Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

LẬP PHƯƠNG ÁN DỰ BÁO THEO PHƯƠNG PHÁP MỰC NƯỚC TƯƠNG ỨNG TỪ TRẠM SƠN TÂY ĐẾN HÀ NỘI TRÊN SÔNG HỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.02 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN

ĐỒ ÁN DỰ BÁO THỦY VĂN
LẬP PHƯƠNG ÁN DỰ BÁO THEO PHƯƠNG PHÁP
MỰC NƯỚC TƯƠNG ỨNG TỪ TRẠM SƠN TÂY
ĐẾN HÀ NỘI TRÊN SÔNG HỒNG

Giáo viên hướng dẫn : ThS.Lê Thu Trang
Sinh viên thực hiện

: Lê Trung Hiếu

Lớp

: DH3T

Mã sinh viên

: DH00300031

Hà Nội, tháng 3/2017
1


LỜI CÁM ƠN
Em chân thành cảm ơn quý thầy, cô trong khoa Khí tượng – Thủy văn
Trường Đại Học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức
trong những năm em học tập. Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học
không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quý
báu để em bước vào đời một cách vững chắc và tự tin.


Với sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi lời cám ơn chân thành
đến cô giáo Th.S Lê Thu Trang đã tận tình hướng dẫn em trong suốt thời gian thực
hiện đồ án.
Trong quá trình làm đồ án, khó tránh khỏi sai sót, rất mong các thầy, cô bỏ
qua. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên
bài báo cáo không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp thầy, cô để em học thêm được nhiều kinh nghiệm và sẽ hoàn thành tốt hơn
bài báo cáo tốt nghiệp sắp tới.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện

Lê Trung Hiếu

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH

4


MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết
Lưu vực sông Hồng có lượng nước khá dồi dào song phân bố không đều theo

không gian và thời gian. Hệ thống sông Hồng được hình thành bởi ba nhánh sông
Đà, Thao và Lô. Mùa lũ thường kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10, mùa cạn từ tháng
11 đến tháng 4. Những năm gần đây tổng lượng dòng chảy mùa lũ và mùa cạn có
nhiều biến động, thiếu hụt so với trung bình nhiều năm. Nguồn nước khan hiếm dẫn
tới việc cấp nước của hệ thống hồ chứa trên lưu vực là khó khăn, ảnh hưởng đến
hoạt động phát triển kinh tế trên lưu vực. Thiếu nước hoặc bị động trong cấp nước
sẽ dẫn đến: giảm năng suất nông nghiệp, nước mặn xâm nhập gây khó khăn lấy
nước, giao thông thuỷ bị gián đoạn, lượng nước duy trì hệ sinh thái sông không
được đảm bảo.... Trên lưu vực sông Hồng phần lãnh thổ Việt Nam hiện nay có gần
1000 hồ chứa lớn nhỏ, trong đó có 4 hồ chứa lớn chủ đạo phòng chống lũ và cấp
nước hạ du, sự điều tiết dòng chảy của các hồ dẫn đến dòng chảy hạ du đồng bằng
sông Hồng bị ảnh hưởng.
Do vậy việc dự báo nguồn nước mặt là vô cùng quan trọng trong công tác
quản lý tổng hợp tài nguyên nước trên lưu vực sông Hồng. Dự báo nguồn nước mặt
là tính toán và báo trước các đặc trưng chính phản ánh định lượng của nguồn nước,
tổng lượng nước mặt. Kết quả tính toán có thể được sử dụng đánh giá tính hợp lý
của việc khai thác, sử dụng nước và có ý nghĩa lớn lao trong việc lập kế hoạch, quy
hoạch sử dụng tài nguyên nước của mỗi ngành, mỗi hộ dùng nước. Đối với những
lưu vực sông có hệ thống hồ chứa lớn đa mục tiêu như sông Hồng, việc dự báo
nguồn nước thượng lưu sẽ rất hữu ích trong lập phương án và kế hoạch tích nước,
điều tiết hồ chứa phân bổ nguồn nước về hạ du một cách hợp lý nhằm khắc phục
thiên tai lũ lụt cũng như phục vụ cấp nước hạ du giảm thiểu nguy cơ hạn hán thiếu
nước có thể xảy ra.
Nhận thức được vai trò quan trọng đó đồ án đã tập trung nghiên cứu “ Lập
phương án dự báo theo phương pháp mực nước tương ứng từ trạm Sơn Tây đến Hà
Nội trên sông Hồng.”

5



II. Mục tiêu đồ án
- Mục tiêu nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp mực nước tương ứng để dự báo mực nước trên từ trạm
Sơn Tây về Hà Nội trên sông Hồng.
- Đối tượng nghiên cứu:
Mực nước của trạm Sơn Tây đến trạm Hà Nội trên lưu vực sông Hồng
- Phạm vi nghiên cứu
Từ trạm Sơn Tây đến trạm Hà Nội trên lưu vực sông Hồng.
III. Phương pháp và nội dung nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập, thống kê, tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp mực nước tương ứng.
- Nội dung nghiên cứu
Cấu trúc nội dung của bài gồm 2 chương, không kể mở đầu, kết luận, tài liệu
tham khảo, phụ lục.
Mở đầu
Chương 1: Đặc điểm địa lý tự nhiên, kinh tế xã hội lưu vực sông Hồng.
Chương 2: Lập phương án dự báo theo phương pháp mực nước tương ứng từ
trạm Sơn Tây đến Hà Nội trên sông Hồng.
Kết luận và kiến nghị

6


CHƯƠNG I: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI
LƯU VỰC SÔNG HỒNG
1.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
1.1.1. Vị trí địa lý
Châu thổ sông Hồng nằm hoàn toàn trong lãnh thổ Việt Nam có diện tích ước
tính khoảng 17.000km2. Chiều dài sông Hồng trong lãnh thổ Việt Nam khoảng

328km. Phần lưu vực nằm ở Trung quốc là: 81.200 km2 chiếm 48% diện tích toàn
lưu vực. Phần lưu vực nằm ở Lào là: 1.100 km2 chiếm 0,7% diện tích toàn lưu vực.
Phần lưu vực nằm ở Việt Nam là: 87.840 km2 chiếm 51,3% diện tích lưu vực.
Đây là con sông lớn thứ hai (sau sông Mêkông) chảy qua Việt Nam đổ ra
biển Đông. Sông Hồng được hình thành từ 3 sông nhánh lớn là sông Đà, sông Lô và
sông Thao. Lượng mưa trung bình hàng năm của lưu vực vào khoảng 3000mm.
Tổng lượng dòng chảy trung bình nhiều năm l0,7 tỷ m3.
Lưu vực sông Hồng được giới hạn từ 20023’ đến 25030’ vĩ độ Bắc và từ
1000 đến 107010’ kinh độ Đông.
+ Phía Bắc giáp lưu vực sông Trường Giang và sông Châu Giang của Trung
Quốc.
+ Phía Tây giáp lưu vực sông Mêkông.
+ Phía Nam giáp lưu vực sông Mã.
+ Phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ.
Phần lưu vực sông Hồng trên lãnh thổ Việt Nam có vị trí địa lý từ: 20 023’
đến 23022’ vĩ độ Bắc và từ 102010’ đến 107010’ kinh độ Tây.

7


Hình 1.1: Bản đồ lưu vực sông Hồng
1.1.2. Địa hình, địa mạo
Địa hình lưu vực hện thống sông Hồng phần lớn là đồi núi, chia cắt mạnh, có
hướng dốc chung từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Phía Tây có dãy núi Vô Lương cao
trên 2500 m, phân cách lưu vực hệ thống sông Mê Kông và lưu vực sông Hồng.
Trong lưu vực có dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan-Xi-Pan cao nhất nước ta
(3143 m), phân chia lưu vực sông Đà và lưu vực sông Thao. Lưu vực hệ thống sông
Hồng có tới 70% diện tích ở độ cao trên 500 m và khoảng 47% diện tích lưu vực ở
độ cao trên 1000 m. Độ cao bình quân lưu vực cỡ 1090 m. Do chủ yếu là địa hình
đồi núi nên độ dốc lưu vực khá lớn, bình quân đạt từ 15% đến 35%. Một số lưu vực

sông như Ngòi Thia có độ dốc đạt tới 42%, Suối Sập 46,6%.
Đồng bằng sông Hồng được tính từ Việt Trì, chiếm hơn 7% diện tích toàn
lưu vực, thấp và tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình khoảng 25 m. dọc theo
các sông ở đồng bằng đều có đê kiên cố làm cho đồng bằng bị chia cắt thành các ô
tương đối độc lập. Vùng cửa sông giáp biển có nhiều cồn cát và bãi.
8


1.1.3. Địa chất, thổ nhưỡng
Ở vùng núi và trung du của lưu vưc, địa hình phát sinh do kết quả của các
quá trình vận động của vỏ trái đất trong các giai đoạn địa chất cộng với quá trình
phong hóa và quá trình xói mòn dưới tác động của dòng nước, nhiệt độ, độ ẩm …
nên bao gồm nhiều loại đất khác đá khác nhau về thành phần khoáng chất. Bắc và
Đông Bắc lưu vực thuộc vùng núi đá vôi hiểm trở, ít đất bằng, có rừng che phủ, đất
phát triển trên diệp thạch, sa thạch và đá vôi … nên lượng cung cấp cho sông ít và
vì vậy dòng chảy sông Lô mang rất ít bùn cát. Vùng thuộc dãy núi Phan-Xi-Pan có
dện tích rộng, độ cao và địa hình có sự thay đổi lớn, khống chế những vùng khí hậu,
thổ nhưỡng rất khác nhau. Đất ở vùng này được phát triển từ các loại đá gốc như
diệp thạch tinh thể, hoa cương, càng xuống phía Tây Nam diệp thạch và đá vôi càng
nhiều còn ở phía Đông Nam là diệp thạch và hoa cương. Đây là khu vực cung cấp
bùn cát quan trọng cho sông Đà, góp phần chủ yếu vào bùn cát sông Hồng. khu vực
bên phải của sông Đà có cao nguyên đá vôi kéo dài từ Tây Bắc xuống Đông Nam,
đất phát triển trên đá vôi có độ mịn lớn, ngoài ra đất còn phát triển trên diệp thạch,
sa thạch, hoa cương, thảm thực vật bị phá hủy nghiêm trọng, do đó rất thuận lợi cho
xói mòn.
1.1.4. Lớp phủ thực vật
Thảm thực vật đã bị tàn phá chỉ còn khoảng 16% diện tích đất tự nhiên. Trên
lưu vực sông Đà thậm chí có nơi chỉ còn 6-10%; rừng thượng nguổn sông Lô còn
khá hơn chiếm khoảng 20-30%.
Sau khi nhà máy thủy điện Hòa Bình được xây dựng, rừng vùng lưu vực hồ

đã bị tàn phá nghiêm trọng mà tác nhân chủ yếu là khai thác quá mức, du canh du
cư, đốt nương làm rẫy. Hàng năm khu vực này có khoảng 120 đến 160 ha rừng bị
xâm phạm và đốt cháy làm nương rẫy mới. Nếu tính toàn vùng Tây Bắc (bao gồm
các khu vực thuộc lưu vực hồ Hòa Bình và lân cận) thì đến nay chỉ còn 5 - 6% diện
tích đất tự nhiên là có rừng che phủ.
1.1.5. Đặc điểm thủy văn và hệ thống sông ngòi
Dòng chính sông Hồng bắt nguồn từ dãy núi Ngụy Sơn cao trên 2700 m của
tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, qua tỉnh Vân
Nam (Trung Quốc), chảy vào lãnh thổ Việt Nam tại Lào Cai rồi đổ vào vịnh Bắc Bộ
9


tại cửa Ba Lạt. Hệ thống sông Hồng ở Việt Nam là do ba nhánh lớn hợp thành là
sông Đà, sông Thao và sông Lô. Chiều dài dòng chính sông Hồng từ nguồn đến cửa
Ba Lạt dài 1126 km, phần chảy trên đất Việt Nam dài 556 km.
Lưu vực hệ thống sông Hồng có hình dạng hẹp, kéo dài ở phần thượng lưu
và mở rộng ở hạ lưu. Tổng diện tích lưu vực là 155 000 km 2, trong đó phần Việt
Nam chiếm 47%.
Tổng lượng nước trung bình hàng năm của sông Hồng chảy qua Sơn Tây là
120 tỷ m3, trong đó phần từ Trung Quốc chảy vào chiếm 36%. Tính đến Sơn Tây so
với lưu vực sông Hồng, sông Lô chiếm 27% diện tích lưu vực, chiếm 28% lượng
nước; sông Đà chiếm 43% diện tích lưu vực, 47% lượng nước; sông Thao chiếm
36% diện tích lưu vực, 25% lượng nước.
Mạng lưới sông suối của hệ thống sông Hồng khá phát triển ở phần Việt
Nam, loại sông có chiều dài dòng chính từ 5 km trở lên có tới 1659 sông. Mật độ
lưới sông phần nhiều đạt từ 0.5 km/km 2 đến 2 km/km2. nơi có núi cao, độ dốc lớn
mưa nhiều thì nơi đó sông suối dày đặc và ngược lại.
Ba nhánh lớn hợp thành hệ thống sông Hồng gồm có:
a) Sông Thao
Có chiều dài: L = 902 km (trên lãnh thổ Việt Nam dài 332 km).

Diện tích sông: F = 51900 km2 (ở Việt Nam là 12100 km2).
Sông Thao có tên gọi là sông Nguyên ở phía Trung Quốc. bắt nguồn từ dãy
núi Ngụy Sơn thuộc tỉnh Vân Nam-Trung Quốc cao trên 2000 m. Sông Thao là điển
hình về hướng của một con sông do vận động tạo sơn Himalaya vạch ra. Có thể nói
sông Thao có hướng chảy khá ổn định: trừ một đoạn ngắn ở đầu nguồn, đoạn còn lại
khá thẳng theo hướng Tây Bắc-Đông Nam cho tới Việt Trì và cửa sông.
Tổng lượng nước bình quân nhiều năm của sông Thao tại Việt Trì là 28.4
km3 tương ứng với lưu lượng bình quân là 500 m 3/s và mô đun dòng chảy năm là
17.31 l/s.km2.
Chế độ dòng chảy trên sông Thao phụ thuộc vào chế độ mưa. Cũng vì vậy
mà mùa lũ trên sông Thao kéo dài trong 5 tháng (từ tháng VI đến tháng X). Lượng
dòng chảy mùa lũ chiếm khoảng 70.3% đến 71.06% lượng dòng chảy cả năm.

10


b) Sông Đà
Chiều dài sông: L =1010 km, trong nước dài 570 km.
Diện tích sông F = 52900 km2, trong nước 26800 km2 .
Sông Đà có tên gọi là Lý Tiên ở phía Trung Quốc,bắt nguồn từ vùng núi cao
cạnh nguồn của sông Nguyên (sông Thao) thuộc tỉnh Vân Nam. Nằm trong vùng
núi cao, chia cắt mạnh, độ dốc lớn, thung lũng sâu hẹp, lượng mưa tập trung vào vài
tháng trong năm, có một mạng lưới sông dày đặc.
Sông suối trong lưu vực sông Đà thuộc loại sông suối trẻ, thung lũng sông
hẹp, nhiều đoạn có dạng lõm vực sâu chứng tỏ địa hình mới được nâng lên mạnh.
Phần lớn lòng sông cao hơn mặt biển từ 100-500 m. Do đó sông đang đào lòng
mạnh, trắc diện hẹp, bồi tụ ít, lắm thác ghềnh.
Không kể những phụ lưu lớn, dòng chính sông Đà có mạng lưới thủy văn
phân bố không đồng đều. Mật độ sông suối từ thưa đến rất dày. Vùng đá vôi mưa ít
có nơi xuống dưới 0.50 km/km2 như lưu vực Nậm Sập; vùng núi cao mưa nhiều,

như thượng lưu sông Nậm Mu, mạng lưới sông suối dày đặc khoảng 1.67 km/km 2.
Các nơi còn lại phân bố từ tương đối dày đến dày: 0.5-1.5 km/km2.
Khí hậu trong khu vực dòng chính sông Đà có mùa đông lạnh, khô và mùa
hè nhiều ở vùng cao. Vùng thấp thời tiết khô nóng. Qua phân bố mưa ta thấy rõ
được điều đó: Mường Tè 1637 mm, Lai Châu 2162 mm, Quỳnh Nhai 1739 mm,Vạn
Yên 1344 mm, Suối Rat 1538 mm, Sơn La 1496 mm, Mộc Châu 1583 mm…
Lượng mưa trung bình năm trên lưu vực sông Đà là 1800 mm lớn hơn sông
Thao. Tổng lượng nước bình quân nhiều năm của sông Đà khoảng 55.7 km 3 tương
ứng với lưu lượng bình quân là 1770 m3/s và modun dòng chảy năm là 33.5 l/s.km2.
Dòng chảy năm trên sông Đà tăng dần từ Bắc xuống Nam: modun dòng chảy
năm tại Lý Tiên Độ (Trung Quốc) là 25.2 l/s.km2, khi tới Lai Châu tăng lên thành 34
l/s.km2. Tuy nhiên từ Lai Châu tới Hòa Bình thì modun dòng chảy năm hầu như
không tăng: tại Hòa Bình là 33.8 l/s.km 2. Điều này có thể giải thích bởi lượng mưa
ở phía bờ phải trên đoạn này của sông Đà giảm sút rõ rệt còn khoảng 1600 mm,
vùng cao nguyên Sơn La, Mộc Châu còn ít hơn nữa, chỉ đạt 1100-1400 mm.
Nước lũ sông Đà rất ác liệt, nhưng chuyển sang mùa kiệt thì dòng chảy khô
cạn khá gay gắt. Tùy điều kiện mặt đệm và lượng mưa nhiều hay ít mà lượng dòng
11


chảy nhỏ nhất trên lưu vực sông Đà có sự thay đổi từ nơi này qua nơi khác. Dòng
chảy tháng nhỏ nhất bình quân xuất hiện đồng bộ vào tháng III chiếm trên dưới 2%
lượng dòng chảy cả năm. Dòng chảy bình quân tháng nhỏ nhất trên dòng chính sông
Đà ít biến đổi từ thượng lưu về hạ lưu. Nhưng trên các phụ lưu thì phạm vi biến đổi
của dòng chảy nhỏ nhất bình quân tháng từ 2.58 l/s.km2 đến 11.61 l/s.km2.
Dòng chảy bùn cát trên sông Đà thuộc loại lớn trên miền Bắc. Tổng lượng
bùn cát của sông Đà tại Hòa Bình là 72.3 10 6 tấn ứng với độ đục bình quân nhiều
năm là 1310 g/m3.
Phần lớn đất đai trong lưu vực sông Đà là đồi núi. Độ cao bình quân toàn lưu
vực là 1130 m, riêng phần Việt Nam độ cao bình quân là 965 m. Độ dốc đáy sông

Đà đạt 0.41%.
c) Sông Lô
Chiều dài sông là L = 470 km
Diện tích sông là F = 13690 km2
Lưu vực được giới hạn phía Đông là cánh cung Ngân Sơn và cánh cung sông
Gâm, phía Đông Nam là dãy núi Tam Đảo và phía Tây là dãy Con Voi. Hướng dốc
chung là Tây Bắc-Đông Nam. Độ cao bình quân lưu vực là: 500-1000 m.
Dòng chính sông Lô bắt nguồn từ vùng cao nguyên Vân Nam, cao trên 2000
m, bắt đầu chảy vào Việt Nam tại Thanh Thủy.
Đoạn từ nguồn tới Hà Giang chảy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, thung
lũng sông Lô ở đây rất hẹp, có nơi chỉ rộng khoảng 4-5 km, các bờ núi xung quanh
cao từ 1000 đến 1500 m. Từ Hà Giang tới Bắc Quang, sông đổi hướng thành gần
Bắc Nam, lòng sông rất nhiều thác ghềnh: chỉ kể từ biên giới về tới Vĩnh Tuy đã có
tới 60 ghềnh, thác và bãi bồi. Tới Hà Giang, sông Miện gia nhập vào sông Lô ở bờ
phải.
Lưu vực dòng chính sông Lô có lượng nước trung bình nhiều năm lớn nhất
so với các sông khác trong lưu vực. Tổng lượng nước bình quân nhiều năm lên tới
31.9 km3 ứng với lưu lượng bình quân 1010 m 3/s, môdun dòng chảy năm là 25.9
l/s.km2.
Dòng chảy năm dao động ít, hệ số biến đổi của dòng chảy năm thay đổi từ
0.17 đến 0.22. Phụ thuộc vào chế độ mưa, chế độ dòng chảy trong lưu vực sông Lô
cũng chia thành hai mùa rõ rệt:
12


-

Mùa lũ kéo dài 5 tháng, từ tháng VI đến tháng X. Trên các phụ lưu mùa lũ ngắn
hơn, khoảng 4 tháng, từ tháng VI đến tháng IX. Tháng có lượng dòng chảy lớn nhất
trong năm xuất hiện vào tháng VIII. Phía trung lưu dòng chảy tháng lớn nhất xuất

hiện sớm hơn, vào tháng VII và chiếm 17-20 % lượng dòng chảy cả năm. Cường
suất mực nước bình quân lớn nhất trên dòng chính sông Lô có trị số từ 24 đến 44
cm/h. Đường quá trình nước lũ đều có dạng răng lược. Trong suốt mùa lũ có tới trên

-

10 ngọn lũ lớn nhỏ và thường đạt tới đỉnh cao nhất vào tháng VII hoặc tháng VIII.
Mùa cạn, mực nước và lưu lượng giảm xuống nhanh chóng. Nước cạn nhất xuất
hiện vào tháng III, lượng dòng chảy của tháng này chỉ chiếm khoảng 2 % lượng
dòng chảy cả năm. Modun dòng chảy nhỏ nhất bình quân tháng đều trên 6 l/s.km 2,
môđun dòng chảy nhỏ nhất tuyệt đối cũng đạt tới 2.6-3.5 l/s.km 2. Dòng chảy mùa
cạn sông Lô biến đổi không nhiều, hệ số biến đổi 0.26-0.30.
Độ dốc trung bình của đáy sông là 0.26 ‰. Riêng các phụ lưu thì dốc hơn
nhiều, độ dốc trung bình của sông con tới 6.18 ‰. Sự dao động lớn về độ cao tương
đối đã tạo ra những thung lũng sâu và hẹp, độ dốc sườn lớn 38-40 0. Địa hình núi,
đồi chiếm trên 80 % diện tích lưu vực. Trên một số phụ lưu diện tích có độ cao từ
600 m trở lên, chiếm tỷ lệ lớn.
Đặc điểm khí hậu dòng chính sông Lô chịu ảnh hưởng sâu sắc của địa hình
và vị trí lưu vực. Tùy thuộc vào vị trí và đặc điểm cao hay thấp của địa hình cùng
mức độ ảnh hưởng của hoàn lưu gió mùa đối với từng nơi mà có sự thay đổi về khí
hậu giữa các vùng trong lưu vực:

-

Thượng lưu sông Lô có khí hậu nóng vừa, khô và ít mưa.
Trung lưu sông Lô có khí hậu nóng ẩm và mưa nhiều là vùng có mưa lũ lớn nhất

-

lưu vực.

Hạ lưu sông Lô có khí hậu nóng và tương đối ẩm, mưa trên lưu vực nhiều nhất ở
trung lưu và giảm dần về thượng, hạ lưu.
1.2 Đặc điểm khí hậu
1.2.1. Chế độ ẩm
Độ ẩm tương đối trung bình năm của không khí trên lưu vực ở phần Việt
Nam có trị số khá cao từ 80% ÷ 90%, thời kỳ khô nhất khoảng 75% và thời kỳ ẩm
nhất nhiều nơi đạt đến hơn 90%. Phần lớn các vùng trong lưu vực đạt hai giá trị cực
đại và hai giá trị cực tiểu. Cực đại thứ nhất thường xảy ra vào khoảng tháng II đến
13


tháng III do có nhiều mưa phùn và và ẩm ướt nhất trong năm (Yên Bái 90%, Hà
Nội 87%, Hải Phòng 91%, Nam Định 91%...). Cực đại thứ hai xảy ra vào khoảng
tháng VII đến tháng VIII tương ứng với thời gian nóng nhất và mưa nhiều trong
năm (Tuyên Quang, Hà Nội 86%, Hải Phòng 88%). Cực tiểu thứ nhất xảy ra vào
tháng V ÷ VI và cực tiểu thứ hai xảy ra vào khoảng tháng X ÷ XI tương ứng với
thời kỳ vào đầu và cuối mùa mưa (Hoà Bình, Phú Thọ, Hà Nội có độ ẩm khoảng 80
÷ 83%). Độ ẩm không khí tương đối trung bình nhiều năm của lưu vực vào khoảng
84%. Độ ẩm tương đối lớn nhất xuất hiện vào các tháng mùa Hè, mùa xuân, nhất là
các ngày có gió mùa Đông Bắc hoạt độngmạnh gây mưa lớn. Trong các tháng này
độ ẩm tương đối thường cao hơn 86%. Độ ẩm thấp nhất xảy ra vào các tháng mùa
Đông, đặc biệt vào những ngày gió Tây Nam khô nóng hoạt động, trong thời kỳ này
độ ẩm có thể nhỏ hơn 50%. Sự chênh lệch về độ ẩm không khí giữa mùa khô và
mùa mưa của khu vực này là thấp, tháng có độ ẩm tương đối nhỏ nhất là tháng XI,
XII.
1.2.2. Chế độ nhiệt
Lưu vực sông Hồng nằm giữa ranh giới của vùng nhiệt đới nội chí tuyến
(phần Việt Nam và một phần lưu vực thuộc Trung Quốc) và vùng cận chí tuyến
(phần còn lại trên lãnh thổ Trung Quốc). Nó vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa cực
đới Châu Á đồng thời do nằm sát bên bờ Thái Bình Dương nên lại chịu ảnh hưởng

thường xuyên mãnh liệt của khí hậu biển cả trong mùa hè và mùa đông, có khí hậu
ôn hoà hơn về mùa hạ so với các vùng nhiệt đới trong lục địa, nhưng lại có mùa
đông lạnh hơn. Vì thế lưu vực sông Hồng có nền nhiệt thấp hơn các vùng nhiệt đới
khác của hành tinh song độ ẩm lại phong phú. So với toàn quốc lưu vực có nền
nhiệt độ bình quân hàng năm thấp hơn. Do chịu ảnh hưởng nhiều của gió mùa Đông
Bắc trong mùa đông và gió mùa Tây Nam trong mùa hạ nên thời gian ấm nóng
trong phần lớn lưu vực kéo dài từ 8 ÷ 9 tháng (tháng III ÷ IX, có nhiệt độ trung bình
tháng trên 200C, tháng V ÷ IX có nhiệt độ cao hơn 25 0C). Nhiệt độ thấp ở hầu khắp
trong lưu vực vào tháng XII ÷ II (thấp nhất thường vào tháng I và đầu tháng II, trên
vùng núi cao vào những ngày giá rét thường có tuyết rơi và nước đóng băng trên bề
mặt nhưng cũng chỉ xảy ra trong ngày. Một điều cần lưu ý là vào đầu mùa hè (tháng
V ÷ VI) gió mùa Tây Nam phát triển mạnh, áp thấp ấn - Miên di chuyển từ Tây sang
14


Đông gây gió Tây mang thời tiết khô nóng ảnh hưởng nhiều nên trên bề mặt lưu
vực lưu vực sông Đà và có khi còn tràn xuống cả trung du và đồng bằng sông Hồng
(thời kỳ này thường đạt tới trị số cao tuyệt đối, trị số đó thường từ 40 0 ÷ 430C).
Nhiệt độ không khí bình quân nhiều năm là 23,3 0C. Nhiệt độ cao nhất vào tháng VII
với bình quân tháng là 28,80C. Nhiệt độ thấp nhất là vào các tháng XII, I bình quân
vào khoảng 15,9 đến 18,20C.
1.2.3 Chế độ gió
Gió hoạt động trên lãnh thổ miền Bắc nói chung có thể chia làm hai mùa: gió
mùa đông từ tháng XI - IV năm sau và gió mùa hạ từ tháng V - X. Tuy nhiên do ảnh
hưởng của điều kiện địa hình mà hướng gió hoạt động trên lưu vực sông Hồng
mang nặng tính địa phương. Hai hướng gió thịnh hành trong năm là hướng Nam và
Đông Nam. Trong mùa đông khi gió Đông Bắc tràn về, hướng gió Đông Bắc và Bắc
cùng xuất hiện, song không đều trên lưu vực và tần suất xuất hiện nhỏ hơn nhiều so
với hướng Đông Nam. Hướng Đông Nam không những thịnh hành trong mùa hè mà
còn thịnh hành trong cả một số tháng mùa đông, đồng thời là nguyên nhân tạo ra

những đợt nóng ấm xen kẽ trong mùa đông.
1.2.4. Chế độ mưa
Lượng mưa trung bình thời kỳ quan trắc của các trạm, khí tượng, đo mưa
trên lưu vực được minh hoạ trong bảng 3.5. Nhìn chung, lưu vực sông Hồng có khí
hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. Lượng mưa khá phong phú nhưng phân bố không
đều theo không gian. Lượng mưa năm khá lớn nhưng chủ yếu tập trung vào mùa
mưa. Lượng mưa năm biến động rất mạnh so với yếu tố khí tượng khác, giá trị cực
đại tiểu cực đại của lượng mưa có thể chênh nhau từ hai đến ba lần. Nếu xét theo
không gian trong lưu vực dao động trong khoảng 1200 ÷ 2000 mm, phần lớn trong
khoảng 1800 mm/năm. Lượng mưa năm biến đổi rất lớn từ 700 ÷ 4800 mm, trong
đó địa phận Trung Quốc 700 ÷ 2100 mm/năm, phần Việt Nam 1200 mm ÷ 4800mm
(thuộc loại mưa lớn của thế giới). Tạo ra tài nguyên khí hậu và tài nguyên nước rất
phong phú trong lưu vực sông Hồng. Sự phân bố lượng mưa trên lưu vực phụ thuộc
rất nhiều vào địa hình và sự xắp xếp các dãy núi: hướng đón gió và khuất gió. Địa
hình cao, phía hướng đón gió mưa nhiều và tạo thành các tâm mưa lớn là Bắc
Quang, Mường Tè, Hoàng Liên Sơn có lượng mưa khá lớn. Lượng mưa lớn nhất có
15


nơi đạt đến 600-700mm/tuần; 1200mm/tháng đặc biệt là trung tâm mưa Bắc Quang
có năm đạt đến 5499mm/năm. Những vùng khuất sau dãy núi chắn gió như thung
lũng Yên Châu, Cao nguyên Sơn La, lòng chảo Nghĩa Lộ, vùng thượng nguồn sông
Gâm có lượng mưa nhỏ đạt từ 1200mm đến khoảng 1600mm/năm. Vùng đồng bằng
có lượng mưa trung bình từ 1400mm đến hơn 2000mm. Lượng mưa biến đổi qua
nhiều năm không lớn, năm mưa nhiều gấp 2-3 lần lượng mưa năm mưa ít. Do đặc
tính khí hậu nhiệt đới gió mùa nên chế độ mưa trên lưu vực sông Hồng biểu hiện
tính mùa khá rõ rệt. Mùa mưa thường kéo dài 5 tháng từ tháng VI đến tháng X. Nơi
mưa nhiều có thể kéo dài 7-8 tháng. Nhiệt độ không khí trung bình từ 15oC – 24oC.
Lượng bốc hơi trung bình năm (đo bằng ống Piche) từ 600mm ở vùng núi cao đến
hơn 1000mm ở vùng đồng bằng.

1.3. Đặc điểm thủy văn trên lưu vực sông Hồng
1.3.1. Mạng lưới trạm khí tượng thủy văn
Công tác quan trắc KTTV đã được tiến hành nhiều thập kỷ qua trên lưu vực
sông Hồng. Trên lưu vực có 223 trạm KTTV (48 trạm khí tượng bề mặt, 121 trạm
đo mưa, 54 trạm thủy văn,..., nhưng chưa có radar thời tiết). Trạm quan trắc khá dày
và khá đại biểu ở vùng ven sông, vùng hạ lưu, nhưng ở vùng núi cao, địa hình hiểm
trở, xa xôi (song là các vùng tâm mưa) lại thiếu trạm do nhiều lý do khác nhau: điều
kiện xây dựng trạm, duy trì trạm, kinh phí,... Chính điqều kiện hình thành lũ rất
phức tạp trong khi mạng lưới trạm, phương tiện theo dõi, thu thập thông tin KTTV
còn có nhiều hạn chế nên việc xác định những căn cứ khoa học, định hướng phát
triển để đảm bảo đẩy mạnh một bước năng lực theo dõi, cảnh báo và dự báo lũ các
sông vùng núi nói chung và ở vùng núi Bắc Bộ nói riêng là vấn đề cần được chú
trọng.
1.3.2. Dòng chảy năm
Dòng chảy trên lưu vực sông Hồng - sông Thái Bình được hình thành từ mưa
và khá dồi dào. Tổng lượng bình quân nhiều năm qua Sơn Tây khoảng 118 tỷ m3
tương ứng với lưu lượng 3743 m3/s, nếu tính cả sông Thái Bình, sông Đáy và vùng
đồng bằng thì tổng lượng dòng chảy đạt tới 135 tỷ m3, trong đó 82,54 tỷ m3 (tương
đương 61,1%) lượng dòng chảy sản sinh tại Việt Nam và 52,46 tỷ m3 (tương đương

16


38,9%) là sản sinh trên lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên, do địa hình chia cắt, lượng
mưa phân bố không đều nên dòng chảy trên các phần lưu vực cũng rất khác nhau.
Dòng chảy ở địa phận Việt Nam phong phú hơn nhiều dòng chảy của phần
thượng nguồn lưu vực nằm ở Trung Quốc (lượng mưa trung bình ước tính trên sông
Đà phần Việt Nam 2900 mm/năm; Phần Trung Quốc 1800 mm/năm; trên sông Lô
phần lưu vực ở Trung Quốc là 1200 mm/năm thì lưu vực thuộc Việt Nam lên tới
1900 mm/năm; trên sông Thao phần Trung Quốc còn thấp hơn là 1100 mm/năm và

thuộc lãnh thổ Việt Nam cũng đạt 1900 mm/năm).
Nhìn chung, lượng nước trung bình hàng năm trên lưu vực biến đổi khá lớn
và tuỳ thuộc từng sông. Năm nhiều nước nhất so với năm ít nước nhất gấp 1,7 đến
2,2 lần ở sông Hồng và từ 3 đến 4,6 lần ở sông Thái Bình. Trên các sông nhỏ, biến
động nước trung bình năm nhiều hơn, đặc biệt là các nhánh nhỏ của sông Thái
Bình.
Trong 3 nhánh lớn của sông Hồng thì sông Đà có lượng dòng chảy lớn nhất
chiếm khoảng 42%, sông Thao có diện tích lưu vực xấp xỉ sông Đà song lại có
lượng dòng chảy nhỏ nhất chỉ chiếm 19%, sông Lô có diện tích lưu vực là nhỏ nhất
song có lượng dòng chảy đáng kể đứng thứ hai sau sông Đà chiếm 25,4% (tỷ lệ này
so với lượng dòng chảy đến tại Sơn Tây).
1.3.3. Dòng chảy lũ
Nước lũ sông Hồng mang tính chất lũ của sông miền núi, có nhiều ngọn, lên
nhanh, xuống nhanh, biên độ lớn (biến đổi mực nước hàng năm trung bình từ 5m ÷
8m ở trung du và đồng bằng, tối đa có năm lên tới 8m ÷ 14 m. Lũ trên lưu vực do
mưa rào nhiệt đới gây ra, nhiều loại thời tiết có thể gây mưa lớn trên lưu vực như:
áp thấp, front, dải hội tụ nhiệt đới, bão... Cùng một thời gian trên lưu vực có thể có
từ 1 ÷ 3 loại hình thời tiết hoạt động hoặc xảy ra kế tiếp nhau gây mưa lớn kéo dài,
phạm vi và cường độ phụ thuộc vào sự diễn biến của các loại hình thời tiết và
những nhiễu động. Hội tụ nhiệt đới là loại hình thời tiết hay gây mưa lớn và nhiễu
động mạnh trên phạm vi rộng. Tháng VIII thường là lúc dải hội tụ nhiệt đới nằm
ngang trên lưu vực nên thường hay có mưa lớn và gây ra lũ lớn như tháng 8/1945,
8/1969, 8/1971.Trong mùa lũ khi trên một sông có lũ lớn thì các sông kia cũng có
lũ, song thường khác về quy mô và thời gian xuất hiện đỉnh ít trùng nhau. Trong 90
17


năm số liệu đo đạc chưa xuất hiện trường hợp lũ lớn nhất trên cả ba nhánh sông
Hồng cùng xuất hiện.
Do chế độ mưa trên lưu vực biến đổi cả về không gian và thời gian, nên sự

xuất hiện lũ lớn trên sông Hồng có tính chất phân kỳ rõ rệt. Ở Bắc Bộ mùa lũ từ
tháng 6 ÷ tháng 10; ở phía Đông Bắc có thể xảy ra lũ lớn vào tháng 11; Ở Tây Bắc
mùa lũ có thể sớm hơn. Trên lưu vực sông Hồng có trên 45% số năm có lũ lớn vào
tháng 8, trên 29% vào tháng 7, chỉ có 17% xảy ra vào tháng 9. Tuy vậy những trận
lũ đặc biệt lớn chỉ xảy ra vào tháng 8 ví dụ như các trận lũ tháng 8/1945, tháng
8/1971. Lũ ở vùng châu thổ có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh tế xã hội của 14
triệu dân. Hàng năm có từ 3 ÷ 5 trận lũ phát sinh trên lưu vực sông Hồng. Tuỳ theo
quy mô của các trận lũ, thời gian lũ lên từ 3 ÷ 5 ngày, thời gian lũ xuống từ 5 ÷ 7
ngày. Những trận lũ lớn ở lưu vực sông Hồng - sông Thái Bình thường do từ 2 ÷ 3
con lũ kết hợp nhau tạo thành và thường kéo dài 15 ÷ 20 ngày như lũ tháng 8/1969;
tháng 8/1971.
Bảng 1.1: Tần suất (%) bắt đầu và kết thúc mùa lũ trên hệ thống sông Hồng
TT

Trạm

Sông

1
2
3
4
5
6
7
8
9

Lai Châu
Tạ Bú

Hoà Bình
Phù Ninh
Hàm Yên
T.Quang
Lao Cai
Yên Bái
Hà Nội

Đà
Đà
Đà



Thao
Thao
Hồng

Bắt đầu mùa lũ
V
VI
VII
3
87
10
0
89
11
6
74

21
7
93
0
26
68
6
43
52
3
7
66
27
3
57
40
0
79
21

IX
0
2
3
13
9
8
0
3
8


Kết thúc mùa lũ
X
XI
XII
54
46
0
51
47
0
55
42
0
53
34
0
71
20
0
57
35
0
39
52
9
54
43
0
82

10
0

Cường suất lũ lên khá nhanh đạt 5 ÷ 7 m/ngày ở thượng lưu sông Đà, sông
Lô; ở trung lưu 2 ÷ 3 m/ngày và ở hạ lưu là 0,5 ÷ 1,5m/ngày. Ở thượng du sông
Thái Bình có thể đạt tới 1 ÷ 2 m/giờ. Biên độ mực nước ở các sông nhỏ đạt 3 ÷ 4 m,
sông lớn tới 10m. Biên độ tuyệt đối đạt tới 13,22m ở Lào Cai (sông Thao); 31,1m ở
Lai Châu (sông Đà); 20,4 m ở Hà Giang (sông Lô) và 13,1 m ở Hà Nội (sông
Hồng). Trên sông Thái Bình đạt 12,76m tại Chũ; ở Phả Lại đạt 7,91m.
1.3.4. Dòng chảy kiệt
18


Mùa kiệt trên lưu vực thường từ tháng XI đến tháng V gồm 7 tháng (có lưu
lượng bình quân tháng nhỏ hơn lưu lượng trung bình năm). Trong đó có tháng XI là
tháng chuyển tiếp từ mùa mưa sang mùa ít mưa. Từ tháng X đến tháng XI dòng
chảy trong sông giảm nhanh và từ tháng XII đến tháng IV dòng chảy ít biến động,
cuối tháng IV và tháng V do có mưa nên dòng chảy lại tăng nhanh, chính thức mùa
kiệt là từ tháng XII đến tháng IV. Do vậy việc dùng nước cần được quan tâm đến
dòng chảy kiệt từ tháng XII đến tháng IV và có thể là cả tháng V. Trong các tháng
mùa kiệt vẫn còn có lượng mưa chiếm khoảng 20 ÷ 25% lượng mưa cả năm nhưng
lượng mưa này lại tập trung vào 3 tháng XI, IV và V còn các tháng XII đến tháng
III mưa nhỏ và nhất là 2 tháng XII và I là thời tiết khô hanh, tháng II và III tuy đã
có mưa nhưng chỉ là mưa phùn, từ tháng XII đến tháng III dòng chảy trong sông
suối là do nước ngầm và nước điều tiết từ các hồ chứa cung cấp. Do vậy tháng có
lưu lượng nhỏ nhất trong năm hầu hết rơi vào tháng III (53% ở Hoà Bình, 52% ở
Yên Bái, 45% ở Phù Ninh, 49% ở Thác Bưởi, 57% ở Chũ và 63% ở Sơn Tây), số
năm còn lại rơi vào tháng II và tháng IV. Mô đuyn dòng chảy kiệt vùng châu thổ
sông Hồng là 4,9 l/s.km2.
1.4. Điều kiện kinh tế - xã hội

1.4.1. Hiện trạng phát triển dân số
Tính đến năm 1999 tổng số dân trong lưu vực là 25.776.300 người chiếm
81,4% số dân ở Bắc Bộ và 29,73% dân số cả nước. Trong đó dân số nông nghiệp là
10,9 triệu người, dân số nghèo chiếm 29%. Các số liệu về dân số, phân bố dân cư
trong lưu vực được tổng hợp từ niên giám thống kê năm 1999 của các tỉnh. . Mật độ
dân số trung bình ở lưu vực từ 209 người/km2 năm 1989 lên 240 người/km2 năm
1994 và 288 người/km2 năm 1999. Dân cư tập trung đông ở các tỉnh đồng bằng, các
thành phố lớn như Hà Nội: 2952người/km2 ; Thái Bình 1163 người/km2 ; Hải
Phòng 1398 người/km2 , Hải Dương 955 người/km2 (số liệu năm 1999) và các tỉnh
miền núi dân cư đều có mật độ thấp như: Lai Châu 27 người/km2 ; Sơn La 68
người/km2 , Hà Giang 76 người/km2 ). Vấn đề đô thị, nông thôn: Dân cư trong lưu
vực sống ở nông thôn là chủ yếu, chiếm tới 93,87%. Còn lại sống ở các thành phố,
thị xã, thị trấn. Quá trình đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ, do vậy tỷ lệ thành thị và
nông thôn còn nhiều thay đổi trong thế kỷ 21, mật độ dân số trong nội thị rất cao
19


(Hà Nội khoảng 19.000 ÷ 20.000 người/km2 , Hải Phòng cũng khoảng 16000 ÷
17000 người/km2 )
1.4.2. Hiện trạng kinh tế các ngành
a. Công nghiệp
Ngành Công nghiệp trong lưu vực chủ yếu tập trung ở các tỉnh vùng trung du
và đồng bằng. Toàn lưu vực có tổng số: 239 nhà máy xí nghiệp vừa và lớn trong
đó: Lưu vực sông Đà 8 nhà máy. Lưu vực sông Thao 230 nhà máy. Lưu vực sông
Lô - Gâm 1 nhà máy. Ngoài ra còn hàng ngàn nhà máy xí nghiệp nhỏ.
Vùng đồng bằng và trung du của lưu vực là khu vực sản xuất công nghiệp
phát triển năng động và cân đối, quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá diễn ra
nhanh, quy mô lớn. Phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn. Các khu công
nghiệp kỹ thuật cao, công nghiệp chế biến, công nghiệp xuất khẩu. Tốc độ đổi mới
đạt khoảng 10 ÷ 11%, công nghiệp chế tạo chiếm 17%, công nghiệp chế biến chiếm

khoảng 21%, các ngành công nghiệp mới và hiện đại như điện tử, phần mềm còn rất
khiêm tốn chiếm 3 ÷ 4%. Các ngành và sản phẩm chủ yếu hiện đang phát triển trên
lưu vực là: sản xuất điện; sản xuất xi măng; sản xuất thép; công nghiệp cơ khí; công
nghiệp điện tử và sản xuất đồ điện dân dụng; công nghiệp lắp ráp ô tô, xe máy. Các
ngành sản xuất bia nước giải khát, công nghiệp may mặc, dệt và da giày, công
nghiệp khai khoáng, công nghiệp giấy.
b. Nông nghiệp
Lưu vực sông Hồng là vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm của cả nước
sau đồng bằng sông Cửu Long. Sản lượng lương thực quy thóc tăng từ 6450,3 nghìn
tấn năm 1990 đến 8070,0 nghìn tấn năm 1995 và đạt 10048,8 tấn năm 1999 (số liệu
thống kê lấy toàn bộ 25 tỉnh thành phố ở Bắc Bộ). Đây là vùng có nền nông nghiệp
phát triển khá lâu đời song do đặc điểm địa hình, điều kiện tự nhiên nên việc sản
xuất nông nghiệp vừa mang tính chất canh tác của vùng đồng bằng và lại có tính
chất của vùng trung du và miền núi. Một số khu vực như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà
Nội sản xuất nông nghiệp theo quy mô tập trung, có kế hoạch thời vụ gieo trồng,
thu hoạch. Các khu vực như Bắc Kạn, Thái Nguyên việc sản xuất nông nghiệp
mang tính chất vùng núi, canh tác nhỏ lẻ, manh mún. Đồng bằng sông Hồng có
khoảng 1,5 triệu ha đất tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp gần 900000 ha.
20


Các loại cây trồng chính trên lưu vực gồm ngô, khoai lang, sắn, đay, bông,
mía lạc, đậu tương, thuốc lá, lúa....Sản lượng của các cây từng bước đã đạt độ ổn
định. Các cây công nghiệp dài ngày chủ yếu là chè và cà phê có: Chè là cây truyền
thống và trồng từ lâu trên địa bàn nhiều tỉnh trong lưu vực, năm 1998 có diện tích
48000ha trong đó đang kinh doanh 38844 ha, năng suất đạt 3,4 tấn/ha búp tươi, sản
lượng 153,287 tấn bằng 56% sản lượng chè cả nước. Cây cà phê cũng được trồng ở
vùng này từ lâu song việc phát triển thành khu vực tập trung lớn rất chậm, chỉ có
hai tỉnh Sơn La và Yên Bái đang phát triển mạnh, hiện có khoảng 8700 ha trên địa
bàn 8 tỉnh. Cây ăn quả cũng đang trên đà phát triển, đã xuất hiện nhiều vùng sản

xuất tập trung như: Vải thiều Bắc Giang, Hải Dương; Hồng: Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Tuyên Quang; Nhãn: Yên Bái, Hưng Yên; Mận: Lào Cai, Sơn La; Cam: Hà Giang;
Bưởi: Phú Thọ...; và còn nhiều chủng loại cây ăn quả đang phát triển theo hộ và
trang trại ở các địa phương. Toàn lưu vực hiện có khoảng 80000 ha và đang có xu
hướng tăng lên.

21


CHƯƠNG II:
LẬP PHƯƠNG ÁN DỰ BÁO THEO PHƯƠNG PHÁP MỰC NƯỚC
TƯƠNG ỨNG CHO ĐOẠN SÔNG TỪ TRẠM SƠN TÂY ĐẾN TRẠM
HÀ NỘI TRÊN SÔNG HỒNG
2.1 Phân tích tình hình số liệu:
Số liệu phân tích thuộc 2 trạm là Sơn Tây và Hà Nội trên lưu vực sông Hồng
Từ ngày 30/6/1993 đến hết ngày 27/8/1993 với số lần đo lượng mưa là 4 lần
1 ngày( 1h,7h,13,19h)
Vẽ đường quá trình. Từ đường quá trình sẽ xác định được một số giá trị đặc
trưng ban đầu của chuỗi số liệu:
Trạm Sơn Tây:



Mực nước lớn nhất (1h,7h ngày 26/8/1993): 1252 cm
Mực nước nhỏ nhất (7h ngày 30/6/1993): 840 cm
Trạm Hà Nội:



Mực nước lớn nhất (7h ngày 26/8/1993): 962 cm




Mực nước nhỏ nhất (19h ngày 30/6/1993): 538 cm
Sử dụng 2/3 chuỗi số liệu của 2 trạm để dự báo phụ thuộc từ ngày 30/6/1993
đến hết ngày 7/8/1993.
Sử dụng 1/3 chuỗi số liệu còn lại để dự báo độc lập từ ngày 8/8/1993 đến
27/81993.
2.2 Lập phương án dự báo theo phương pháp mực nước tương ứng để dự báo
cho mực nước từ trạm Sơn Tây đến Hà Nội
2.2.1 Xác định thời gian chảy truyền (τ)
- Chọn các trận lũ đơn, có lượng gia nhập khu giữa không lớn
- Xác định các điểm chân lũ (Ctr), đỉnh lũ (Đtr) của quá trình lũ trạm trên
(trạm Sơn Tây) và các điểm chân lũ (Cd), đỉnh lũ (Đd) của quá trình lũ trạm dưới
(trạm Hà Nội) tương ứng
- Thống kê thời gian xuất hiện các điểm đặc trưng trên đường quá trình lũ
trạm trên:
22


+ Thời điểm xuất hiện điểm Ctr là tCtr
+ Thời điểm xuất hiện điểm Đtr là tĐtr
- Tương tự thời gian xuất hiện của các điểm đặc trưng trên đường quá trình
lũ trạm dưới:
+ Thời điểm xuất hiện điểm Cd là tCd
+ Thời điểm xuất hiện điểm Đd là tĐd
- Tính thời gian truyền các điểm đặc trưng tương ứng từ trạm trên về trạm
dưới:
τC = tCd - tCtr
τĐ = tĐd - tĐtr

Trong đó τC là thời gian truyền chân lũ; τĐ là thời gian truyền đỉnh lũ.
Việc tính toán thời gian truyền lũ được thực hiện dưới dạng bảng 2.2
Bảng 2.1: Tính thời gian truyền lũ bằng phương pháp điểm đặc trưng
TT
trận lũ
1
1
2
3
TB

Thời điểm xuất hiện đặc trưng lũ
Trạm trên ( Sơn Tây )
Trạm dưới ( Hà Nội )
tC
3
h
19 /30/VI
1h/20/VII
13h/8/VIII


4
h
7 /4/VII
13h/25/VII
1h/12/VIII

tC
5

h
1 /30/VI
7h/20/VII
19h/8/VIII


6
h
13 /4/VII
19h/25/VII
7h/12/VIII

Thời gian truyền
lũ (h)
τC
7
6
6
6
6

τĐ
8
6
6
6
6

Thời gian truyền lũ (thời gian chảy chuyền) τ =6h.
1


Xây dựng bản đồ dự báo và xác định sai số cho phép
a. Xây dựng bản đồ dự báo
Trích số liệu mực nước của trạm trên (Htr, t) tại thời điểm t, tương ứng chính
là mực nước trạm dưới (Hd, t+6). Các số liệu này được đưa vào bảng cơ sở số liệu để
xây dựng biểu đồ dự báo (Bảng 2.2)

23


Bảng 2.2: Số liệu mực nước thực đo
Ngày

Giờ

30/06/1993
30/06/1993
30/06/1993
30/06/1993
07/01/1993
07/01/1993
07/01/1993
07/01/1993
07/02/1993
07/02/1993
07/02/1993
07/02/1993
07/03/1993
...
08/04/1993

08/04/1993
08/04/1993
08/04/1993
08/05/1993
08/05/1993
08/05/1993
08/05/1993
08/06/1993
08/06/1993
08/06/1993
08/06/1993
08/07/1993
08/07/1993
08/07/1993
08/07/1993

1
7
13
19
1
7
13
19
1
7
13
19
1
...

1
7
13
19
1
7
13
19
1
7
13
19
1
7
13
19

Trạm Sơn Tây
H
845
840
842
843
859
871
886
897
905
925
934

948
965
...
1084
1085
1086
1086
1088
1091
1090
1086
1083
1078
1073
1068
1068
1068
1066
1064

Trạm Hà Nội
H
547
547
541
538
541
548
560
572

585
600
612
623
642
...
787
788
789
788
788
792
793
793
790
786
780
773
771
769
768
766

Trạm Hà Nội
H( t+6)
547
541
538
541
548

560
572
585
600
612
623
642
667
...
788
789
788
788
792
793
793
790
786
780
773
771
769
768
766
764

Từ số liệu thực đo thống kê trong bảng 2.2, ta xây dựng đường quan hệ:
Hd(t+6) = = f[Htr(t)] cho 2/3 tài liệu trong bảng 2.2 dưới dạng hình 2.1.
Hình 2.1: Đường quan hệ mực nước Hhn = f(Hst)
b. Xác định sai số cho phép

Sai số cho phép dự báo yếu tố của dự báo thủy văn hạn ngắn và hạn vừa
được tính theo công thức sau:
24


Scf = ∆cf = 0,674* σ



Trong đó:
Scf và ∆cf : Là sai số cho phép
σ∆ :

Là khoảng lệch quân phương của chuỗi biến đổi yếu tố dự báo trong thời

gian dự kiến.
Bảng 2.3: Bảng tính giá trị sai số cho phép σ ∆
Gi

1
7
13
19
1
7
13
...
1
7
13

19
1
7
13
19

Trạm

Trạm

Sơn tây
H
845
840
842
843
859
871
886
...
1252
1252
1248
1242
1236
1221
1205
1185

Hà Nội

H
547
547
541
538
541
548
560
...
960
962
961
958
951
945
928
913

Hhn +

ΔHh

ΔHhn -

(ΔHhn -

6h

n


ΔH0

ΔH0)^2

547
541
538
541
548
560
572
...
962
961
958
951
945
928
913

0
-6
-3
3
7
12
12
...
2
-1

-3
-7
-6
-17
-15

-1.56
-7.56
-4.56
1.44
5.44
10.44
10.44
...
0.44
-2.56
-4.56
-8.56
-7.56
-18.56
-16.56

2.45
57.22
20.83
2.06
29.55
108.91
108.91
...

0.19
6.57
20.83
73.34
57.22
344.63
274.37

366
Các đặc trưng này được xác định theo các công thức sau:

23335.98

= = 9.99
Trong đó:
: Biến đổi của mực nước dự báo trong thời gian dự kiến được tính từ số liệu
thực đo như sau:
= (Hd,t+6h – Hd,tđ)
Với: Hd,t+6h là giá trị thực đo của mực nước dự báo tại thời điểm t+6h
: Trung bình của các giá trị biến đổi của mực nước dự báo trong thời gian dự
kiến:

25


×