Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty cổ phần đầu tư và thương mại TNG thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 137 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------------------

DƯƠNG HƯƠNG LAM

Đề tài:

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC PHÂN TÍCH
TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ
THƯƠNG MẠI TNG - THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGHIÊM SĨ THƯƠNG

Hà Nội – Năm 2010

1


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty Cổ phần Đầu tư
và Thương mại TNG_ Thái nguyên” được thực hiện trên hệ thống các tài liệu tham
khảo, các số liệu điều tra thực tế và kết quả điều tra thông qua phiếu điều tra về nhận
thức của đội ngũ cán bộ có liên quan đến công tác phân tích tài chính tại Công ty do
tác giả thực hiện.
Tôi xin cam đoan toàn bộ số liệu sử dụng trong luận văn là hoàn toàn đúng sư
thực, nội dung luận văn phù hợp với yêu cầu và mục tiêu của đề tài đặt ra.
Ngày 01 tháng 10 năm 2010


Học viên

Dương Hương Lam

2


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQ

Bình quân

CBNV

Cán bộ nhân viên

CN

Công nhân

CĐKT

Cân đối kế toán

DT

Doanh thu

KQHĐKD


Kết quả hoạt động kinh doanh

LN

Lợi nhuận

LCTT

Lưu chuyển tiền tệ



Lao động

TC

Tài chính

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

TSCĐ

Tài sản cố định

PTTC

Phân tích tài chính


SX

Sản xuất

&



3


LỜI MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế, là một đơn
vị hạch toán độc lập, tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh để tạo ra các sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội nhằm thực hiện các mục
tiêu về lợi nhuận. Tối đa hoá lợi nhuận là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của doanh
nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp cần phải có những quyết sách, chiến lược phù hợp,
kịp thời đối với các hoạt động kinh tế của mình. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị
trường đa thành phần, nếu chỉ dựa vào khả năng của mình và bỏ qua sự hỗ trợ của các
nguồn lực bên ngoài, doanh nghiệp khó có thể đứng vững và phát triển được.
Một trong những nền tảng để nâng cao hiệu quả các hoạt động kinh doanh tăng
cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó là việc thực hiện tốt công tác phân
tích tình hình tài chính.
Phân tích tình hình tài chính là một công việc thường xuyên và vô cùng cần thiết
không những đối với chủ sở hữu doanh nghiệp mà còn cần thiết đối với tất cả các đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp có quan hệ về kinh tế và pháp lý với doanh nghiệp.
Đánh giá được đúng thực trạng tài chính, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra được các quyết
định kinh tế thích hợp, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả vốn và các nguồn
lực; Nhà đầu tư có quyết định đúng đắn với sự lựa chọn đầu tư của mình; các chủ nợ

được đảm bảo về khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với các khoản cho vay;
Nhà cung cấp và khách hàng đảm bảo được việc doanh nghiệp sẽ thực hiện các cam
kết đặt ra; các cơ quan quản lý Nhà nước có được các chính sách để tạo điều kiện
thuận lợi cũng như hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đồng thời
kiểm soát được hoạt động của doanh nghiệp bằng pháp luật.
Chỉ có phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp mới đánh giá đầy đủ và
sâu sắc mọi hoạt động kinh tế trong trạng thái thực của chúng. Trên cơ sở đó, nêu lên
một cách tổng hợp về trình độ hoàn thành các mục tiêu - biểu hiện bằng hệ thống chỉ
tiêu kinh tế kỹ thuật tài chính của doanh nghiệp.

4


Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà
nước, các doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh. Mỗi doanh
nghiệp đều có rất nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của mình như các
nhà đầu tư, nhà cho vay, nhà cung cấp…Mỗi đối tượng này quan tâm đến tình hình tài
chính của doanh nghiệp trên những góc độ khác nhau. Song nhìn chung, họ đều quan
tâm đến khả năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức
lợi nhuận tối đa.
Phân tích tình hình tài chính cũng phải cung cấp tin về các nguồn lực kinh tế, vốn
chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của các quá trình, các tình huống làm biến đổi các
nguồn vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp. Đồng thời qua đó cho biết thêm nghĩa
vụ của doanh nghiệp đối với các nguồn lực này và các tác động của những nghiệp vụ
kinh tế, giúp cho chủ doanh nghiệp dự đoán chính xác quá trình phát triển doanh
nghiệp trong tương lai. Qua đó cho thấy, phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là
quá trình kiểm tra, đối chiếu số liệu, so sánh số liệu về tài chính thực có của doanh
nghiệp với quá khứ để định hướng trong tương lai. Từ đó, có thể đánh giá đầy đủ mặt
mạnh, mặt yếu trong công tác quản lý doanh nghiệp và tìm ra các biện pháp sát thực để
tăng cường các hoạt động kinh tế và còn là căn cứ quan trọng phục vụ cho việc dự

đoán, dự báo xu thế phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong điều kiện hiện nay, đa phần các doanh nghiệp mới chỉ quan tâm nhiều đến
công tác kế toán tài chính chứ chưa quan tâm nhiều đến việc phân tích tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Trong khi đó kết quả của việc phân tích tài chính sẽ là cơ sở
vững chắc cho việc ra quyết định kinh doanh của các nhà quản trị. Công tác phân tích
tình hình tài chính phải được diễn ra một cách thường xuyên và được đặt ra như một
yêu cầu cấp thiết.

5


Xuất phát từ những thực tế trên tôi đã chọn đề tài “Hoàn thiện phân tích tài
chính của Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG _ Thái nguyên” nhằm góp
một phần công sức vào việc tăng cường quản lý tài chính của các doanh nghiệp nói
chung và Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG nói riêng.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài tập trung vào các vấn đề sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của phân tích tài chính doanh nghiệp;
- Vận dụng cơ sở lý luận để tiến hành phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ
phần Đầu tư và Thương mại TNG;
- Từ thực trạng tình hình tài chính của Công ty đưa ra các giải pháp nhằm hoàn
thiện tình hình tài chính.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Phân tích tài chính là công việc hết sức quan trọng trong khâu quản lý tài chính
của mỗi doanh nghiệp, nó liên quan đền nhiều lĩnh vực như kế toán, tài chính, luật
pháp, và các chính sách quản lý tài chính của Nhà nước. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
giới hạn trong việc nghiên cứu hiệu quả hoạt động tài chính thông qua việc phân tích
báo cáo tài chính tại Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: là phương pháp khai thác những thông tin

khoa học lý luận qua sách, tài liệu, giáo trình có liên quan đến vấn đề nghiên cứu (ở
đây là vấn đề hoạch định tài chính).
- Phương pháp điều tra trắc nghiệm: là phương pháp đo lường khách quan mức
độ hiểu biết của người được điều tra thông qua phiếu điều tra.
- Phương pháp điều tra bằng trò chuyện: là phương pháp thu lượm những thông
tin về vấn đề nghiên cứu trong quá trình trao đổi ý kiến trực tiếp với người được phỏng
vấn.
- Phương pháp thống kê và các phương pháp toán học sử dụng trong nghiên cứu
khoa học: là các phương pháp dùng để xử lý các số liệu, tài liệu thực tế thu thập được.

6


V. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Tổng hợp những lý luận chung về phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
Vận dụng cơ sở lý thuyết vào thực tiễn công tác hoạch định tài chính tại Công ty
cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG - Thái Nguyên, từ đó đưa ra những kiến nghị cho
những tồn tại liên quan đến vấn đề này.
VI. TÊN VÀ KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Tên đề tài: Hoàn thiện phân tích tình hình tài chính của Công ty Cổ phần
Đầu tư và Thương mại TNG _ Thái nguyên”
Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận; phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm
ba phần:
- Phần 1: Tổng quan về phân tích tài chính các doanh nghiệp sản xuất.
- Phần 2: Thực trạng phân tích tài chính tại Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương
mại TNG – Thái nguyên.
- Phần 3: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công
ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG – Thái nguyên.


7


PHẦN I:
TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH CÁC DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT
1.1. KHÁI NIỆM TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp
Các mối quan hệ về mặt giá trị được biểu hiện bằng tiền trong lòng một doanh
nghiệp và giữa doanh nghiệp với các chủ thể có liên quan ở bên ngoài mà trên cơ sở
giá trị của doanh nghiệp được tạo lập.
Giá trị của doanh nghiệp là sự hữu ích của doanh nghiệp đối với chủ thể có liên
quan.
Các hoạt động của doanh nghiệp để làm tăng giá trị của mình bao gồm:
- Tìm kiếm, lựa chọn cơ hội kinh doanh và tổ chức huy động vốn,
- Quản lý chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh, hạch toán chi phí và lợi
nhuận,
- Tổ chức phân phối lợi nhuận cho các chủ thể liên quan và tái đầu tư.
1.1.2. Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện
các hoạt động kinh doanh [Luật doanh nghiệp 2005].
1.1.3. Đặc điểm của công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một thực thể pháp lý tồn tại độc lập tách khỏi các chủ sở hữu
của nó. Công ty có thể có tài sản, huy động kinh phí, thiết lập các nghĩa vụ bằng hợp
đồng và tiến hành nhiều công việc khác với tên riêng của nó. Các chủ sở hữu có thể
chuyển giao quyền sở hữu cho người khác một cách dễ dàng mà không gây gián đoạn
các hoạt động kinh doanh của Công ty. Quyền sở hữu đối với công ty thể hiện qua việc
các cổ phần đem lại cho cổ đông quyền được hưởng lợi tức cổ phần và quyền biểu
quyết, bầu Hội đồng quản trị. Công ty cổ phần gồm 3 loại: Công ty cổ phần nội bộ,

Công ty cổ phần đại chúng, Công ty cổ phần đại chúng đã niêm yết.

1


Công ty cổ phần nội bộ là loại công ty phát hành cổ phiếu trong các sáng lập
viên, công nhân và người quen thuộc với công ty.
Công ty cổ phần đại chúng là loại công ty có phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công
chúng.
Công ty cổ phần đại chúng đã niêm yết là loại công ty đã đăng ký tên cổ phần
của nó vào danh sách chứng khoán được mua, bán trên thị trường chứng khoán.
* Đặc điểm
- Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là
cổ phần. Cổ phần là đơn vị vốn nhỏ nhất trong công ty và có thể được chuyển nhượng
tự do, vì thế, có thể tham gia vào công ty cổ phần bằng cách mua cổ phiếu được chào
bán trên thị trường chứng khoán.
- Thành viên của công ty cổ phần là các chủ sở hữu cổ phần (gọi là cổ đông), là
đồng chủ sở hữu của công ty, hoặc cá nhân, tổ chức. Cổ đông của công ty cổ phần có
hai loại chính: cổ đông sáng lập và cổ đông khác với những quy định về điều kiện
tham gia khác nhau. Số lượng cổ đông được quy định về điều kiện tham gia khác nhau.
Số lượng cổ đông được quy định tối thiểu là ba và không hạn chế số tối đa.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành các loại chứng khoán theo quy định của
pháp luật về chứng khoán để huy động vốn từ công chúng. Đây là đặc điểm tạo ưu thế
đặc biệt cho công ty cổ phần so với các loại hình doanh nghiệp khác.
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ khi được cấp chứng nhận đăng ký
kinh doanh.
1.2. PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng không chỉ trong bản thân doanh

nghiệp mà cả trong nền kinh tế, nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia
mà tại đây diễn ra quá trình sản xuất kinh doanh: Đầu tư, tiêu thụ và phân phối, trong
đó sự tru chuyển của vốn luôn gắn liền với sự vận động của vật tư hàng hoá.

2


Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh
trong quá trình sản xuất kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Nói cách
khác, trên giác độ kinh doanh vốn, hoạt động tài chính là những quan hệ tiền tệ gắn
trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn một cách có
hiệu quả.
Để nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp mình cũng như tình hình tài
chính của các đối tượng quan tâm thì việc phân tích tài chính là rất quan trọng. Thông
qua việc phân tích tình hình tài chính, người ta có thể sử dụng thông tin đánh giá tiềm
năng, hiệu quả kinh doanh cũng như rủi ro trong tương lai và triển vọng của doanh
nghiệp. Bởi vậy, việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là mối quan tâm
của nhiều nhóm đối tượng khác nhau như Ban giám đốc (Hội đồng quản trị) các nhà
đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các nhà cho vay tín dụng, nhân viên ngân hàng, các
nhà bảo hiểm và kể cả cơ quan Nhà nước cũng như người lao động. Mỗi nhóm người
này có nhu cầu thông tin khác nhau, do vậy mỗi nhóm có những xu hướng tập trung
vào các khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của một doanh nghiệp.
Như vậy, phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái
niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các
thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng
và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp cho người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định
tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
1.2.1.2. Sự cần thiết phân tích tài chính doanh nghiệp
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt trên nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh

tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển được thì phải
bảo đảm một tình hình tài chính vững chắc và ổn định.
Muốn vậy phải phân tích được tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích tài
chính là nghiên cứu khám phá hoạt động tài chính đã được biểu hiện bằng con số. Cụ
thể hơn, phân tích tình hình tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so
sánh số liệu về tài chính hiện hành với quá khứ mà nếu không phân tích thì các con số

3


đó chưa có ý nghĩa lớn đối với những người quan tâm đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Nhiệm vụ của phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là sử dụng
các công cụ, phương pháp và kỹ thuật để làm các con số nói lên thực chất của tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Các quyết định của người quan tâm sẽ chính xác hơn
nếu như họ nắm bắt được cơ chế hoạt động tài chính thông qua việc sử dụng thông tin
của phân tích tài chính. Mặc dù việc sử dụng thông tin tài chính của một nhóm người
trên những góc độ khác nhau, song phân tích tình hình tài chính cũng nhằm thoả mãn
một cách duy nhất cho các đối tương quan tâm, cụ thể là:
- Đối với bản thân doanh nghiệp: Việc phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho
các nhà lãnh đạo và bộ phận tài chính doanh nghiệp thấy được tình hình tài chính của
đơn vị mình và chuẩn bị lập kế hoạch cho tương lai cũng như đưa ra các kết quả đúng
đắn kịp thời phục vụ quản lý. Qua phân tích, nhà lãnh đạo doanh nghiệp thấy được
một cách toàn diện tình hình tài chính trong doanh nghiệp trong mối quan hệ nội bộ
với mục đích lợi nhuận và khả năng thanh toán để trên cơ sở đó dẫn dắt doanh nghiệp
theo một chiều hướng sao cho chỉ số của chỉ tiêu tài chính thoả mãn yêu cầu của chủ
nợ cũng như của các chủ sở hữu.
- Đối với các chủ Ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng: Phân tích tình hình tài
chính cho thấy khả năng thanh toán của doanh nghiệp về các khoản nợ và lãi. Đồng
thời, họ quan tâm đến số lượng vốn của chủ sở hữu, khả năng sinh lời của doanh
nghiệp để đánh giá đơn vị có trả nợ được hay không trước khi quyết định cho vay.

- Đối với nhà cung cấp: Doanh nghiệp là khách hàng của họ trong hiện tại và
tương lai. Họ cần biết khả năng thanh toán có đúng hạn và đầy đủ của doanh nghiệp
đối với món nợ hay không. Từ đó họ đặt ra vấn đề quan hệ lâu dài đối với doanh
nghiệp hay từ chối quan hệ kinh doanh .
- Đối với các nhà đầu tư : Phân tích tình hình tài chính giúp cho họ thấy khả năng
sinh lợi, mức độ rủi ro hiện tại cũng như trong tương lai của doanh nghiệp để quyết
định xem có nên đầu tư hay không.
- Đối với công nhân viên trong doanh nghiệp: Nhóm người này cũng muốn biết
về thu nhập của mình có ổn định không và khả năng sinh lời của doanh nghiệp.

4


- Đối với Nhà nước: Cần thông tin cho việc áp dụng các chính sách quản lý vĩ
mô, để điều tiết nền kinh tế.
Như vậy, hoạt động tài chính tập trung vào việc mô tả mối quan hệ mật thiết giữa
các khoản mục và nhóm các khoản mục nhằm đạt được mục tiêu cần thiết phục vụ cho
chủ doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác nhằm đưa ra quyết định hợp lý, hiệu
quả phù hợp với mục tiêu của đối tượngnày. Mục đích tối cao và quan trọng nhất của
phân tích tình hình tài chính là giúp cho nhà quản trị lựa chọn được phương án kinh
doanh tối ưu và đánh giá chính xác tiềm năng của doanh nghiệp. Để phân tích tình
hình tài chính của doanh nghiệp thì hệ thống báo cáo tài chính kế toán của doanh
nghiệp chính là cơ sở tài liệu hết sức quan trọng .
1.2.2. Mục tiêu và vài trò của phân tích tài chính
Phân tích tình hình tài chính bao gồm việc đánh giá các điều kiện tài chính của
doanh nghiệp trong quá khứ, ở hiện tại cũng như tương lai. Mục tiêu của phân tích tài
chính nhằm nhận dạng những biểu hiện bất ổn trong vấn đề tài chính có ảnh hưởng
đến tương lai phát triển của doanh nghiệp. Phân tích tài chính có thể được một số tổ
chức tài chính thực hiện từ bên ngoài doanh nghiệp nhằm tìm hiểu chính sách tín dụng,
tiềm năng đầu tư của doanh nghiệp đó. Mục tiêu căn bản của phân tích tài chính bao

gồm:
- Nhận dạng điểm mạnh, điểm yếu, thuận lợi khó khăn về mặt tài chính theo các
tiêu chí:
+ Hiệu quả tài chính (Khả năng sinh lời và khả năng quản lý tài sản)
+ Rủi ro tài chính (Khả năng thanh toán, khả năng quản lý nợ)
+ Tổng hợp hiệu quả và rủi ro tài chính (Cân đối tài chính, các đòn bẩy, và đẳng
thức Dupont)
- Tìm hiểu nguồn gốc, nguyên nhân của thực trạng đó,
- Đề xuất các giải pháp tận dụng điểm mạnh và thuận lợi, khắc phục điểm yếu và
khó khăn nhằm cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp.

5


Việc phân tích tài chính được tiến hành trên cơ sở các căn cứ liên quan có khả
năng phản ánh toàn diện tình hình tài chính của công ty. Thông thường, các căn cứ này
tập hợp thành hồ sơ tài chính của doanh nghiệp bao gồm:
+ Các bản báo cáo tài chính;
+ Các tài liệu có liên quan khác như đường lối, chủ trương, chính sách của Nhà
nước, các văn bản pháp lý có liên quan đến hoạt động kinh doanh;
+ Dữ liệu về nền kinh tế và ngành kinh doanh;
+ Dữ liệu về đối thủ cạnh tranh trực tiếp;
+ Định hướng phát triển của bản thân doanh nghiệp do ban lãnh đạo và những
người quản lý vạch ra.
Bằng việc xem xét thông tin tài chính của doanh nghiệp thông qua các chỉ số tài
chính trong sự đối chiếu với các chỉ số chuẩn người ta sẽ đưa ra những đánh giá cần
thiết. Các chỉ số chuẩn thường được sử dụng bao gồm: chỉ số kỳ trước, chỉ số kế hoạch
hoặc mong muốn, chỉ số tương ứng của đối thủ cạnh tranh trực tiếp, chỉ số trung bình
ngành.
1.2.3. Các căn cứ để phân tích tài chính doanh nghiệp

Để thực hiện công tác phân tích tình hình tài chính, cần dựa trên các căn cứ như
sau:
- Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp:
+ Bảng cân đối kế toán;
+ Bảng kết quả hoạt động kinh doanh;
+ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ;
+ Thuyết minh báo cáo tài chính.
- Các tài liệu liên quan;
- Các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp;
- Các chỉ tiêu tài chính mục tiêu.

6


1.2.4. Nội dung phân tích tài chính
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất
kinh doanh. Nó giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ. Hoạt động tài chính có quan hệ trực
tiếp với hoạt động kinh doanh, từ cung ứng vật tư hàng hoá đến sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm... đều ảnh hưởng trực tiếp đến công tác tài chính của doanh nghiệp. Ngược
lại, công tác tài chính được thực hiện tốt hay xấu sẽ có tác động thúc đẩy hay kìm hãm
đối với quá trình sản xuất, lưu chuyển hàng hoá.
Do vậy, việc phân tích hoạt động về tình hình tài chính không phải là một quá
trình tính toán các tỷ số mà là quá trình tìm hiểu kết quả của sự quản lý và điều hành
tài chính, tìm hiểu thực trạng tài chính của doanh nghiệp được phản ánh qua các Báo
cáo tài chính.
Phân tích hoạt động tài chính là đánh giá những gì đã làm được, dự kiến những gì
sẽ xảy ra, trên cơ sở đó có thể kiến nghị và đề xuất các biện pháp để tận dụng triệt để
các điểm mạnh, khắc phục các điểm yếu. Phân tích hoạt động tài chính mà nội dung
chủ yếu là phân tích các Báo cáo tài chính. Ðó là quá trình xem xét, kiểm tra đối chiếu

và so sánh số liệu về tình hình tài chính hiện hành với quá khứ. Thông qua phân tích,
các nhà quản trị doanh nghiệp thấy được thực trạng tài chính hiện tại và những dự
đoán cho tương lai. Phân tích các báo cáo tài chính rất được nhiều đối tượng quan tâm
như các nhà quản lý, các chủ sở hữu, hay người cho vay....Mỗi nhóm người này khi
phân tích có xu hướng tập trung vào các khía cạnh khác nhau, nhưng lại thường liên
quan với nhau về bức tranh thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Tóm lại, phân tích các báo cáo tài chính nhằm mục đích phản ánh tính sinh động
của các “con số” trong báo cáo để những người sử dụng chúng có thể đánh giá đúng
tình hình tài chính của doanh nghiệp.
1.2.4.1. Phân tích khái quát các báo cáo tài chính
a) Phân tích tình hình tài chính qua Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh một cách tổng
quát toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp vừa theo kết cấu vốn, vừa theo nguồn

7


hình thành vốn. Nội dung các loại, các mục, các khoản … phản ánh giá trị các loại tài
sản hay nguồn vốn cụ thể hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo tài chính.
Các chỉ tiêu của Bảng cân đối kế toán được phản ánh dưới hình thái giá trị và theo
nguyên tắc cân đối là tổng tài sản bằng tổng nguồn vốn.
* Phân tích tình hình cân đối giữa tài sản và nguồn vốn
Sự tương quan về giá trị và cơ cấu vốn của trong doanh nghiệp trong hoạt động
sản xuất kinh doanh thể hiện mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn. Thông
qua mối quan hệ này chúng ta có thể thấy được sự hợp lý giữa nguồn vốn doanh
nghiệp huy động và việc sử dụng nguồn vốn ấy như thế nào trong đầu tư, mua sắm, dự
trữ.
- Phần tài sản: Phản ánh giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập
báo cáo tài chính.
+ Ý nghĩa kinh tế: Số liệu các chỉ tiêu trong báo cáo phần tài sản thể hiện giá trị

của các loại vốn của doanh nghiệp hiện có đến thời điểm lập báo cáo như: tiền, các
khoản đầu tư tài chính, vật tư, hàng hoá, tài sản cố định … Căn cứ vào số liệu này cho
phép đánh giá quy mô, kết cấu đầu tư vốn, năng lực và trình độ sử dụng vốn của doanh
nghiệp. Từ đó, giúp cho doanh nghiệp xây dựng được một kết cấu vốn hợp lý với đặc
điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Ý nghĩa pháp lý: Số liệu các chỉ tiêu trong phần tài sản thể hiện các loại vốn cụ
thể mà doanh nghiệp đang có quyền quản lý, quyền sử dụng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh .
- Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp
tại thời điểm lập báo cáo tài chính.
+ Ý nghĩa kinh tế: Số liệu các chỉ tiêu trong phần nguồn vốn thể hiện giá trị và
quy mô các nguồn vốn mà doanh nghiệp đã, đang huy động, sử dụng để đảm bảo cho
lượng tài sản của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh tính đến thời điểm lập báo
cáo tài chính.
+ Ý nghĩa pháp lý: Số liệu các chỉ tiêu trong phần nguồn vốn thể hiện quyền
quản lý và sử dụng các loại nguồn vốn của doanh nghiệp trong việc trong đầu tư hình

8


thành kết cấu tài sản. Mặt khác, doanh nghiệp phải có trách nhiệm trong việc quản lý
và sử dụng các nguồn vốn như nguồn vốn cấp phát của Nhà nước, nguồn vốn góp của
nhà đầu tư, cổ đông, nguồn vốn vay Ngân hàng …
Mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn được thể hiện qua sơ đồ sau:
TÀI SẢN

NGUỒN VỐN

- Tiền.
- Các khoản phải thu ngắn hạn.

- Hàng tồn kho.
- Tài sản ngắn hạn khác.

Nợ ngắn hạn + Vốn chủ sở hữu

- Tài sản cố định.
- Đầu tư tài chính dài hạn.
- Tài sản dài hạn khác.

Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu

• Xem xét mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn:
+ Nếu tài sản ngắn hạn lớn hơn nợ ngắn hạn, điều đó cho thấy doanh nghiệp đã
giữ vững quan hệ cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ dài hạn, sử dụng nợ ngắn hạn
đúng mục đích. Ngoài ra điều này còn cho thấy sự hợp lý trong chu chuyển tài sản
ngắn hạn là kỳ thanh toán nợ ngắn hạn.
+ Nếu tài sản ngắn hạn nhỏ hơn nợ ngắn hạn thì chứng tỏ doanh nghiệp không
giữ vững mối quan hệ cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn vì như vậy có thể
doanh nghiệp đã dùng một phần nguồn vốn ngắn hạn vào tài sản dài hạn. Mặc dù nợ
ngắn hạn có thể chiếm dụng hợp pháp hoặc có mức lãi thấp hơn lãi nợ dài hạn. Tuy
nhiên, chu kỳ luân chuyển tài sản khác với chu kỳ thanh toán, vì vậy sẽ dẫn đến vi
phạm nguyên tắc tín dụng, có thể xảy ra một hệ quả tài chính xấu hơn.
• Xem xét mối quan hệ giữa tài sản dài hạn và nợ dài hạn
+ Nếu tài sản dài hạn lớn hơn nợ dài hạn và phần thiếu hụt được bù đắp từ nguồn
vốn chử sở hữu thì đó là điều hợp lý vì nó thể hiện doanh nghiệp đã sử dụng đúng mục
đích cả nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu. Nhưng khi phần thiếu hụt đó được bù đắp bằng
nợ ngắn hạn thì đó là điều bất hợp lý.

9



+ Nếu tài sản dài hạn nhỏ hơn nợ dài hạn thì điều này chứng tỏ một phần nợ dài
hạn đã chuyển vào tài trợ tài sản ngắn hạn. Điều này dẫn đến lãng phí vay nợ dài hạn
và thể hiện sử dụng sai mục đích nợ dài hạn; dẫn tới lợi nhuận giảm, rối loạn tài chính
của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế hiện nay thế mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp lệ thuộc vào
tiềm lực về nguồn vốn và quy mô tài sản. Song việc phân bổ tài sản như thế nào? tỷ
trọng của từng tài sản so với tổng tài sản có hợp lý không? mới là điều kiện tiên quyết.
Điều đó có nghĩa là việc xem xét lượng vốn nhiều hay ít là chưa đủ mà phải đảm bảo
sử dụng nguồn vốn đó như thế nào để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Muốn vậy
chúng ta phải xem xét kết cấu tài sản của doanh nghiệp có hợp lý hay không?
Nếu Công ty dùng nợ ngắn hạn để tài trợ cho đầu từ dài hạn nhằm hình thành tài
sản cố định và các khoản đầu tư dài hạn thì sẽ là không hợp lý. Vì khoản nợ vay ngắn
hạn thường có thời gian trả nợ dưới 1 năm, trong khi sử dụng tài sản cố định thường
dài và chi phí khấu hao cùng dài, việc này tạo nên áp lực trả nợ vay rất lớn mà nguồn
vốn Công ty rất khó có thể đáp ứng được.
Nếu công ty sử dụng nợ dài hạn để hình thành tài sản lưu động sẽ không hợp lý,
vì cơ cấu nguồn vốn của Công ty thì các khoản vốn vay chiếm một tỷ trọng khá lớn,
mà kèm theo việc sử dụng vốn vay sẽ là các khoản lãi vay phải trả, lãi vay dài hạn
thường lớn hơn so với lãi vay ngắn hạn. Nếu sử dụng vốn vay dài hạn để tài trợ cho
đầu tư ngắn hạn nhằm hình thành tài sản lưu động và các khoản đầu tư ngắn hạn trong
Công ty sẽ gây ra tình trạng lãng phí vôn rất lớn.
• Phân tích tình hình kết cấu tài sản
Phân tích kết cấu tài sản là việc đánh giá sự biến động của các bộ phận cầu thành
tổng tài sản của một doanh nghiệp. Mục đích của việc phân tích này cho thấy tình hình
sử dụng tài sản và phân bổ tài sản trong các giai đoạn của một quá trình sản xuất có
hợp lý hay không? từ đó có thể đề ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
tài sản. Nhìn vào bảng cân đối kế toán, ngoài việc so sánh tổng tài sản cuối kỳ so với
đầu năm, ta cần phải xem xét từng khoản mục vốn của doanh nghiệp chiếm trong tổng


10


số để thấy được mức độ đảm bảo trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Tùy theo loại hình kinh doanh của doanh nghiệp thì tỷ trọng từng loại tài sản
chiếm trong tổng số là cao hay thấp; nếu là doanh nghiệp sản xuất thì phải có lượng dự
trữ về nguyên vật liệu đầy đủ để đáp ứng nhu cầu sản xuất; nếu là doanh nghiệp
thương mại thì phải dự trữ hàng hóa để cung cấp cho nhu cầu bán ra kỳ tới.
Kết cấu các loại tài sản của doanh nghiệp phản ánh mức độ hợp lý của quá trình
sử dụng các nguồn vốn để tài trợ cho các loại tài sản cố định và tài sản lưu động của
doanh nghiệp. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa từng nhóm, loại tài sản so với
toàn bộ tài sản bằng các chỉ tiêu cụ thể như sau:
Tỷ trọng tài sản lưu động

=

Tỷ suất đầu tư

=

Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
Tổng tài sản
Tài sản lưu động và đầu tư dài hạn
Tổng tài sản

x

100%


x

100%

Ngoài ra cũng phải quan tâm đến chỉ tiêu kết cấu các loại tài sản trong tài sản lưu
động và tài sản cố định:
Tổng tiền mặt
Tỷ trọng tiền mặt
=
x 100%
Tổng tài sản lưu động
Các khoản phải thu
Tỷ trọng phải thu
=
x 100%
Tổng tài sản lưu động
Tổng tiền mặt
Tỷ trọng dự trữ
=
x 100%
Tổng tài sản lưu động
• Phân tích tình hình cơ cấu nguồn vốn
Cơ cấu nguồn vốn của một doanh nghiệp bao gồm nợ và vốn chủ sở hữu. Nguồn
gốc và sự cấu thành hai loại vốn này xác định sự ổn định tài chính và khả năng thanh
toán dài hạn của doanh nghiệp. Nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành tài sản hiện có
của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Phân tích nguồn vốn là phân tích khả năng
tự tài trợ, phân tích khả năng chủ động trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Qua đó

11



ta có thể đánh giá sự biến động của các loại nguồn vốn của một doanh nghiệp cụ thể,
tức là tiến hành so sánh tổng nguồn vốn và từng loại nguồn vốn qua các năm để thấy
được tình hình huy động, tình hình sử dụng các loại nguồn vốn đáp ứng như cầu sản
xuất kinh doanh, và đồng thời cùng thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Trên bảng cân đối kế toán, tỷ lệ và kết cấu của từng nguồn vốn trong tổng nguồn
vốn hiện có phản ánh tính chất hoạt động và thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Xét về mặt pháp lý số liệu của chi tiêu nguồn vốn thể hiện tính pháp lý của doanh
nghiệp đối với các khoản vốn mà doanh nghiệp đang sử dụng và quản lý.
Việc phân tích các chỉ tiêu về cơ cấu các nguồn vốn cho phép chúng ta đánh giá
sự độc lập về tài chính của doanh nghiệp trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình; qua đó nhằm đánh giá khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp (về mặt tài chính
cũng như mức độ tự chủ trong kinh doanh hay những khó khăn mà doanh nghiệp đang
phải đương đầu), điều đó được thể hiện qua tỷ suất tự tài trợ.
Tỷ trọng tự tài trợ

Nguồn vốn chủ sở hữu

=

Tổng nguồn vốn

Chỉ tiêu này mà lớn phản ánh doanh nghiệp có khả năng cao về tự tài trợ mà
không cần huy động hoặc chỉ huy động với một lượng vốn nhỏ để đáp ứng cho yêu
cầu sản xuất kinh doanh của mình.
Ngoài ra, còn sử dụng chỉ tiêu
Tỷ suất tự tài trợ Tài sản cố định

=


Nguồn vốn chủ sở hữu
Tài sản cố định

Chỉ tiêu này thể hiện số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp dùng để trang bị tài
sản cố định và đầu tư dài hạn. Tỷ suất này nếu lớn hơn 1 chứng tỏ khả năng tài chính
vững vàng và lành mạnh; khi tỷ suất nhỏ hơn 1 thì một bộ phận của tài sản cố định
được tài trợ bằng vốn vay và sẽ mạo hiểm khi đó là vốn vay ngắn hạn.
b) Phân tích tình hình tài chính qua Báo cáo kết quả kinh doanh
Bảng cân đối kế toán chỉ là báo cáo tổng hợp về tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn
của doanh nghiệp tại một thời điểm cụ thể; trên đó phản ánh rất ít thông tin về các hoạt

12


động sản xuất kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp trong thời gian gần đây. Vì vậy, để
hiểu rõ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ diễn ra như thế nào
thì chúng ta phải nghiên cứu, đánh giá về doanh thu và lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt
được thể hiện qua các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
* Đánh giá tình hình doanh thu
Doanh thu là một chỉ tiêu tài chính quan trọng của doanh nghiệp; thông qua chỉ
tiêu này người phân tích sẽ thấy được kết quả các hoạt động diễn ra trong kỳ của
doanh nghiệp; so sánh với số liệu doanh thu của các kỳ trước đó hoặc với kế hoạch đặt
ra giúp người phân tích biết được sự tăng trưởng của doanh nghiệp trong hoạt động
sản xuất kinh doanh như thế nào? Bên cạnh đó, bằng cách xác định tỷ trọng của từng
loại doanh thu đạt được trong tổng doanh thu của doanh nghiệp sẽ giúp người phân
tích thấy rõ sự đóng góp doanh thu của từng hoạt động và tổng doanh thu của doanh
nghiệp; trên cơ sở đó đề ra các biện pháp nhằm tăng tổng doanh thu. Khi phân tích chỉ
tiêu doanh thu thường bao gồm việc phân tích hai loại doanh thu cơ bản sau:
- Doanh thu thuần từ hoạt động kinh doanh là tiền bán sản phẩm, hàng hóa sau
khi đã trừ đi các khoản tiền chiết khấu bán hàng, hàng bán bị trả lại; thu từ phần nợ giá

của Nhà nước, nếu doanh nghiệp có cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo yêu cầu Nhà
nước.
- Doanh thu từ hoạt động khác như doanh thu từ hoạt động mua bán trái phiếu,
tín phiếu, cổ phiếu, cho thuê tài sản, góp vốn liên doanh, thu lãi tiền gửi, lãi cho vay,
các khoản thu tiền phạt…
Đánh giá chỉ tiêu doanh thu trong các doanh nghiệp cần phải thực hiện các công
việc như sau: So sánh doanh thu thực hiện với kế hoạch; phân tích những nguyên nhân
gây ảnh hưởng tới chỉ tiêu doanh thu của doanh nghiệp; đề ra các biện pháp để nâng
cao doanh thu; đối với doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa được xác định căn cứ
vào hai nhân tố là số lượng sản phẩm hàng hóa tiêu thụ và giá bán đơn vị sản phẩm kỳ
kế hoạch. vì vậy để tăng loại doanh thu này thì cần thiết phải thực hiện các biện pháp
tăng khối lượng sản phẩm hàng hóa mà doanh nghiệp xuất bán trong kỳ và có chính
sách giá phù hợp.

13


* Đánh giá tình hình lợi nhuận
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh;
là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp.
Lợi nhuận của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của bộ phận sản phẩm thặng dư do
kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mang lại. Nó là chỉ tiêu chất lượng tổng
hợp biểu hiện kết quả quá trình sản xuất kinh doanh. Qua chỉ tiêu này, người phân tích
sẽ thấy rõ về mặt số lượng và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, thấy rõ kết quả
sử dụng các yếu tố sản xuất về tiền vốn, vật tư, lao động…vào quá trình.
Để đánh giá tình hình lợi nhuận trong các doanh nghiệp, thông thường người ta
tiến hành thực hiện các công việc sau:
- Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận của từng bộ phận và của toàn
doanh nghiệp.
- Phân tích những nguyên nhân, xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố

đến tình hình biến động lợi nhuận.
- Đề ra các biện pháp khai thác các khả năng tiềm tàng để không ngừng nâng cao
lợi nhuận.
Báo cáo kết quả kinh doanh dùng để so sánh lợi nhuận thực hiện với lợi nhuận kế
hoạch và lợi nhuận các kỳ trước (tháng, quý, năm), qua đó thấy được lợi nhuận từ các
hoạt động tăng hay giảm như thế nào so với kế hoạch và các kỳ trước; đánh giá tổng
quan về tình hình thực hiện của doanh nghiệp có thể đạt được mức kế hoạch đề ra hay
không và xu hướng phát triển só với kỳ trước như thế nào? Đồng thời chúng ta cũng
cần xem xét tỷ trọng lợi nhuận đạt được của từng loại hoạt động trong tổng lợi nhuận
chung của toàn doanh nghiệp để có cái nhìn tổng quát hơn về tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
c) Phân tích tình hình tài chính qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Phân tích tình hình tài chính qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ thực chất là công tác
kiểm soát dòng tiền trong quá trình kinh doanh hay thực hiện dự án; việc phân tích này
có ý nghĩa rất quan trọng liên quan đến sự tồn vong của doanh nghiệp. Hầu hết các
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều có quan hệ tới các hoạt động tiền

14


tệ, vì vậy phân tích ngân lưu luôn là mối quan tâm hàng đầu đối với các nhà quản lý
doanh nghiệp. Tác dụng chủ yếu của báo cáo lưu chuyển tiền tệ là:
- Cung cấp thông tin để đánh giá khả năng tạo ra tiền, các khoản tương đương
tiền và nhu cầu của doanh nghiệp trong việc sử dụng các khoản tiền.
- Cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng báo cáo phân tích đánh giá về
thời gian cũng như mức độ chắc chắn cho việc tại ra các khoản tiền trong doanh
nghiệp.
- Cung cấp thông tin về các nguồn tiền hình thành từ các hoạt động kinh doanh,
hoạt động đầu từ tài chính để đánh giá ảnh hưởng của các hoạt động đó đối với tình
hình tài chính của doanh nghiệp.

- Cung cấp thông tin đánh giá khả năng thanh toán và xác định nhu cầu tiền của
doanh nghiệp trong kỳ hoạt động tiếp theo.
1.2.4.2. Phân tích hiệu quả tài chính
Các báo cáo tài chính tập hợp lại cho biết khái quát vị thế tài chính của doanh
nghiệp tại từng thời điểm hoặc một kỳ hoạt động. Tuy nhiên, để có thể hiểu rõ hiệu
quả hoạt động tài chính và đánh giá đúng sức mạnh và giá trị của doanh nghiệp người
ta cần phải tiến hành phân tích các chỉ số tài chính.
Các chỉ số tài chính là những độ đo định lượng được thiết lập nhằm đánh giá tất
cả các khía cạnh khác nhau của hoạt động tài chính. Về mặt bản chất, chỉ số tài chính
biểu hiện mối liên hệ giữa các khoản mục của các báo cáo tài chính, có chức năng
phân tích, đánh giá và dự báo vị thế tài chính của doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu hiệu
quả tài chính bao gồm:
- Hệ số khả năng sinh lời.
- Chỉ số giá thị trường.
- Các chỉ số khả năng quản lý tài sản
a) Khả năng sinh lời
Các chỉ tiêu sinh lời đo lường mối quan hệ giữa lợi nhuận ròng đối với doanh thu
thuần, giá trị tài sản bình quân và vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp …. Chúng là cơ sở

15


quan trọng để đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh trong một kỳ nhất định, là luận cứ
để các nhà hoạch định đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai.
Mục tiêu của quản lý tài chính là góp phần cũng các hoạt động chức năng phấn
đấu cho sự tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Vì vậy, câu hỏi đầu tiên người phân tích cần
trả lời là doanh nghiệp có khả năng sinh lời hay không và ở mức độ như thế nào? Khả
năng sinh lời là kết quả cuối cùng của hàng loạt chính sách và quyết định được đề xuất
và thực hiện bởi các nhà quản lý. Đây là nhóm chỉ tiêu đánh giá tác động phối hợp của
các hoạt động quản lý tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp. Sau đây chúng ta cùng

xem xét lần lượt các chỉ tiêu chính đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
(1) Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (Doanh lợi trên doanh thu - ROS)
Tỷ suất này phản ánh cứ tạo ra một đồng doanh thu (hoặc doanh thu thuần) thì có
bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế có thể cao hay thấp là
do giá bán sản phẩm có thể cao hoặc doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí. Về lợi
nhuận có hai chỉ tiêu mà nhà quản trị tài chính doanh nghiệp rất quan tâm là lợi nhuận
trước thuế và lợi nhuận sau thuế. Do vậy, tương ứng cũng có hai chỉ tiêu tỷ suất lợi
nhuận trước thuế và sau thuế trên doanh thu.
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế
(sau thuế) trên doanh thu

Lợi nhuận trước (sau) thuế

=

x100

Doanh thu

(2) Tỷ suất sinh lời của tài sản (Sức sinh lợi cơ sở - BEP)
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng giá trị tài sản mà doanh nghiệp đã huy động
vào sản xuất kinh doanh có khả năng tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận; tỷ số này
được các chủ thể có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như Nhà
nước, các cổ đông, chủ nợ...quan tâm. Chỉ tiêu này càng cao, hiệu suất sử dụng vốn
cố định của Công ty ngày càng lớn. Để nâng cao chỉ tiêu này, một mặt phải nâng
cao quy mô về kết quả đầu ra, mặt khác phải sử dụng tiết kiệm và hợp lý về cơ cấu
tài sản cố định.
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Tỷ suất sinh lời của tài sản


=
Tổng tài sản

16


Lợi thế của chỉ số này là cho phép so sánh khả năng sinh lời đối với xã hội của
các doanh nghiệp có cơ cấu vốn khác nhau và thuế thu nhập khác nhau.
(3) Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh (doanh lợi tổng vốn)
Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh là chỉ tiêu đo lường mức sinh lợi của đồng vốn
đầu tư vào doanh nghiệp. Tỷ suất này được tính như sau:
Lợi nhuận trước thuế (hoặc sau thuế)

Tỷ suất lợi nhuận trước
thuế (hoặc sau thuế) vốn

=

X 100
Vốn kinh doanh bình quân

kinh doanh

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn kinh doanh của doanh nghiệp tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Chỉ tiêu này khi phân tích cần được so sánh với số liệu
bình quân của ngành để thấy được hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
như thế nào? Nếu mức doanh lợi tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp đạt thấp hơn
so với mức trung bình của ngành thì cần xem xét lại việc tổ chức sử dụng vốn của
doanh nghiệp. Sử dụng phương pháp Dupont ta có thể tính:
Tỷ suất lợi nhuận sau

thuế vốn kinh doanh

Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế vốn kinh doanh

=

Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần

=

Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế trên doanh thu

Doanh thu thuần

x

Vốn kinh doanh bình quân

x

Vòng quay vốn
kinh doanh

(4) Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (Doanh lợi vốn CSH) (ROE)
Tính được bằng cách lấy lợi nhuận ròng chia cho nguồn vốn chủ sở hữu bình
quân.
Tỷ suất lợi nhuận sau

thuế vốn chủ sở hữu

=

Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân

X 100

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế vốn chủ sở hữu phản ánh khả năng sinh lời và mức
thu nhập của các chủ sở hữu. Trong kỳ cứ đầu tư 1 đồng vốn chủ sở hữu thì tạo ra bao

17


nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tăng doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan
trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này càng cao thì sẽ thu hút được các nhà đầu từ và duy trì được mức giá
cao về các loại cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như cho phép doanh nghiệp mở rộng
vốn và đảm bảo lợi ích cho các chủ sở hữu của doanh nghiêp.
Lợi thế của chỉ số này là nó phản ánh trực tiếp mức độ sinh lời mà các chủ sở
hữu được hưởng trong kỳ. Đây là chỉ số tài chính quan trọng nhất và thiết thực nhất
đối với chủ sở hữu.
Chúng ta có thể tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
cao hay thấp bằng việc phân tích công thức sau:
Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế vốn chủ sở hữu =

Lợi nhuận
sau thuế


x

Doanh
thu thuần
Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế vốn chủ sở hữu

=

Vốn kinh doanh
bình quân

Doanh
thu thuần

x

Vốn kinh doanh
bình quân

Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế trên doanh thu

x

Vốn chủ sở
hữu bình quân

Vòng quay vốn

kinh doanh

x

1
1-Hệ số nợ

Qua phân tích trên cho thấy tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp có thể phát triển lên bằng 3 cách :
- Sử dụng hiệu quả tài sản hiện có của doanh nghiệp (tăng vòng quay vốn KD).
- Tăng đòn bẩy tài chính.
- Tăng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu.
Để đánh giá tổng quát tình hình tài chính của doanh nghiệp sau khi xác định được
các chỉ tiêu tài chính đặc trưng người ta lập biểu phân tích (bằng phương pháp so sánh)
giữa kỳ này với kỳ trước, giữa các chỉ tiêu tài chính đặc trưng của doanh nghiệp với các
chỉ tiêu tài chính đặc trưng của ngành (nếu không có của ngành thì lấy tỷ số của doanh
nghiệp tự đặt ra đến định hướng phấn đấu).

18


×