà Rịa Vũng Tàu, Đà Nẵng, Đồng Nai và Hải Phòng
chắc chắn sẽ có thứ hạng cạnh tranh nhất bởi vì những tỉnh này có được các điều kiện
truyền thống tốt. Nhưng quan trọng hơn, việc không loại trừ các điều kiện truyền thống
sẽ dẫn tới khả năng bỏ qua nỗ lực của những tỉnh mặc dù kém phát triển hơn và không
có những thuận lợi về điều kiện truyền thống, nhưng vẫn đang đặc biệt cố gắng cải
thiện môi trường kinh doanh tại địa phương mình.
Để có thể so sánh các tỉnh trên cơ sở bình đẳng, PCI tập trung vào chất lượng
của điều hành kinh tế trong việc thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân và loại bỏ
những yếu tố về điều kiện truyền thống.Theo cách tiếp cận này, mười chỉ số cấu thành
năng lực cạnh tranh được xây dựng để phản ánh những khía cạnh khác nhau của môi
trường kinh doanh, những khía cạnh này chịu ảnh hưởng trực tiếp từ việc thực thi


11

chính sách của chính quyền địa phương trong ngắn hạn và trung hạn. Những chỉ số
thành phần này được tóm tắt như sau:
1. Chi phí gia nhập thị trường: Chỉ số thành phần này đo lường thời gian một
doanh nghiệp cần để đăng ký kinh doanh, xin cấp đất và nhận được mọi loại giấy phép,
thực hiện tất cả các thủ tục cần thiết để bắt đầu tiến hành hoạt động kinh doanh.
Dữ liệu mềm cho chỉ số thành phần này được lấy từ trả lời của các doanh nghiệp
cho các câu hỏi trong phiếu điều tra. Những câu hỏi đó là:
- Doanh nghiệp của bạn đăng ký kinh doanh tại Sở KH&ĐT (nếu thành lập sau
khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời) hoặc xin phép thành lập tại UBND tỉnh và đăng ký
tại Sở KHĐT (nếu trước khi Luật Doanh nghiệp 1999 ra đời) mất bao nhiêu ngày?
- % doanh nghiệp phải mất hơn 1 tháng để khởi sự kinh doanh.
- % doanh nghiệp phải mất hơn 3 tháng để khởi sự kinh doanh.
- Nếu doanh nghiệp của bạn đăng ký lại mất bao nhiêu ngày?

- Doanh nghiệp của bạn hiện có bao nhiêu giấy đăng ký, giấy phép kinh doanh
và quyết định chấp thuận (trong nhiều lĩnh vực như môi trường, lao động, khai thác tài
nguyên, vệ sinh thực phẩm, an toàn cháy nổ…)?
- Doanh nghiệp của bạn có gặp khó khăn để có đủ các loại giấy phép cần thiết
không?
2. Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất: Chỉ số thành phần này
được tính toán dựa trên hai khía cạnh về đất đai mà doanh nghiệp phải đối mặt. Đó là
việc tiếp cận đất đai có dễ dàng không và khi có đất để sử dụng thì doanh nghiệp có
được đảm bảo về sự ổn định, an toàn trong sử dụng đất hay không.
Khía cạnh thứ nhất (tiếp cận đất đai) phản ánh tình trạng liệu doanh nghiệp có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) có đủ mặt bằng thực hiện những yêu
cầu mở rộng kinh doanh, hoặc doanh nghiệp có đang thuê lại đất của DNNN không và
đánh giá việc thực hiện chuyển đổi đất tại địa phương. Khía cạnh này được thể hiện rõ
qua 05 chỉ tiêu thành phần là:


12

• Tỷ lệ phần trăm số doanh nghiệp có GCNQSDĐ hay đang trong thời gian
chờ nhận GCNQSDĐ.
• Tỷ lệ phần trăm số doanh nghiệp không có GCNQSDĐ và phải thuê lại
đất từ các DNNN.
• Tỷ lệ phần trăm số doanh nghiệp cho biết những khó khăn về đất đai và
mặt bằng cản trở việc mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
• Chính sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất tại địa phương.
• Tỷ lệ tổng diện tích đất đai trong tỉnh đã có GCNQSDĐ.
• Giá đất thực chất (điều chỉnh theo các điều kiện cung cầu).
• Chất lượng chính sách các KCN của tỉnh (bao gồm tỷ lệ lấp đầy các
KCN, đánh giá của doanh nghiệp về nỗ lực của Ban quản lý KCN tỉnh và số lượng các
KCN dự kiến)

Khía cạnh thứ hai (sự ổn định của mặt bằng sản xuất) bao gồm đánh giá cảm
nhận của doanh nghiệp về những rủi ro trong quá trình sử dụng đất (ví dụ như rủi ro từ
việc bị thu hồi đất, định giá không đúng, thay đổi hợp đồng thuê đất) cũng như thời hạn
sử dụng đất. Khía cạnh này cũng được phản ánh qua 05 chỉ tiêu thành phần sau:
• Rủi ro bị thu hồi hoặc đòi lại đất.
• Đánh giá về mức độ tương xứng trong đền bù cho các diện tích bị thu
hồi.
• Rủi ro do thay đổi nội dung hợp đồng thuê đất.
• Nhận thức mức độ công bằng của cơ chế giải quyết tranh chấp hợp đồng
thuê đất.
• Thời gian thuê đất.
3. Tính minh bạch và tiếp cận thông tin: Chỉ số thành phần này đánh giá khả
năng mà doanh nghiệp có thể tiếp cận những kế hoạch của tỉnh và văn bản pháp lý cần
thiết cho hoạt động kinh doanh, tính sẵn có của các loại tài liệu, văn bản này; liệu


13

chúng có được đưa ra tham khảo ý kiến doanh nghiệp trước khi ban hành và khả năng
dự đoán trong quá trình triển khai thực hiện các văn bản đó, mức độ tiện dụng của
trang web của tỉnh đối với doanh nghiệp.
Chỉ số tính minh bạch và tiếp cận thông tin bao gồm 04 thuộc tính: Khả năng
tiếp cận, tính công bằng và nhất quán của hồ sơ, tính dự báo trước được và tính cởi mở.
a. Khả năng tiếp cận: Thuộc tính đầu tiên của tính minh bạch và tiếp cận thông
tin là tính sẵn có của thông tin, đó là việc cung cấp thông tin một cách kịp thời. Theo
quy định của pháp luật, thông tin về đất đai và các kế hoạch của chính quyền tỉnh phải
được phổ biến tới mọi người dân, nhưng thực tế, việc tiếp cận các thông tin này thường
gặp rất nhiều trở ngại. Trong bối cảnh của Việt Nam, hạn chế công khai thông tin có
ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng của khu vực tư nhân bởi vì các doanh nghiệp
không có cơ hội khai thác và tận dụng các sáng kiến chính sách của chính quyền tỉnh.

Tính sẵn có bao gồm khả năng tiếp cận dễ dàng thông tin về những luật lệ mới, các văn
bản hướng dẫn thi hành và các quyết định của tỉnh. Khi thông tin về những thay đổi
của pháp luật không sẵn có, một doanh nghiệp vẫn có thể hoạt động thành công trong
một vài năm trước mắt, chỉ để rồi sau đó nhận ra họ đang hoạt động trái pháp luật, mà
lý do đơn giản là vì không được cập nhật về luật pháp. Trong phần lớn các trường
hợp, sự thiếu cập nhật thông tin như vậy không gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp
nhưng luôn tiềm ẩn nguy cơ sẽ có một quan chức chính quyền lợi dụng tình trạng
thông tin bị thiên lệch đó để trục lợi. Ngược lại, một doanh nghiệp lẽ ra đã có thể tiết
kiệm được chi phí, nắm bắt được cơ hội đầu tư hay đã được hoàn thuế nhưng họ đã bỏ
lỡ các cơ hội đó đơn giản chỉ vì họ không biết về những thông tin đó.
b. Tính công bằng và nhất quán của hồ sơ: Thiếu công bằng trong tiếp cận thông
tin có thể dẫn đến sự sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực của tỉnh và sự kém hiệu quả
đó không đơn giản chỉ nằm ở việc chuyển giao nguồn lực từ chủ thể này sang chủ thể
khác. Chúng ta có thể lấy các văn bản kế hoạch của tỉnh làm ví dụ. Tác dụng tích cực
của kế hoạch chuyển đổi mục đích sử dụng đất và phát triển cơ sở hạ tầng sẽ bị hạn chế


14

đi rất nhiều nếu nội dung chi tiết của kế hoạch chỉ được một số ít người trong nội bộ
biết. Một trong nhiều lý do khiến dụng ý tốt của kế hoạch lại bị hạn chế - ngoài hậu quả
do đầu cơ đất đai để kiếm lời và cơn sốt đất có hại cho nền kinh tế ở nhiều tỉnh - là thị
trường bất động sản còn thiếu minh bạch. Chỉ một số ít người trong nội bộ nắm bắt
thông tin mới biết rõ vị trí, địa điểm sẽ có dự án phát triển cơ sở hạ tầng và khu công
nghiệp. Do đó, họ sẽ trục lợi bằng cách mua trước đất ở gần địa điểm các dự án này,
mua trước khi thông tin qui hoạch được chính thức công bố ra bên ngoài. Những nhà
đầu tư khác về bất động sản buộc phải phỏng đoán dựa trên những thông tin ít ỏi dẫn
đến tình trạng tích lũy thừa một cách bất hợp lý, dẫn đến những biến động thất thường
của thị trường và làm trầm trọng thêm cơn sốt đất. Tương tự, cơ hội cho tham nhũng
cũng nảy sinh khi chính quyền tỉnh không công khai ngân sách địa phương cho doanh

nghiệp vì doanh nghiệp sẽ không thể đối chiếu thực tế chi tiêu ngân sách với kế hoạch
chi ngân sách. Doanh nghiệp chỉ còn cách tiếp cận văn bản của tỉnh bằng cách thông
qua những mối quan hệ riêng có lợi cho các quan chức tỉnh. Vì vậy, với chỉ số về tính
minh bạch, câu hỏi tiếp theo của nhóm nghiên cứu là nhằm có thể đánh giá sự công
bằng trong tiếp cận thông tin. Nhóm nghiên cứu sử dụng ba chỉ tiêu sau:
- Khả năng tiếp cận phụ thuộc vào việc phải có mối quan hệ với cơ quan Nhà
nước của tỉnh: Chỉ tiêu này thể hiện tỷ lệ phần trăm số doanh nghiệp cho rằng để tiếp
cận được những tài liệu trên, việc phải có mối quan hệ với cơ quan Nhà nước ở tỉnh là
quan trọng hoặc thậm chí rất quan trọng.
- Gia đình và bạn bè có vai trò quan trọng để hỗ trợ doanh nghiệp thương
lượng với các quan chức Nhà nước ở tỉnh: Nhiều doanh nghiệp phải dựa vào mối quan
hệ cá nhân mới nhận được sự ủng hộ của cán bộ Nhà nước ở tỉnh, điều mà những
doanh nghiệp khác ít quen biết hơn sẽ khó có thể có được. Nhóm nghiên cứu đo lường
chỉ tiêu này bằng tỷ lệ phần trăm số doanh nghiệp đồng ý hoặc rất đồng ý với nhận
định “gia đình và bạn bè có vai trò quan trọng để hỗ trợ doanh nghiệp thương lượng
với cán bộ Nhà nước”.


15

- Phần trăm số doanh nghiệp đồng ý với nhận định đàm phán số thuế phải trả
với cán bộ thuế ở địa phương là một phần quan trọng của công việc kinh doanh: Chỉ
tiêu này đánh giá mức độ nhất quán trong áp dụng chính sách thuế đối với các doanh
nghiệp ở trong cùng một tỉnh. Mặc dù thương lượng tiền thuế là tình trạng phổ biến đối
với các hộ kinh doanh cá thể nhưng đối với DNTN, họ có mã số thuế và định kỳ nộp
thuế trên cơ sở hóa đơn thuế giá trị gia tăng cũng cho biết vẫn cần phải thương lượng
thuế riêng với các cán bộ thuế ở địa phương.
c. Tính dự báo trước được: Thuộc tính thứ ba của Tính minh bạch là khả năng
dự đoán được, nói cách khác là các văn bản pháp luật Nhà nước và quy định của tỉnh
phải được diễn giải và áp dụng sao cho doanh nghiệp có thể dự báo được về các thay

đổi có thể xảy ra và tích hợp, cập nhật những khả năng đó vào trong kế hoạch sản xuất,
kinh doanh của mình. Ở đây, điều quan trọng là tìm hiểu xem doanh nghiệp có hiểu
cách thức ra quyết định và thi hành quyết định của tỉnh hay không để từ đó, họ có thể
nhận thức đúng hướng chiến lược dài hạn cũng như có thể cân nhắc quyết định đầu tư
một cách có căn cứ. Tính dự báo trước được đo lường bằng tỷ lệ phần trăm số doanh
nghiệp trả lời là “thường xuyên” hay “luôn luôn” cho hai câu hỏi sau:
- Với những chính sách pháp luật Trung ương có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình, doanh nghiệp của bạn có thể đoán trước được việc
thực hiện những chính sách pháp luật đó ở cấp tỉnh không?
- Lãnh đạo cấp tỉnh có thường xuyên tiếp xúc với doanh nghiệp để thảo luận về
các thay đổi pháp luật và chính sách không?
d. Tính cởi mở: Để lượng hóa được thuộc tính này, nhóm nghiên cứu PCI truy
cập vào trang web của từng tỉnh để đánh giá những nội dung thông tin danh cho doanh
nghiệp sẵn có trên trang web. Mỗi tỉnh sẽ nhận được 1 điểm cho mỗi loại thông tin liệt
kê trong bảng “Thang điểm đánh giá hệ thống website của tỉnh” (cụ thể tại phần Phụ
lục). Để đảm bảo sự khách quan, nhóm nghiên cứu sử dụng thêm công cụ “Alexa” của
trang web Google xếp hạng trang web theo số lượng truy cập hoặc kết nối để đo lường


16

mức độ quan trọng của trang web và sự quan tâm đến môi trường đầu tư của tỉnh nói
chung.
4. Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước: Chỉ số thành
phần này đo lường thời gian mà các doanh nghiệp phải tiêu tốn khi chấp hành các thủ
tục hành chính, cũng như mức độ thường xuyên và thời gian doanh nghiệp phải tạm
dừng kinh doanh để các cơ quan Nhà nước của tỉnh thực hiện việc thanh tra, kiểm tra.
Thực tế các nhà quản lý doanh nghiệp thường phải bỏ dở công việc kinh doanh để xoay
sở và đương đầu với các vấn đề sự vụ giấy tờ liên quan đến quản lý hành chính của các
cơ quan Nhà nước – thời gian mà lẽ đã có thể danh cho hoạt động quản lý kinh doanh.

Như vậy, có 02 khía cạnh được nhóm nghiên cứu đề cập đến ở đây là: Thời gian giải
quyết các vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính và thời gian làm việc với các đoàn
thanh tra, kiểm tra.
a. Thời gian giải quyết thủ tục hành chính: Hai chỉ tiêu được lựa chọn là:
- Tỷ lệ thời gian của nhà quản lý doanh nghiệp phải bỏ ra để giải quyết các công
việc liên quan đến giấy tờ và thủ tục hành chính?
- Các “chi phí cơ hội cho khoảng thời gian bị lãng phí” nêu trên có giảm đi sau
thời điểm Luật Doanh nghiệp chính thức có hiệu lực hay không?
b. Chính sách thanh tra, kiểm tra: Nhiều doanh nghiệp vẫn cho rằng hoạt động
thanh tra và kiểm tra vẫn đang là gánh nặng ngay cả sau khi Luật Doanh nghiệp đã có
hiệu lực. Các cơ quan Nhà nước ở địa phương vẫn tiến hành thanh tra và kiểm tra quá
nhiều, và thời gian thanh, kiểm tra thường kéo dài. Ở một mức độ nào đó, hoạt động
thanh tra và kiểm tra là việc làm cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang trong
quá trình hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật của mình. Khi ngày càng nhiều giấy
phép con liên quan đến lĩnh vực an toàn, sức khỏe và bảo vệ môi trường được bãi bỏ
ngay từ khâu khởi sự kinh doanh thì trách nhiệm giám sát và quản lý sẽ dồn vào các cơ
quan quản lý chức năng để đảm bảo rừng DNTN tuân thủ những tiêu chuẩn đã đặt ra.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là các cơ quan cần thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước


×