Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Phân tích và một số giải pháp quản lý rủi ro trong hoạt động của VPBank securities

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.66 KB, 84 trang )

Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

LỜI NÓI ĐẦU
Năm 2008, nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói
riêng đã trải qua một năm đầy sóng gió. Theo báo cáo của Standard & Poor
ngày 6/1/2009, cơn ác mộng trên thị trường chứng khoán năm 2008 đã xóa đi
khoảng 17 nghìn tỷ USD giá trị cổ phiểu trên toàn thế giới. Cũng tương tự
như vậy năm 2011 là một trong những năm khó khăn nhất đối với nền kinh tế
Việt Nam và thậm chí còn khó khăn hơn năm 2008 khi thế giới đối mặt với
khủng hoảng tài chính. Việc thi hành chính sách tiền tệ thắt chặt cùng với với
lãi suất vay tăng quá cao, giá nguyên nhiên liệu tăng đã tác động tiêu cực đến
các doanh nghiệp. Thị trường chứng khoán từ đầu năm đến nay chịu ảnh
hưởng và phản ánh những khó khăn, bất ổn của kinh tế vĩ mô. Đồng thời nó
cũng chịu những tác động trực tiếp của chính sách tiền tệ thắt chặt, đặc biệt là
chủ trương cắt giảm tỷ lệ dư nợ tín dụng phi sản xuất trên tổng dư nợ của
ngành ngân hàng xuống 22% (30-6-2011) và 16% (31-12-2011). Tính từ đầu
năm đến 25-7-2011, chỉ số VN Index tụt giảm 15,54% và chỉ số HNX Index
giảm 38,52%
Ở Việt Nam, các công ty chứng khoán đã có sự phát triển mạnh trong
thời gian qua, tuy nhiên do tác động của khủng hoảng tài chính, thị trường đã
có sự sụt giảm nghiêm trọng. Nhiều công ty chứng khoán đã rơi vào khó
khăn, hoạt động tự doanh, môi giới hoặc cung cấp các dịch vụ tài chính, cũng
như hình thức hợp tác kinh doanh đã không mang lại hiệu quả như mong
muốn, thậm chí có những công ty thua lỗ, mất dần vốn điều lệ.
Tình huống này buộc hàng loạt công ty chứng khoán xem xét lại chiến
lược phát triển hoạt động cũng như phải có chiến lược để đánh giá rủi ro khi
cung cấp các dịch vụ tài chính hay giao dịch ký quỹ. Rủi ro nhiều khi là một
thực tế khách quan, khó tránh khỏi khi hoạt động và cung cấp các DVTC, vấn


Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
1


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

đề không phải là bỏ qua rủi ro không tồn tại mà phải làm thế nào xác định
được rủi ro, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức.
Với mong muốn áp dụng những điều đã được học tập và nghiên cứu tại
thị trường và vận dụng thực tế vào công việc sau này em đã lựa chọn đề tài:
“phân tích và đề xuất một số giải pháp quản lý rủi ro trong hoạt động của
VPBank Securities” làm đề tài luận văn cao học.
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài kết cấu thành 3 chương :
Chương 1: Cơ sở phương pháp luận về rủi ro trong hoạt động chứng
khoán.
Chương 2: Phân tích rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VPBank
Securities.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm quản lý rủi ro trong hoạt động của
VPBank Securities.

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
2


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG
CHỨNG KHOÁN

1.1. Khái niệm rủi ro:
Rủi ro hiện diện trong hầu hết cuộc sống con người, khi có rủi ro người ta
không thể dự đoán chính xác kết quả và không thể đoán trước được. Sự hiện
diện của rủi ro mang tính bất định cho cuộc sống con người.
Cũng tương tự trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất cứ doanh
nghiệp nào rủi ro luôn tiềm ẩn và ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động kinh
doanh theo một hướng tiêu cực không mong muốn.
Rủi ro nói chung là một khái niệm rất rộng cả trong đời sống con người
hay trong bất cứ loại hình kinh doanh nào, đã có nhiều học giả, nhiều nhà
nghiên cứu kinh tế trên thế giới định nghĩa về rủi ro như sau:
Rủi ro là một khái niệm khách quan, nó hiện hữu khi một hành động hay
một tình huống làm cho khả năng thu lợi hoặc thiệt hại là không thể dự đoán
được một cách chắc chắn.
Rủi ro là khả năng xảy ra một sự cố không may đem đến thiệt hại về con
người và tài sản. Đã nói đến rủi ro là nói đến sự không may mắn, bất cứ sự
việc nào xảy ra mà mang lại sự may mắn cho con người và cho tổ chức thì
không được gọi là rủi ro.
Hay rủi ro còn được hiểu là khả năng phát sinh tổn thất và bất chắc về tổn
thất. Khái niệm này nhấn mạnh vào hậu quả của rủi ro. Rủi ro thường được
hiểu là một sự việc xảy ra, gây ra những hậu quả làm thiệt hại về con người
hoặc tài sản. Đồng thời không thể đoán biết trước được mức độ thiệt hại của
rủi ro đó ước tính là bao nhiêu. Đó là sự không chắc chắn về mức độ tổn thất.
Còn theo Frank Knight: “Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được”

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
3



Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

Theo Allan Willett: “Rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến một biến cố
không mong đợi”.
Theo Inrving Pferfer: “Rủi ro là tổng hợp những sự cố ngẫu nhiên có thể
đo lường được bằng xác suất”.
Theo Từ điển Kinh tế học hiện đại đã chỉ rõ: “Rủi ro là hoàn cảnh trong
đó một sự kiện xảy ra với một xác suất nhất định hoặc trong trường hợp quy
mô của sự kiện có một phân bố xác suất”.
Có thể hiểu rủi ro nói chung là khả năng sai lệch xảy ra giữa giá trị thực tế
và kỳ vọng kết quả; sai lệch càng lớn, rủi ro càng nhiều.
Trên quan điểm của đầu tư, rủi ro được định nghĩa như sau:
Rủi ro của dự án đầu tư là một loạt các biến cố xảy ra ngẫu nhiên tác
động tiêu cực lên toàn bộ các giai đoạn của đầu tư, làm thay đổi kết quả
đầu tư theo chiều hướng bất lợi.
Một số khái niệm liên quan:
- Quản trị rủi ro: “đó là dự phòng – với chi phí thấp nhất – các nguồn lực tài
chính, cần và đủ tuỳ theo từng tình huống cụ thể. Đó cũng chính là kiểm soát
và loại trừ nếu có thể các rủi ro bằng cách giảm thiểu hay chuyển giao chúng,
tối ưu hoá cách thức sử dụng các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp”(1).
- Nguy cơ rủi ro: một tình huống được tạo nên bất kỳ lúc nào gây ra tổn thất
mà chúng ta không thể tiên đoán.
- Chi phí rủi ro: là chi phí phải gánh chịu của các tổ chức do xuất hiện rủi ro,
bao gồm: chi phí cho những tổn thất xảy ra và chi phí bất định của chính nó.
- Tình huống bất định: đó là thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về sự vật,
không xác định được xác suất xảy ra.

- Tình huống xác định: là khi xác suất đạt kết quả bằng 1.

1 Decottignies (1981)

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
4


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

Để minh họa ba tình huống trên chúng ta có thể thể hiện bằng hình và
bằng bảng sau đây:
Xác suất

Xác suất

1

Xác suất

1

0

0

Kết
quả


Tình huống xác định

1

0

Kết
quả

Tình huống rủi ro

Không xác
định được
đồ thị xác
suất
Kết
quả

Tình huống bất định

Hình 1.1: Minh họa kết của xác suất xảy ra trong các tình huống
Có thể lập bảng để so sánh 3 tình huống ra quyết định đầu tư ở 3 trạng
thái trên để phân biệt tính chất và mức độ tác động của các yếu tố rủi ro lên
dự án đầu tư như bảng 1.1 sau đây:
Bảng 1.1: Phân biệt các trạng thái tính toán và ra quyết định trong các
tình huống cụ thể
Xác định

Rủi ro


Bất định

Thông tin đầu

Hoàn toàn xác

Có nhiều giá trị

Không xác định

vào

định với kết quả

Kết quả đầu ra

Ra quyết định

và có phân bố xác và không có phân

xác suất bằng 1.

suất.

bố xác suất.

Duy nhất với xác

Là tập hợp các


Không xác định,

suất bằng 1.

kết quả có phân

không có phân bố

bố xác suất.

xác suất.

Dễ dàng, nhanh

Áp dụng lý thuyết

Khó ra quyết

chóng và chắc

xác suất.

định.

chắn.

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
5



Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

1.2. Phân loại rủi ro.
Có rất nhiều cách phân loại rủi ro, căn cứ vào khả năng, tính chất và mức độ
người ta chia rủi ro thành các loại như sau:
 Căn cứ vào khả năng có thể đo lường giá trị bằng tiền hậu quả của rủi
ro, người ta phân rủi ro làm 2 loại:
- Rủi ro tài chính: là những rủi ro mà hậu quả của nó có thể đo lường và
đánh giá được bằng tiền như các trường hợp về thiệt hại vật chất đối với tài
sản: cháy, trộm…
- Rủi ro phi tài chính: là những rủi ro mà hậu quả của nó không thể đo
lường và đánh giá bằng tiền. Ví dụ như khi quyết định chọn món ăn trong một
nhà hàng, món ăn đó ngon hay không ngon chỉ có thể ảnh hưởng đến sở thích
cá nhân chứ không thể đong, đo đếm được.
 Căn cứ vào tính chất, hậu quả của rủi ro, rủi ro được phân làm 2 loại:
- Rủi ro khách quan thuần tuý: là những rủi ro có thể dẫn đến những
thiệt hại mất mát không có khả năng được lợi, người chấp nhận nó không đơn
thuần chỉ là người chơi trò mạo hiểm được hoặc mất, thành công hoặc thất
bại. Rủi ro loại này thường là những mối đe doạ, những nguy hiểm luôn rình
rập như: hiện tượng tự nhiên bất lợi, những hành động sơ xuất bất cẩn của con
người hoặc các sự cố về công nghệ và máy móc làm thiệt hại về tài sản. Bất
cứ ở đâu, khi nào rủi ro thuần tuý xảy ra thì tổ chức, cá nhân hoặc xã hội sẽ
gặp mất mát, thiệt hại về mặt tài chính cũng như tinh thần.
- Rủi ro chủ quan của người quyết định (rủi ro cơ hội –rủi ro mang tính
đầu cơ): là những sự kiện mà khi xảy ra, hậu quả của nó có thể mang lại
những nhất định cho con người. Chẳng hạn, như đầu tư chứng khoán có thể
rất lãi, hoà vốn hoặc có thể thua lỗ.

 Căn cứ vào mức độ và phạm vi ảnh hưởng của rủi ro, rủi ro được chia
làm 2 loại:

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
6


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

- Rủi ro thảm họa: là những rủi ro phát sinh từ những nguyên nhân
ngoài tầm kiểm soát của con người, hậu quả của nó rất nghiêm trọng, khó
lường, có ảnh hưởng tới cả một doanh nghiệp hay toàn xã hội. Hầu hết các rủi
ro loại này đều xuất phát từ tác động tương hỗ thuộc về địa lý, kinh tế, chính
trị xã hội. Rủi ro loại này có thể bao gồm: nạn thất nghiệp, khủng hoảng kinh
tế, khủng hoảng tài chính – tiền tệ, chiến tranh, xung đột chính trị, động đất,
núi lửa, sóng thần …
- Rủi ro đơn lẻ: là những rủi ro phát sinh từ các biến cố chủ quan và
khách quan của từng cá nhân, tổ chức. Là những rủi ro mà cả nguyên nhân và
hậu quả của nó có thể kiểm soát được ở mức độ nhất định.
Trên đây là các căn cứ phân loại rủi ro nói chung, trên phương diện rủi
ro dự án đầu tư người ta lại có những căn cứ phân loại như sau:
 Căn cứ vào bản chất của rủi ro người ta có thể phân loại rủi ro thành:
- Rủi ro tự nhiên: Đối với một dự án đầu tư các rủi ro tự nhiên thường
liên quan đến việc lựa chọn địa điểm xây dựng công trình của dự án và các
địa điểm cung cấp cũng như địa điểm tiêu thụ sản phẩm của dự án. Do những
yếu tố về môi trường tự nhiên tác động (có thể làm đổ vỡ công trình, hay gián
đoạn các khâu trong cung cấp, vận hành và tiêu thụ sản phẩm, ảnh hưởng đến
chất lượng sản phẩm…)

- Rủi ro về công nghệ và tổ chức: ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thể hiện
của loại rủi ro này là lựa chọn sai phương án công nghệ và tổ chức vận hành
sai. Hay trong giai đoạn vận hành đó là các sự cố về công nghệ và tổ chức vận
hành khai thác công trình do các công nghệ và thiết bị máy móc được thiết kế
thiếu độ vững chắc, an toàn cần thiết, do sai lầm của công tác tổ chức cung
cấp và vận hành tiêu thụ.
- Rủi ro về tài chính, kinh tế ở cấp vi mô và vĩ mô: là các rủi ro trong
quan hệ cung – cầu – giá cả của thị trường cũng như rủi ro về tài chính mà do

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
7


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

chính bản thân dự án gây nên. Đó cũng là các rủi ro về đường lối và chính
sách của Nhà nước mang lại những bất lợi cho dự án (chính sách thuế, tín
dụng, giá cả, lạm phát, biến động tỷ giá…).
- Rủi ro về chính trị xã hội: là các rủi ro có liên quan đến các biến
động về chính trị (thay đổi thể chế chính trị, đảo chính, chiến tranh…) tác
động tiêu cực đến dự án vì nó liên quan đến mức thu nhập và sức tiêu thụ của
dân chúng, các rủi ro cũng có thể là dịch bệnh, đói nghèo, khan hiếm lao
động, an ninh xã hội không được đảm bảo.
 Căn cứ theo nơi phát sinh rủi ro có thể chia làm 2 loại:
- Rủi ro do bản thân dự án (rủi ro không hệ thống): do tăng mức vốn đầu
tư, chậm tiến độ dự án. Rủi ro loại này có thể kiểm soát được ở mức độ lớn.
- Rủi ro bên ngoài dự án có ảnh hưởng xấu đến dự án (rủi ro hệ thống):
đó là những tác động bên ngoài không thể kiểm soát được và ảnh hưởng lên

toàn bộ dự án đầu tư.
 Căn cứ vào mức độ khống chế rủi ro có thể chia làm 2 loại:
- Rủi ro không thể khống chế được: thường là các rủi ro tự nhiên.
- Rủi ro có thể khống chế được: thường là các rủi ro cơ hội có liên quan
đến việc ra quyết định.
 Căn cứ theo các giai đoạn đầu tư:
- Rủi ro xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư: Chủ yếu là các rủi ro có
liên quan đến việc ra quyết định: thiết kế sai, chọn phương án không tốt, sai
sót trong hợp đồng và đấu thầu ...
- Rủi ro xảy ra ở giai đoạn thực hiện đầu tư: chủ yếu là các rủi ro do
sai lệch giữa thực tế và kế hoạch: tăng mức đầu tư, chậm tiến độ, thi công sai
so với thiết kế, tai nạn lao động…
- Rủi ro trong giai đoạn khai thác dự án: chủ yếu là do sai lệch giữa
giá trị thực tế vận hành dự án với dự án được lập ban đầu như: giá nguyên vật

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
8


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

liệu đầu vào tăng, giá bán sản phẩm giảm, sản lượng không đạt như thiết kế,
thị trường dự kiến bị thu hẹp…

Chuẩn bị đầu tư

Rủi ro


Thực hiện đầu tư

Rủi ro

Khai thác dự án

Rủi ro

Hình 1.2: Biểu diễn rủi ro theo giai đoạn đầu tư

1.3. Khái niệm quản lý rủi ro.
Đó là dự kiến trước, với chi phí nhỏ nhất các nguồn lực tài chính cần
thiết và đủ trong các trường hợp có rủi ro xẩy ra.
Đó cũng là kiểm soát các rủi ro bằng cách loại bỏ chúng nếu có thể,
giảm nhẹ chúng hoặc chuyển chúng sang một tác nhân kinh tế khác, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc sử dụng tối ưu các nguồn lực của doanh nghiệp.
Đó còn là lường trước những hậu quả rủi ro gây ra và dự kiến các biện
pháp tổ chức nhằm giảm tới mức thấp nhất tác hại về người, tài chính và
thương mại đối với doanh nghiệp.
Phương pháp mang lại cách tiếp cận năng động và chủ động, dựa trên
sự điều khiển rủi ro.

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
9


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011


1.4. Nội dung quản lý rủi ro
Nhận dạng rủi ro

“Phiếu điều tra”
“Tập kích não”

Rủi ro

Đánh giá rủi ro

Rủi ro đã biết

Rủi ro mới
Phân cấp rủi ro

Mức độ thiệt hại tần số xẩy ra
Rủi ro có lớn không?

Đo lường rủi ro




Loại trừ được
không?

Không

Không


Loại trừ

Giảm nhẹ
- Tần số
- Tác động
- Phòng ngừa
- Bảo vệ
- Lập kế hoạch

Có giảm nhẹ
được không?
Không

Đánh giá các rủi ro còn lại và xử lý

- Đào tạo
- Cung cấp
thông tin

Buộc
phải
giữ lại

Lập riêng hoặc tham
gia bảo hiểm ngành

Tự
nguyện
giữ lại


Di
chuyển

- Phương thức xử lý
- Phân về các bộ phận

- Hợp
đồng

- Đánh giá chi phí
- Kinh phí
- Đảm bảo tài chính
- Theo dõi

Các chương trình kiểm tra và đánh giá lại

Sơ đồ 1.1: Sơ đồ quy trình quản lý rủi ro

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
10


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

1.4.1. Nhận dạng rủi ro.
Nhận dạng rủi ro là bước đầu tiên trong sơ đồ quản lý rủi ro (Sơ đồ 1.1)
đó là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro và bất định của một
tổ chức. Nhận dạng rủi ro là quá trình đi tìm câu trả lời cho hàng loạt câu hỏi

như: Nguồn vốn dự án sẽ thay đổi như thế nào?, khả năng sinh lợi của dự án
đang bị đe dọa không?, những yếu tố nào có thể gây tổn thất, thiệt hại thậm
chí ảnh hưởng xấu đến tài sản của dự án?...
Các hoạt động nhận dạng rủi ro nhằm phát triển thông tin về nguồn rủi
ro, các yếu tố mạo hiểm, đối tượng rủi ro và nguy cơ rủi ro.
* Nguồn rủi ro là nguồn các yếu tố góp phần vào các kết quả tiêu cực
hay tích cực, nó bao gồm thành phần như các yếu tố mạo hiểm, hiểm hoạ và
nguy cơ rủi ro. Nguồn rủi ro có thể xác định từ các nguồn sau đây:
- Nguồn từ môi trường vật chất.
- Nguồn từ môi trường xã hội.
- Nguồn từ môi trường chính trị.
- Nguồn từ môi trường luật pháp.
- Nguồn từ môi trường hoạt động.
- Nguồn từ môi trường kinh tế.
- Nguồn từ vấn đề nhận thức.
Các nguồn rủi ro sẽ có thể gặp phải đối với các tổ chức, do vậy nhận dạng rủi
ro là nhận dạng các nguy cơ rủi ro. Mặc dù theo nghĩa rộng nhất, cả tổ chức là
một nguy cơ rủi ro, việc đưa ra một số phân loại cho nguy cơ rủi ro cũng cần
thiết cho mục đích phân tích rủi ro dự án đầu tư.
* Phương pháp nhận dạng rủi ro:
- Sử dụng bảng liệt kê: liệt kê các tổn thất tiềm năng hầu như luôn hình
thành từ một bảng câu hỏi được thiết kế để phục vụ cho một mục đích rộng
hơn. Thông thường bảng câu hỏi yêu cầu các thông tin cần thiết để nhận dạng

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
11


Luận văn thạc sỹ


Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

và xử lý các đối tượng rủi ro. Những bảng liệt kê là điểm khởi đầu cho triển
khai các chương trình phân tích sau này.
Việc thiết kế một bảng liệt kê dễ hiểu và dễ áp dụng nhằm dễ dàng
trong việc điều tra và phân tích các rủi ro sau này từ nguồn đã được thống kê
trong bảng liệt kê. Nhưng bảng liệt kê mới dừng lại ở mức độ liệt kê, tường
thuật chi tiết các nguồn rủi ro, những nhận định mang tính tổng quan về các
nguồn rủi ro. Nhưng để khắc phục những tồn tại còn lại của bảng liệt kê
người ta đưa ra một số phương pháp và kỹ thuật nhận dạng rủi ro như:
- Phân tích các báo cáo tài chính: nhằm xác định các rủi ro nào trong
bảng liệt kê có thể áp dụng cho tổ chức và áp dụng như thế nào là phân tích
báo cáo tài chính của một doanh nghiệp (do A. H Criddle đề xuất 1962). Bằng
cách phân tích bảng tổng kết tài sản, các báo cáo hoạt động kinh doanh và các
tài liệu hỗ trợ ta có thể xác định mọi nguy cơ của doanh nghiệp về tài sản,
trách nhiệm pháp lý và nguồn lực. Bằng cách kết hợp các báo cáo này với các
dự báo về tài chính và dự báo ngân sách ta có thể phát hiện các rủi ro trong
tương lai.
- Nghiên cứu số liệu tổn thất trong quá khứ: Phương pháp này có thể
phát hiện được ít nguy cơ rủi ro hơn so với các phương pháp khác nhưng có
thể phát hiện được những nguy cơ mà các phương pháp khác không thể bằng
cách tham khảo các hồ sơ được lưu trữ về tổn thất hoặc suýt tổn thất sắp lặp
lại trong tương lai. Khi có một số lượng đủ lớn các dữ kiện về tổn thất trong
quá khứ ta có thể dùng thông tin này để dự báo các rủi ro bằng các hàm xu
thế hay phương pháp triển khai tổn thất.
1.4.2. Đánh giá rủi ro.
Sau khi nhận dạng rủi ro có thể xảy ra doanh nghiệp tiến hành đánh giá
hậu quả mà rủi ro có thể đem lại một khi nó xảy ra, để từ đó có quyết định
quản trị rủi ro hợp lý và có hiệu quả. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của rủi ro


Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
12


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

đến tổ chức theo phương pháp thống kê: Rủi ro có thể biểu diễn bằng một
hàm phân phối thống kê, diễn tả các thông tin về mức độ tổn thất tiềm tàng và
xác suất xảy ra của chúng. Ta có thể dự vào hàm phân bố thống kê, xác định
giới hạn chấp nhận trong từng tình huống. Đánh giá xem những rủi ro đã biết
và những rủi ro mới để từ đó xác định mức độ thiệt hại rủi ro bằng các
phương pháp đo lường rủi ro.
1.4.3. Đo lường rủi ro.
Nhận dạng rủi ro và đánh giá rủi ro là bước cung cấp thông tin để đo
lường mức độ quan trọng của rủi ro đối với doanh nghiệp. Các thông tin cần
thiết là các ước lượng về độ sai lệch của các kết quả đầu ra bằng các phân
phối xác suất như: Phân phối chuẩn; phân phối nhị thức; phân phối Poisson…
thông qua các tham số là kỳ vọng và phương sai. Đo lường rủi ro xác định rủi
ro có lớn không, có loại trừ hay giảm nhẹ được không để từ đó xác định các
biện pháp quản lý rủi ro.
1.4.4. Kiểm soát và giảm thiểu rủi ro.
Quản lý cả quy trình từ khi nhận dạng cũng như khâu đo lường đánh
giá rủi ro để từ đó có những biện pháp nhằm giảm thiểu, hạn chế hay ngăn
ngừa những yếu tố có thể xảy ra đối với doanh nghiệp. Quản trị rủi ro với
mục đích là quản lý quá trình rủi ro một cách hiệu quả nhất. Một số biện pháp
nhằm kiểm soát và giảm thiểu rủi ro:
a. Né tránh rủi ro
Một trong những phương pháp kiểm soát rủi ro cụ thể là né tránh những hoạt

động, con người, tài sản làm phát sinh tổn thất có thể có bởi không thừa nhận
nó ngay từ đầu hoặc bởi loại bỏ nguyên nhân dẫn tới tổn thất đã được thừa
nhận. Biện pháp đầu tiên của hoạt động né tránh rủi ro là chủ động né tránh
trước khi rủi ro xảy ra và biện pháp thứ hai là loại bỏ nguyên nhân gây ra rủi
ro.

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
13


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

b. Ngăn ngừa tổn thất
Các biện pháp ngăn ngừa tổ thất tất công vào các rủi ro bằng cách giảm bớt số
lượng tổn thất xảy ra (tức giảm tần suất tổn thất) hoặc bằng cách làm giảm
mức thiệt hại khi tổn thất xảy ra. Nhìn từ chính sách cộng đồng, việc ngăn
ngừa và giảm thiểu tổn thất cho từng tổ chức riêng biệt cũng như cho xã hội
trong khi vẫn cho phép tổ chức bắt đầu hoặc tiếp tục hoạt động gây nên rủi ro
đó.
c. Giảm thiểu rủi ro
Các biện pháp giảm thiểu tổn thất tấn công vào các rủi ro bằng cách
làm giảm bớt giá trị hư hại khi tổn thất xảy ra (tức giảm nhẹ sự nghiêm trọng
của tổn thất).
Những chương trình giảm thiểu tổn thất được đề xướng nhằm làm giảm
mức độ thiệt hại. Hệ thống vòi phun nước là một ví dụ minh hoạ về việc giảm
thiểu tổn thất vì khi có lửa thì các vòi phun nước hoạt động, một hệ thống như
thế thì không làm giảm đi khả năng bị tổn thất. Thay vào đó, hệ thống chữa
cháy làm giảm mức độ tổn thất khi hoả hoạn xảy ra.

Những hoạt động giảm thiểu tổn thất là những biện pháp sau khi tổn thất đã
xảy ra. Mặc dù những biện pháp này được đặt ra trước khi một tổn thất nào đó
xuất hiện, những chức năng hoặc mục địch của những biện pháp này là làm
giảm tác động của tổn thất một cách hiệu quả nhất. Những chương trình giảm
thiểu tổn thất một cách hiệu quả nhất là sự thỏa thuận ngầm trong quản trị rủi
ro rằng một vài tổn thất nào đó có thể xảy ra dù cho đã có những cố gắng, nỗ
lực hết sức của tổ chức. Vì thế, chúng ta nên thực hiện thứ tự những bước sau
nhằm kiểm soát tổn thất và giảm mức độ thiệt hại của nó.
Trước hết, ý niệm về chuỗi rủi ro được đưa ra để minh họa việc ngăn ngừa tổn
thất can thiệp vào ba mắt xích đầu của chuỗi rủi ro như thế nào? giảm thiểu
tổn thất tập trung vào mắt xích thứ ba (thông thường hơn): sự tác động qua lại

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
14


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

giữa mối hiểm họa và môi trường, kết quả và hậu quả. Những nỗ lực giảm
thiểu tổn thất chỉ có thể tập trung vào mắt xích thứ ba (sự tác động qua lại
giữa mối hiểm họa và môi trường ) khi mà biện pháp giảm thiểu tổn thất can
thiệp để ngưng tổn thất lại khi nó đang diễn ra.
d. Quản trị thông tin
Thông tin bắt nguồn từ phòng quản trị rủi ro của một tổ chức có một ảnh
hưởng quan trọng trong việc giảm thiểu những bất định của những người có
quyền lợi gắn liền với tổ chức. Chẳng hạn như, để nhận biết lợi ích lớn nhất từ
chương trình kiểm soát rủi ro, những mục tiêu và kết quả tích cực của nó phải
được truyền đạt đến những người có quyền lợi gắn liền với tổ chức quan tâm

kết quả như: nhân viên, chủ nợ, công ty bảo hiểm, thể chế chính phủ, người
đóng thuế...Một chương trình kiểm soát tổn thất có hiệu quả được sử dụng
đúng chỗ chỉ là một phần trong quá trình thỏa mãn nhữn mục tiêu của tổ chức
nếu thông tin cho biết hiệu quả của nó không tới được những người có quyền
lợi gắn liền với tổ chức.
Phòng quản trị rủi ro của một tổ chức phải cung cấp thông tin để xác định
hiệu quả của việc đo lường kiểm soát rủi ro và những mục tiêu trong tương lai
họ cần đạt được. Tổn thất xảy ra là kết quả của những áp lực tự nhiên và quá
trình hoạt động của con người. Sự bất định có thể phát sinh từ những kiến
thức không hoàn hảo. Thiếu thông tin làm cho những người có quyền lợi gắn
liền với tổ chức không an tâm về chương trình hoạt động của tổ chức có ảnh
hưởng đến lợi ích của họ. Sự bất định làm cho họ phải trả giá cao cho hàng
hóa và dịch vụ hoặc đòi hỏi sự bảo đảm, hoặc đòi hỏi sự đảm bảo, hoặc những
hạn chế có ảnh hưởng bất lợi đến tổ chức. Thông tin đáng tin cậy từ phòng
quản trị rủi ro có thể cung cấp cho những người có quyền lợi gắn liền với tổ
chức đảm bảo rằng tổ chức không và sẽ không hành động có hại đến lợi ích
của họ.

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
15


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

Một lĩnh vực khác mà thông tin có thể hạn chế sự bất định là sự hiểu biết của
cá nhân về quá trình tạo nên tổn thất, ví dụ như chuỗi rủi ro. Sự hiểu biết về
tiến trình những mối hiểm họa xảy ra gây tổn thất có thể giảm thiểu sự bất
định ở các đối tượng có liên quan, bởi vì sự hiểu biết này cho phép ta dự báo

tốt hơn về những trường hợp tổn thất có thể xảy ra và từ đó giúp các cá nhân
cảnh giác phòng ngừa.
Để nâng cao khả năng hiểu biết về vấn đề này, chúng ta sử dụng phương pháp
báo cáo và hệ thống tưởng thưởng cho những nhân viên có đề nghị về những
hoạt động an toàn hơn.
e. Chuyển giao rủi ro
Chuyển giao rủi ro là công cụ kiểm soát rủi ro, tạo ra nhiều thực thể khác
nhau thay vì một thế lực phải gánh chịu rủi ro. Chuyển giao rủi ro có thể thực
hiện bằng 2 cách:
Thứ nhất: Chuyển tài sản và hoạt động rủi ro đến một người hay một nhóm
người khác.
Thứ hai: chuyển giao bằng hợp đồng giao ước, chỉ chuyển giao rủi ro không
chuyển giao tài sản và hoạt động của nó liên quan đến người nhận rủi ro.
f. Đa dạng hoá rủi ro
Đây là nỗ lực của tổ chức làm giảm sự tác động của tổn thất lên toàn bộ công
ty. Cũng gần giống như phân chia rủi ro nhằm giảm thiểu tổn thất, đa dạng
hoá cũng cố gắng phân chia tổng rủi ro của công ty thành nhiều dạng khác
nhau và tận dụng sự khác biệt để dung may mắn của rủi ro này bù đắp tổn thất
cho rủi ro khác. Kỹ thuật này thường sử dụng nhiều cho rủi ro suy đoán, đặc
biệt là trong đầu tư chứng khoán Porfolio. Porfolio là bộ chứng khoán, danh
mục chứng khoán hay cấu trúc chứng khoán. Bằng cách khéo léo lựa chọn các
chứng khoán trong bộ portfolio, chúng ta có thể giảm được rủi ro tổng thể của
công ty.

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
16


Luận văn thạc sỹ


Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động chứng khoán
1.5.1. Rủi ro về biến động tăng trưởng kinh tế
Hầu hết các doanh nghiệp trong nền kinh tế đều có những rủi ro liên
quan đến những biến động bất lợi của nền kinh tế. Đối với các doanh nghiệp
kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán thì những rủi ro này lại càng lớn vì thị
trường chứng khoán vốn rất nhạy cảm với sự thăng trầm của nền kinh tế nói
chung và nhiều yếu tố, tác nhân của nền kinh tế nói riêng. Một số rủi ro kinh
tế bao gồm biến động về tăng trưởng kinh tế, lạm phát, lãi suất, tỷ giá hối
đoái, v.v…
Tăng trưởng kinh tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp ảnh hưởng trực tiếp đến
thị trường chứng khoán. Trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng tốt cùng với
những triển vọng sáng sủa sẽ kéo theo sự tăng trưởng và phát triển của trường
chứng khoán. Trong bối cảnh này, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực chứng khoán đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, nền kinh
tế và thị trường chứng khoán không phải lúc nào cũng phát triển thuận lợi mà
luôn tiềm ẩn những rủi ro nhất định. Khi có mối đe doạ đến sự ổn định và
phát triển kinh tế, thị trường chứng khoán ắt sẽ có phản ứng tiêu cực, đó là sự
suy giảm cả về chỉ số giá, cả về tính thanh khoản của thị trường. Hoạt động
của các công ty chứng khoán trong một chừng mực nào đó sẽ bị ảnh hưởng.
Điều chắc chắn là doanh thu hoạt động môi giới bị giảm sút do thanh khoản
của thị trường kém hơn. Cạnh đó, hoạt động tư vấn tài chính doanh nghiệp
như tư vấn cổ phần hoá, tư vấn phát hành, hay niêm yết cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Hoạt động tự doanh chứng khoán có thể sẽ để lại khoản lỗ nặng nề nếu việc
mua, bán không đúng thời điểm do không nhận định đúng diễn biến của thị
trường.
1.5.2. Rủi ro lạm phát

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities

17


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

Lạm phát là một trong những yếu tố kinh tế vĩ mô quan trọng, có mối
quan hệ mật thiết với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế
phát triển thường đi đôi với lạm phát. Tuy nhiên, lạm phát cao lại là nguy cơ
gây bất ổn đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, do đó tác động tiêu cực đến thị
trường chứng khoán và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng
khoán. Lạm phát cũng là một loại rủi ro hệ thống, do đó vuợt ngoài phạm vi
điều chỉnh của doanh nghiệp. Biện pháp phòng ngừa rủi ro là làm tốt công tác
dự báo và chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình, tránh bị ảnh hưởng
do lạm phát gây ra.
1.5.3. Rủi ro lãi suất
Lãi suất là một yếu rất nhạy cảm đối với nền kinh tế, ảnh hưởng trực
tiếp đến tiết kiệm, và đầu tư, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói
chung và các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán nói riêng,
cũng như các nhà đầu tư chứng khoán. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh
thông thường, rủi ro lãi suất xảy ra khi lãi suất thị trường tăng, làm tăng chi
phí hoạt động và giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp. Riêng đối với các
ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng, rủi ro lãi suất còn có thể xuất
hiện ngay cả khi lãi suất thị trường giảm đột ngột ngoài dự tính. Đối với các
Công ty chứng khoán tham gia thị trường với tư cách là một nhà đầu tư chứng
khoán, khi lãi suất tăng sẽ bị rủi ro vì giá cổ phần sụt giảm do tác động kép từ
hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp giảm và dòng vốn vào thị trường
chứng khoán giảm sút.
1.5.4. Rủi ro tỷ giá hối đoái

Công ty Chứng khoán Phố Wall ít bị tác động trực tiếp từ sự biến động
tỉ giá. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh có thể bị ảnh hưởng ở một mức độ
nhất định thông qua sự tác độngđến thị trường chứng khoán.Tỉ giá hối đoái
tác động đáng kể đến nền kinh tế và thị trường chứng khoán thông qua tác

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
18


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

động tới các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán và sự di
chuyển của các nguồn vốn đầu tư. Theo cơ chế quản lý hiện tại, tỉ giá phản
ánh quan hệ cung cầu giữa các đơn vị tiền tệ khác nhau và đặt duới sự quản
lý, điều tiết của Nhà nước. Nhiệm vụ công tác quản lý tỉ giá là bảo đảm sự ổn
định tiền tệ và tỉ giá, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên,
trên thực tế, công tác quản lý tỷ giá là một vấn đề khó khăn. Đôi khi tỷ giá
biến động trái chiều với ý muốn chủ quan của các nhà quản lý.
1.5.5. Rủi ro pháp lý
Rủi ro pháp lý đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói
chung và Công ty Chứng khoán nói riêng có thể chia làm hai loại:
Thứ nhất là những chính sách pháp luật bất lợi cho hoạt động kinh
doanh sẽ được ban hành và áp dụng. Ví dụ, chính sách thuế thu nhập đối với
hoạt động đầu tư, kinh doanh chứng khoán sắp được áp dụng chắc chắn sẽ
làm kém đi sự hấp dẫn của thị trường chứng khoán, thanh khoản của thị
trường có thể bị ảnh hưởng. Nhưng nói chung, loại rủi ro này thường ít xảy
ra vì xu hướng chung là Nhà nước ngày càng ban hành các quy định pháp luật
thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp và hoạt động

kinh doanh.
Loại rủi ro pháp lý thứ hai phát sinh từ sự xung đột về quyền và lợi ích
giữa Công ty và các đối tác hay khách hàng có thể gây những bất lợi cho
Công ty.
1.5.6. Rủi ro nguồn nhân lực
Trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán, nhân tố con người có vai trò
quyết định. Chứng khoán lại là một ngành kinh doanh mới nên nguồn nhân
lực có kinh nghiệm còn rất thiếu. Do đó, nguồn nhân lực cũng là một yếu tố
cạnh tranh khá mạnh.
1.5.7. Rủi ro cạnh tranh

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
19


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

Cạnh tranh là quy luật tất yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn tồn
tại trong bất cứ môi trường hoạt động kinh doanh nào. Trong lĩnh vực chứng
khoán cuộc cạnh tranh giành thị phần đang diễn ra khá gay gắt, cụ thể:
- Cuộc cạnh tranh về giảm mức phí dịch vụ nhằm thu hút khách hàng, tranh
giành thị phần;
- Cạnh tranh chiếm lĩnh địa bàn kinh doanh thuận lợi;
- Cạnh tranh về việc đầu tư, trang bị công nghệ thông tin hiện đại;
- Cạnh tranh trong việc sáng tạo ra các sản phẩm, dịch vụ mới, hấp dẫn các
nhà đầu tư;
- Cạnh tranh nhân sự có chất lượng cao...
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, Công ty chứng khoán nào mạnh sẽ tiếp

tục vươn lên; ngược lại, Công ty yếu kém sẽ gặp khó khăn.
1.5.8. Rủi ro giảm giá chứng khoán trong danh mục đầu tư của Công
ty
Đây là những rủi ro cá biệt liên quan đến danh mục đầu tư của Công ty.
Trong hoạt động tự doanh, nếu thận trọng quá, đôi khi mất cơ hội, ngược lại
nếu không tìm hiểu, phân tích kỹ, có thể mắc sai lầm do đầu tư vào cổ phiếu
của doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, không có triển vọng, trong trường
hợp này, Công ty có thể phải chịu rủi ro lớn, ảnh hưởng đến an toàn vốn.
1.5.9. Rủi ro hỗ trợ giao dịch (cho vay cầm cố, margin)
Cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính nhằm hỗ trợ cho các nhà đầu
tư nâng cao hiệu quả nhờ cơ chế đòn bẩy, nhưng khi thị trường không thuận
lợi lại làm cho rủi ro trầm trọng hơn do tính thanh khoản của thị trường giảm.
Việc giải chấp sẽ khó khăn cho cả công ty Chứng khoán lẫn nhà đầu tư khiến
cho nhà đầu tư lâm vào tình trạng cháy tài khoản còn công ty Chứng khoán
không thể thu hồi vốn cho vay.
1.5.10. Rủi ro từ các tài sản ngoài bảng cân đối kế toán

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
20


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

Rủi ro đối với các tài sản ngoại bảng xảy ra do sự hư hao, mất mát các
tài sản thuộc diện thuê ngoài, nhận giữ hộ, tài sản nhận ký cược, ngoại tệ và
rủi ro liên quan đến việc lý các loại chứng khoán chưa lưu ký.
1.5.11. Rủi ro hoạt động
Rủi ro có thể xảy ra tại bất cứ khâu nào của các mảng hoạt động, như

sai sót trong hoạt động môi giới hay trong các giao dịch với các đối tác gây ra
thiệt hại mà Công ty phải bồi thường, hoặc những gian lận của cán bộ nhân
viên gây thiệt hại cho Công ty.
1.5.12. Rủi ro khác
Một số rủi ro mang tính bất khả kháng, ít xảy ra nhưng nếu xảy ra sẽ
tác động tới tình hình kinh doanh của Công ty, đó là các rủi ro về thiên tai,
như lũ lụt,hỏa hoạn, động đất, cháy nổ.
1.6. Các phương hướng quản lý rủi ro:
Việc quan trọng nhất trong quản trị rủi ro là phải xây dựng được quy
trình quản lý rủi ro. Thông thường, quản lý rủi ro được chia thành 5 bước
Bước 1: Nhận dạng rủi ro, là bước đầu tiên nhằm tìm hiểu cặn kẽ về
bản chất của rủi ro. Cách đơn giản và trực tiếp nhất là liệt kê từng nhân tố và
các biến cố có thể gây ra rủi ro. Cách làm rõ bản chất của rủi ro là việc nhận
dạng những tác nhân kinh tế có thể gây ra rủi ro như lãi suất, lạm phát, tỷ giá
hối đoái, tăng trưởng kinh tế. Tiếp theo là tìm hiểu xem chiều hướng có thể
gây ra rủi ro, như việc Ngân hàng Trung ương tăng lãi sẽ suất tác động đến
giá cả CK như thế nào…
Bước 2: Ước tính, định lượng rủi ro. Bước này sẽ đo lường mức độ
phản ứng của công ty đối với các nguồn gốc rủi ro đã xác định ở trên.
Bước 3: Đánh giá tác động của rủi ro. Để đánh giá rủi ro, người ta
thường làm bài toán chi phí và lợi tức. Đôi khi, việc quản lý rủi ro tiêu tốn
nhiều nguồn lực của công ty như tiền bạc và thời gian. Do đó, cần phải cân

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
21


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011


nhắc xem liệu việc quản lý rủi ro như vậy có thực sự đem lại lợi ích lớn hơn
chi phí bỏ ra để thực hiện nó hay không.
Bước 4: Đánh giá năng lực của người thực hiện chương trình bảo hiểm
rủi ro. Để quản lý rủi ro có hai chiến lược. Thứ nhất là dựa vào một tổ chức
tài chính chuyên nghiệp, thuê họ thiết kế một giải pháp quản lý rủi ro cụ thể,
thích hợp với chiến lược quản lý của công ty. Chiến lược khác là công ty tự
thực hiện phòng chống rủi ro bằng cách sử dụng các công cụ CK phái sinh
như chứng quyền, chứng khế, quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương
lai... đồng thời xây dựng một đội ngũ nhân viên có khả năng lập và thực hiện
hàng rào chống rủi ro. Vấn đề này đòi hỏi nhân viên công ty vừa phải thiết kế
đúng lại vừa phải thực hiện tốt chương trình phòng chống rủi ro bởi quản lý
rủi ro cần phải được theo dõi thường xuyên và điều chỉnh kịp thời với sự biến
đổi của thời gian.
Bước 5: Lựa chọn công cụ và quản lý rủi ro thích hợp. Đây là bước
mấu chốt cuối cùng trong việc xây dựng chiến lược quản lý rủi ro. Trong
bước này, nhà quản lý phải chọn một giải pháp cụ thể. Chẳng hạn, đối với các
công cụ trên thị trường hối đoái, người ta có thể sử dụng hợp đồng tương lai,
hợp đồng quyền chọn, swap làm công cụ phòng chống rủi ro, các công cụ này
có ưu điểm là có tính thanh khoản cao và có hiệu quả về giá. Tuy nhiên,
chúng không linh động, không khắc phục được rủi ro cố hữu mà chi phí theo
dõi lại khá tốn kém.
Trong chương 1 luận văn đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên
quan đến rủi ro và quản lý rủi ro nói chung đồng thời cũng đã trình bầy những
vấn đề rủi ro trong hoạt động chứng khoán nói riêng. Luận văn đồng thời xem
xét các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động chứng khoán như: biến
động về tăng trưởng kinh tế, lạm phát, biến động lãi suất, biến động tỷ giá hối
đoái, các yếu tố pháp lý, nguồn nhân lực, nhân tố cạnh tranh, giảm giá chứng

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities

22


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

khoán trong danh mục đầu tư của Công ty, rủi ro hỗ trợ giao dịch (cho vay
cầm cố, margin), rủi ro từ các tài sản ngoài bảng cân đối kế toán, rủi ro hoạt
động, rủi ro khác. Trong chương 2 luận văn sẽ vận dụng các lý luận này để
phân tích đánh giá thực trạng tại công ty chứng khoán VPBank Securities.

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
23


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG KHOÁN TẠI
VPBANK SECURITY

2.1. Khái quát về công ty VPBank Securities:
2.1.1. Sơ lược về VPBS:
Công ty Chứng khoán Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBS) được
thành lập theo Quyết định số 30/ QĐ-UBCKNN ngày 20/12/2006 của Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước với vốn điều lệ ban đầu là 50 tỷ đồng. Sự ra đời của
Công Ty Chứng Khoán Ngân Hàng Việt Nam Thịnh Vượng nằm trong tầm

nhìn chiến lược đa dạng hoá hoạt động của Ngân hàng mẹ (VPBank) với mục
tiêu đưa VPBS trở thành một định chế tài chính lớn với đầy đủ các chức năng
hoạt động của Ngân hàng đầu tư. Để đạt được mục tiêu trên, tháng 8/2007,
VPBS thực hiện nâng vốn điều lệ lên 300 tỷ đồng.Đến nay, Công ty có số vốn
điều lệ 500 tỷ đồng và trở thành một trong những công ty chứng khoán có vốn
điều lệ lớn nhất trên thị trường. VPBS cũng nhận được sự hỗ trợ về mọi mặt
của Ngân hàng VPBank và của đối tác chiến lược Ngân hàng OCBC
(Singapore) sẽ là những nhân tố hỗ trợ tích cực cho VPBS nâng cao tiềm lực
tài chính và chuyên môn theo tiêu chuẩn quốc tế.
2.1.2. Tầm nhìn:
Trở thành một trong những công ty chứng khoán hàng đầu tại Việt
Nam và khu vực, đạt đẳng cấp quốc tế được khách hàng, nhân viên, cổ đông
tin cậy và mong muốn gắn bó dài lâu.
2.1.3. Sứ mệnh:
Tạo ra giá trị vượt trội cho khách hàng, nhân viên và cổ đông thông qua
sự nỗ lực hết mình nhằm mang lại các sản phẩm, dịch vụ cạnh tranh và sáng
tạo, đạt chuẩn mực cao nhất về tính hoàn thiện và sự chuyên nghiệp.

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
24


Luận văn thạc sỹ

Nguyễn Minh Tâm-CH QTKD 2009-2011

2.1.4. Giá trị doanh nghiệp:
Chú trọng khách hàng: khách hàng là nhân tố trụ cột của công ty dịch vụ
và tư vấn, do vậy VPBS luôn coi khách hàng là tâm điểm và quyết định mọi
hoạt động của Công ty;

Con người: là tài sản quý giá của Công ty, nếu không có nguồn nhân lực
chất lượng hàng đầu thì sẽ không có Công ty dẫn đầu;
Cạnh tranh lành mạnh: đề cao đạo đức nghề nghiệp, xây dựng một môi
trường kinh doanh phát triển bền vững;
Tính trung thực và chính trực: luôn hành xử một cách trung thực, thẳng
thắn.
Tên giao dịch chính thức: Công ty Chứng khoán Ngân hàng Việt Nam
Thịnh Vượng
Tên giao dịch viết tắt: Công ty Chứng khoán VPBank.
Tên giao dịch bằng tiếng Anh: VPBank Sercurities
Tên giao dịch viết tắt bằng tiếng Anh: VPBS
Trụ sở Công ty: Tầng 3+4, Tòa nhà 362 Phố Huế - Phường Phố Huế Quận Hai Bà Trưng – Thành phố Hà Nội. Điện thoại: 04.39743655 – Fax:
04.39743656.
Chi nhánh: Lầu 3, số 76 Lê Lai, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh (Tel:
08.38238608 Fax: 08.8238609/10).
Chi nhánh Đà Nẵng: Số 112 Phan Chu Trinh – Quận Hải Châu - Đà
Nẵng (Tel:0511.3565419 Fax: 0511.3565418).
Phòng giao dịch Hồ Gươm: Số 8 Lê Thái Tổ - Quận Hoàn Kiếm – Hà
Nội.
Phòng giao dịch: Tại 129 Nguyễn Chí Thanh – Phường 9 – Quận 5 –
Thành phố Hồ Chí Minh. Điện thoại: 08.62964210 – Fax: 08.62964211.
Địa chỉ trang web: www.vpbs.com.vn

Quản trị rủi ro trong hoạt động chứng khoán tại VP bank Securities
25


×