Tải bản đầy đủ (.pdf) (182 trang)

Hồi ký trong văn học việt nam giai đoạn từ 1975 đến nay nhìn từ đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 182 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_______________________

TRẦN THỊ HỒNG HOA

HỒI KÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN TỪ 1975 ĐẾN NAY NHÌN TỪ
ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_______________________

TRẦN THỊ HỒNG HOA

HỒI KÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN TỪ 1975 ĐẾN NAY NHÌN TỪ
ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số:

62 22 01 20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN KHÁNH THÀNH

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
- Luận án tiến sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
- Luận án đã được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu
thị.
- Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã được tiếp thu
một cách trung thực, cẩn trọng trong luận án.

NGHIÊN CỨU SINH

Trần Thị Hồng Hoa


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trần Khánh
Thành - người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn cơ sở đào tạo, các thầy cô giáo, cơ
quan, bạn bè và gia đình đã luôn động viên, tạo điều kiện cho tôi trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án này.
NGHIÊN CỨU SINH


Trần Thị Hồng Hoa


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 4
5. Đóng góp mới của luận án ....................................................................... 5
6. Cấu trúc luận án ....................................................................................... 6
Chƣơng 1.TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .............................. 7
1.1. Một số vấn đề lí luận về ký ................................................................ 7
1.1.1. Nguồn gốc của ký ............................................................................ 7
1.1.2. Đặc trưng của ký ............................................................................. 8
1.1.3. Phân loại ký .................................................................................. 12
1.2. Quan niệm về hồi ký ........................................................................ 14
1.2.1. Khái niệm về hồi ký ....................................................................... 14
1.2.2. Đặc trưng của hồi ký ..................................................................... 16
1.2.3. Phân loại hồi ký ............................................................................ 21
1.3. Lịch sử nghiên cứu hồi ký tại Việt Nam .......................................... 27
1.3.1. Tình hình nghiên cứu hồi ký trước năm 1975 ............................... 27
1.3.2. Tình hình nghiên cứu hồi ký sau năm 1975 .................................. 30
Chƣơng 2.QUÁ TRÌNH PHỤC HIỆN KÝ ỨC TRONG HỒI KÝ SAU
1975 ............................................................................................................ 37
2.1. Vai trò của ký ức trong hồi ký ............................................................ 37
2.1.1. Ký ức là khởi nguồn, chất liệu của văn học nói chung ................... 38
2.1.2. Ký ức sàng lọc và tạo ra những giới hạn của việc tái hiện sự thật . 40

2.2. Sự thôi thúc từ hiện tại - điểm khởi đầu của dòng ký ức ................... 45
2.2.1. Nhu cầu hồi cố của lớp người cao tuổi ........................................... 46
2.2.2. Khát vọng chia sẻ của lớp trẻ qua hồi ký ........................................ 48
2.3. Sự kết tinh của các biểu tượng nghệ thuật.......................................... 50
2.3.1. Những biểu tượng nổi bật ................................................................ 52
2.3.2. Sự tương hỗ của các biểu tượng ...................................................... 61


2.4. Sự hỗ trợ của trí tưởng tượng trong quá trình hoài niệm ................... 63
2.4.1. Vai trò của tưởng tượng và vấn đề hư cấu trong hồi ký ................. 63
2.4.2. Một số hình thức của tưởng tượng trong hồi ký .............................. 65
Chƣơng 3. DIỄN NGÔN VỀ SỰ THẬT TRONG HỒI KÝ SAU 1975 ..... 70
3.1. Tiếp cận hồi ký từ lý thuyết diễn ngôn ............................................... 70
3.1.1. Khái quát về lý thuyết diễn ngôn ..................................................... 70
3.1.2. Hồi ký dưới ảnh hưởng của hệ tư tưởng xã hội sau năm 1975 ....... 72
3.1.3. Sự hình thành và quan hệ qua lại giữa mã sự thật và mã nghệ
thuật trong ký nói chung và hồi ký nói riêng ............................................. 78
kết giữa mã sự thật và mã nghệ thuật trong hồi ký các nhà
văn ............................................................................................................. 81
3.2.1. Chủ thể diễn ngôn và cái nhìn tự biện mới mẻ về bản thân ............ 81
2.2.2. Hình tượng bạn bè nghệ sĩ dưới những góc nhìn khác nhau .......... 92
trội của mã sự thật trong hồi ký của các tướng lĩnh, chính trị
gia và các cựu binh cách mạng ................................................................ 100
3.3.1. Chân dung người anh hùng trong cuộc chiến và giữa đời thường102
3.3.2. Hình tượng người lính- người đồng đội trong chiến tranh ........... 108
3.3.3. Sự thể hiện của các chính trị gia ................................................... 111
trợ của mã nghệ thuật cho mã sự thật trong hồi ký của các tầng
lớp khác…………………………………………………………...…114
3.4.1. Hồi ký của các nhà báo. ............................................................... 115
3.4.2. Hồi ký của những người làm nghệ thuật ....................................... 118

Chƣơng 4. SỰ GIAO THOA THỂ LOẠI CỦA HỒI KÝ SAU 1975 ....... 122
4.1. Chất trữ tình trong hồi ký ................................................................. 122
4.1.1. Sự trỗi dậy của cái tôi nội cảm giữa cấu trúc hồi ức .................... 123
4.1.2. Sự xuất hiện của thiên nhiên giữa dòng chảy sự kiện ................... 126
4.2. Chất tiểu thuyết trong hồi ký ............................................................ 128
4.2.1. Kết cấu hiện đại ............................................................................. 130
4.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật có độ dư ........................................ 134
4.2.3. Kỹ thuật tự sự tạo tính đa thanh .................................................... 137
4.3. Một số biến thể của hồi ký................................................................ 140
4.3.1. Hồi ký-tự truyện ............................................................................. 141
4.3.2. Hồi ký- bút ký ................................................................................. 143


4.3.3. Hồi ký ẩn danh tiểu thuyết ............................................................. 144
KẾT LUẬN………………………………………………………………148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................................ 150
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 151

PHỤ LỤC ............................................................................................... 168


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Hồi ký xuất hiện tại phương Tây từ thời cổ đại Hy Lạp, ban đầu
mang dáng dấp tiểu sử văn học, ghi lại những sự kiện đáng nhớ của
những nhân vật có sức ảnh hưởng lớn với cộng đồng. Cùng với sự phát
triển của lịch sử, sự thay đổi của các giá trị văn hóa, xã hội, hồi ký ngày
càng trở thành một thể loại hữu dụng để trình bày ký ức, tâm tư của bản
thân, những đánh giá, nhìn nhận của các tầng lớp khác nhau về mọi sự

việc, hiện tượng trong đời sống.
Tại Việt Nam, vào những năm đầu thế kỷ XX, đặc biệt trong giai
đoạn 1930- 1945, hồi ký cũng bắt đầu xuất hiện với tác phẩm Ngục Kon
Tum (1938) của Lê Văn Hiến nhưng chưa được sáng tác rộng rãi như các
thể ký khác. Những năm 1945- 1975, tiếp nối tinh thần của thời đại, hồi
ký- đặc biệt là mảng hồi ký cách mạng đã phát triển rực rỡ với những tác
phẩm mang âm hưởng sử thi hào hùng. Sau năm 1975, hồi ký trở thành
một thể loại được yêu thích không kém truyện ngắn và tiểu thuyết. Là
một thể ký tự sự được phát triển từ những hồi ức cá nhân mang đầy tính
chủ quan nên hồi ký tương đối “cởi mở”, không bị câu thúc quá nghiêm
ngặt bởi những yêu cầu về nội dung và hình thức thể hiện. Mặt khác, với
công chúng hôm nay, nhu cầu tìm đến sự thật, xác minh những bí mật ẩn
giấu sau những “vỏ bọc” của lịch sử và con người đã ngày càng trở thành
nhu cầu bức thiết và thôi thúc họ tìm đến với hồi ký. Vì thế, không khó
hiểu khi bước vào thời kỳ đổi mới, văn đàn nước ta chứng kiến sự “bùng
nổ” chưa từng có của thể loại này với sự xuất hiện của rất nhiều tác giả
không chuyên ở đủ mọi nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính, địa vị xã hội…
Bên cạnh những cuốn hồi ký được viết ra bởi những nhà văn, nhà thơ,
nhà nghiên cứu nổi tiếng còn có những cuốn hồi ký của các nguyên thủ

1


quốc gia, các tướng lĩnh, nhà chính trị, nhà giáo, các diễn viên điện ảnh,
nhạc sĩ, các kiến trúc sư hay những người nông dân...
1.2. Theo nguồn thống kê từ Thư viện Quốc gia, số lượng hồi ký
được xuất bản từ năm 1986 đến năm 1996 ở nước ta là 296 cuốn (trong
đó có 36 cuốn hồi ký của tác giả nước ngoài, 260 cuốn của tác giả Việt
Nam). Con số này tăng lên gần gấp ba trong khoảng thời gian tiếp theo từ
1997 đến 2007 với tổng 630 cuốn (trong đó có 71 cuốn hồi ký nước

ngoài, 559 cuốn hồi ký của Việt Nam). Đỉnh cao là năm 2005 có đến 77
cuốn hồi ký được xuất bản. Cho đến thời điểm này, tuy chưa có khảo sát
đầy đủ cho số lượng hồi ký ra mắt độc giả nhưng chúng tôi có thể khẳng
định rằng đã có hàng nghìn đầu sách được công bố trên cả nước nhằm
đáp ứng nhu cầu to lớn của cả người viết và người đọc (chưa kể các tác
phẩm hồi ký được đăng tải trên mạng xã hội và đến với độc giả thế hệ @
theo phương thức đặc thù). Số lượng tác phẩm đồ sộ và có chất lượng
xuất hiện trong thời gian qua đủ để hồi ký tạo nên một cuộc tranh đua hấp
dẫn với các thể loại tự sự truyền thống như tiểu thuyết hay truyện ngắn.
Tuy nhiên, trong khi các thể loại khác nhận được sự quan tâm sâu sắc của
đông đảo nhà phê bình hay các nghiên cứu sinh chuyên ngành văn học thì
hồi ký chưa xuất hiện nhiều trong các công trình nghiên cứu lớn mang
tính bao quát. Sự xuất hiện rải rác các bài báo về hồi ký qua các giai đoạn
đã cung cấp bức tranh chung về mặt lý luận và thực tiễn sáng tác nhưng
chưa giải quyết được thấu đáo mọi vấn đề của thể loại. Sự chú ý của một
vài luận văn hay luận án dành cho hồi ký bước đầu mang đến cái nhìn hệ
thống, khái quát về sự phát triển của hồi ký nhưng lại chưa làm nổi bật
được những yếu tố cốt lõi của hồi ký. Nhìn lại lịch sử nghiên cứu vấn đề,
chúng tôi cho rằng, vẫn còn nhiều khoảng trống cần phải bổ sung để nhận
diện một cách xác đáng những đặc trưng cơ bản của thể loại này.
1.3. Hệ thống thể loại cùng sự vận động và biến đổi của nó là một
phương diện quan trọng bộc lộ quan niệm văn học và đặc điểm tư duy
2


nghệ thuật của mỗi thời đại. “Đằng sau cái mặt ngoài sặc sỡ và đầy tạp
âm ồn ào của tiến trình văn học, người ta không nhìn thấy vận mệnh to
lớn và cơ bản của văn học và ngôn ngữ, mà những nhân vật chính nơi đây
trước hết là các thể loại, còn trào lưu, trường phái chỉ là những nhân vật
hạng nhì và hạng ba” [10, 28]. Soi vào quan điểm trên, ta nhận thấy việc

xác lập những ranh giới cùng những đặc trưng nổi bật cho mỗi thể loại
trong tiến trình phát triển của văn học là vô cùng quan trọng và cần thiết.
Tuy nhiên, với hồi ký, sự phân định đường biên thể loại giữa nó và những
dạng thức tác phẩm khác quả thật không phải là việc dễ dàng, nhất là khi
trong khuynh hướng giao thoa và biến thể đã trở thành tất yếu của thời
đại mới, hồi ký ngày càng có sự thâm nhập rõ nét hơn của bút ký, tự
truyện, tiểu thuyết. Muốn trả lại vị trí cho hồi ký trong hệ thống thể loại,
cần nhận diện và khẳng định những giá trị cơ bản có liên đới trực tiếp đến
sự hình thành nội dung và nghệ thuật, tạo nên điểm khác biệt của hồi ký
so với các thể loại khác.
Tóm lại, sự hấp dẫn và lên ngôi của hồi ký cộng với những khoảng
trống trong lịch sử nghiên cứu đã thôi thúc chúng tôi đặt vấn đề tìm hiểu
về “Hồi ký trong văn học Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay nhìn từ
đặc trưng thể loại”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nhận diện, phân tích những ảnh hưởng của thời đại có
liên quan mật thiết đến việc hình thành những đặc trưng cơ bản của hồi
ký sau năm 1975, luận án một mặt chỉ ra những yếu tố cốt lõi tạo nên giá
trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm hồi ký giai đoạn này, mặt
khác phác họa khuynh hướng vận động của hồi ký trong tiến trình giao
thoa và biến thể đầy phong phú và phức tạp.

3


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thu thập, đối chiếu, hệ thống hóa các tài liệu nghiên cứu về ký
nói chung và hồi ký nói riêng nhằm cung cấp bức tranh tổng quan về hồi
ký trên tiến trình thể loại.

- Nhận diện và phân tích các yếu tố làm nên sự khác biệt của một
tác phẩm hồi ký được viết sau năm 1975 so với hồi ký trước năm 1975 và
một số kiểu loại gần gũi như tự truyện, bút ký hay nhật ký...
- Xác lập các đặc trưng cơ bản về nội dung và nghệ thuật của thể
loại hồi ký sau năm 1975 nhằm tìm ra những điểm ưu trội của thể loại đó
so với các thể loại khác.
- Phân tích một số dạng thức giao thoa thể loại và khuynh hướng
biến thể của hồi ký sau năm 1975.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đặc trưng thể loại của hồi ký trong văn học Việt Nam sau năm
1975 thể hiện qua những tác phẩm tiêu biểu nhất.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tuy hồi ký đã xuất hiện từ những năm 30, 40 của thế kỷ XX nhưng
chúng tôi cho rằng chỉ từ sau năm 1975, hồi ký mới đặc biệt nở rộ cả về
số lượng và chất lượng, trong đó có những hiện tượng sáng tác hết sức lý
thú, mang tính dự báo cho khuynh hướng vận động của thể loại. Vì lý do
này, luận án lựa chọn phạm vi nghiên cứu là các tác phẩm hồi ký xuất
hiện ở Việt Nam từ sau năm 1975 cho đến nay.
Vì số lượng tác phẩm quá lớn, chúng tôi chỉ tập trung vào những
tác phẩm đã được giới nghiên cứu cũng như độc giả công nhận và đánh
giá cao. Trong số này, luận án ưu tiên phần nhiều cho hồi ký của các nhà
văn vì đây là những sáng tác có sự dung hòa tốt nhất giữa tính nghệ thuật
và tính lịch sử. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng hướng đến những hồi ký tiêu
biểu do các tướng lĩnh cách mạng, các cựu chiến binh, chính trị gia và
4


nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội tham gia sáng tác (hoặc được hỗ
trợ chấp bút).

Tất nhiên, bên cạnh những hồi ký có giá trị tích cực, vẫn còn một
số hồi ký xuất hiện những chi tiết phản cảm, xâm phạm đời tư của các
nhân vật trong tác phẩm, đồng thời gây hoài nghi cho người đọc về lập
trường, đạo đức, động cơ của tác giả (trường hợp các hồi ký của Đào
Xuân Quý, Nguyễn Đăng Mạnh, Thương Tín...), nhiều hồi ký viết đơn
giản, dễ dãi, ít giá trị văn chương (trào lưu công bố hồi ký đang lan rộng
trên các trang mạng xã hội, các trang cá nhân...). Những hồi ký trên
không phải là đối tượng của luận án.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp các thao tác nghiên cứu như phân tích
tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê... và quy về một số phương pháp
nghiên cứu chính: phương pháp lịch sử- xã hội, phương pháp tiếp cận liên
ngành, phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp phê bình tiểu sử.
- Phương pháp lịch sử- xã hội: nhằm tìm ra những đặc điểm của
hoàn cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam sau năm 1975 có tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển của hồi ký, đồng thời đặt hồi ký trong các trục nghiên
cứu khác nhau (tiến trình văn học dân tộc, hệ hình phát triển của thể
loại…) để đánh giá chính xác, khoa học những đặc điểm, đóng góp của
thể tài này.
- Phương pháp tiếp cận liên ngành: chúng tôi sẽ nghiên cứu đặc
trưng của hồi ký không chỉ bằng các tri thức văn học mà còn vận dụng
kết hợp với các chuyên ngành khoa học gần gũi khác như lý thuyết diễn
ngôn và tâm lý học sáng tạo. Lý thuyết diễn ngôn cung cấp cơ sở để phân
tích quá trình tái hiện sự thật trong hồi ký qua mối liên hệ ràng buộc giữa
mã sự thật và mã nghệ thuật. Còn tâm lý học sáng tạo đưa ra những công
cụ “chìa khóa” giúp phân tích vai trò của ký ức trong hồi ký với những
giai đoạn cụ thể và tác động chặt chẽ lẫn nhau.
5



- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: học hỏi từ lý thuyết về thi
pháp của phương Tây, hướng nghiên cứu thi pháp học đã được sử dụng ở
hầu hết các thể loại văn học. Tương tự như vậy, khi nghiên cứu về hồi ký,
luận án cũng vận dụng phương pháp này để nhận diện, phân tích “hệ
thống các phương thức, phương tiện, thủ pháp biểu hiện đời sống bằng
hình tượng nghệ thuật” [51, 304].
- Phương pháp phê bình tiểu sử: chú trọng vào tiểu sử của người
viết để tìm ra cơ sở lý giải cho những quan điểm sáng tác, những hình
tượng nghệ thuật xuất hiện trong tác phẩm. Phương pháp này có nhiều
điểm phù hợp để tìm hiểu một thể tài “đậm tính chủ quan” và mang dấu
ấn cá nhân như hồi ký.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án này là công trình đầu tiên nghiên cứu về hồi ký ở các
mảng đề tài khác nhau, bao gồm cả tác phẩm của những tác giả không
chuyên nhưng đã được giới phê bình và độc giả ghi nhận. Hồi ký được
xem xét như một đối tượng của lý luận văn học với các đặc trưng thể loại
nổi bật, không trộn lẫn với bất kỳ thể ký nào khác cũng như hoàn toàn
phân biệt với những thể loại cũng viết về cái tôi cá nhân. Kết quả luận án
sẽ giúp bổ sung lý luận phê bình về thể loại, cung cấp nguồn tư liệu hữu
ích cho việc giảng dạy các môn Lí luận văn học và Văn học Việt Nam tại
các trường đại học, cao đẳng hiện nay.
6. Cấu trúc luận án
Luận án gồm 5 phần: phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận,
các công trình nghiên cứu của tác giả và thư mục tham khảo. Nội dung
chính của luận án được triển khai thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Quá trình phục hiện ký ức trong hồi ký sau năm 1975
Chương 3: Diễn ngôn về sự thật trong hồi ký sau năm 1975
Chương 4: Sự giao thoa thể loại của hồi ký sau năm 1975
6



CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Một số vấn đề lý luận về ký
1.1.1. Nguồn gốc của ký
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Ký ra đời rất sớm trong lịch sử
văn học của nhân loại. Nhưng phải đến thế kỷ XVII, đặc biệt là từ thế kỉ
XIX, khi đời sống lịch sử của các dân tộc ngày càng phát triển theo
hướng tăng tốc, khi kĩ nghệ in ấn và báo chí phát triển, văn học mở cửa,
xé rào để thâm nhập vào các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác, nhà văn
ngày càng có ý thức tham gia trực tiếp vào những cuộc đấu tranh xã hội,
ký mới thực sự phát triển mạnh mẽ” [52, 163]. Nhưng trong cuốn Lý luận
văn học, La Khắc Hòa lại cho rằng ký là một thể loại xuất hiện muộn so
với văn thơ cách luật bởi lẽ “lịch sử của nó gắn liền với lịch sử phát triển
của văn học bác học”. Tác giả cũng nhấn mạnh: “Ở châu Âu, phải đến thế
kỷ XVIII, người ta mới thấy ký văn học xuất hiện nhiều trên một số tạp
chí trào phúng (…) và đạt được sự kết tinh nghệ thuật trong sáng tác của
các nhà khai sáng..” [148, 356].
Khi truy nguyên nguồn gốc của ký ở các quốc gia có sự phát triển
lâu đời và có nền văn học phát triển mạnh mẽ, nhiều nhà nghiên cứu đã
nhận ra sự manh nha của ký trong những tác phẩm tiêu biểu. Như “Ở
Trung Quốc, ký xuất hiện từ trước đời Hán. Đến các đời Đường, Tống,
Minh, Thanh, ký ngày càng phát triển mạnh mẽ và được ý thức về đặc
điểm thể loại” [148, 356] hay “ký là thể loại không có mặt trong Văn
tuyển của Tiêu Thống, cũng không được bàn đến trong Văn tâm điêu long
của Lưu Hiệp, mặc dù chữ ký đã thấy có trong một số thiên từ Hán trở về
trước. Ký bắt đầu xuất hiện trong nhiều trước tác của các tác giả đời
Đường, như để ghi việc xen với lời bình…” [147, 324]. Ở phương Tây,
ký đã phát triển từ khá sớm với các tác phẩm tiêu biểu: Những bức tranh

7


Pari- Mecsie, Tự thuật- Rousseau, Hồi ức từ bên kia nấm mồChateaubriand… Các nhà văn Nga cũng có nhiều tác phẩm ký xuất sắc
như Hành trình từ Petecbua đến Moskva của Radisev, Những xó xỉnh
Pêtecbua của Nhecrasov, Những người Côdắc vùng Uran của Dan… Tại
Việt Nam, nguồn cội xa xưa của ký là các tác phẩm bi ký, minh ký, tạp
ký, tục biên, liệt truyệt, thực lục… trong văn học trung đại như Công dư
tiệp ký (Vũ Phương Đề), Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác), Vũ trung tùy
bút (Phạm Đình Hổ)… Tuy lúc đó chưa có ý thức về ký như một thể loại
văn học song trong các lời bạt, tự hay trong các công trình mang tính chất
khảo cứu của thời đại, người ta vẫn có thể tìm thấy quan niệm về ký khá
nhất quán.
1.1.2. Đặc trưng của ký
Trước hết, xét về mặt từ nguyên, các thể ký, lục, chí đều có nghĩa là
“ghi chép”. Chính vì thế, các học giả thời trung đại đều nhấn mạnh đến
chức năng ghi chép như là một nhiệm vụ quan trọng nhất của thể loại
này. Tựa Trung Hưng thực lục, Hồ Sĩ Dương viết: “Sách thực lục được
biên soạn nhằm chép việc, nêu công lao, tỏ rõ chính thống và ghi rõ dòng
dõi vua hiền” [142, 60]. Trong Thượng kinh ký sự, Lê Hữu Trác cũng bày
tỏ: “Nhân việc khi nhàn rỗi, uống rượu, gảy đàn, chép lại đầu đuôi việc
cũ để nhớ lại khiến con cháu ở đời biết tùy duyên, thủ phận, biết tri túc tri
chỉ…” [171, 175]. Mặt khác, các học giả cũng khẳng định, những việc
được ghi chép trong ký, lục, chí là sự thực mắt thấy tai nghe. Trong lời
tựa của Lam Sơn thực lục và Trung Hưng thực lục, Hồ Sĩ Dương nhấn
mạnh hai trước tác của ông “không nói chuyện hoang đường như Lĩnh
Nam chích quái, không chép những điều quái loạn như Việt điện u linh,
chỉ thêm vào bớt đi cho đúng sự thực để rõ chính thống và làm sáng tỏ đế
nghiệp mà thôi” [142, 62]. Tựa Công dư tiệp ký, Vũ Phương Đề viết:
“Phủ bình nhật thích nói chuyện nên khi việc quan rảnh rỗi thường ghi

chép lại những điều bấy lâu nay mình nghe được, cùng những chuyện biết
8


được từ các nhà bác học đương thời. Tất cả đều căn cứ vào sự thực mà
viết thành bài…” [40, 11]. Như vậy, từ rất sớm, các học giả nước ta đã
xác định nhiệm vụ đồng thời cũng là đặc trưng trọng tâm của ký là tái
hiện và ghi chép sự thật với sự tôn trọng tối đa.
Những năm 1960 đã diễn cuộc tranh luận khá quyết liệt trên văn
đàn Việt Nam về vị trí, chức năng, đặc trưng, sự thật và hư cấu trong ký.
Các ý kiến đều thống nhất thừa nhận ký là thể loại ghi chép người thật
việc thật, tranh cãi chủ yếu xoay quanh bàn luận về mức độ và vai trò của
hư cấu trong ký. Một bên là Trần Cư, Nguyễn Kim Hoa, Tầm Dương…
khẳng định ký không được quyền hư cấu dưới bất cứ hình thức nào. Bên
kia là Chế Lan Viên, Nguyễn Minh Nguyên, Châu Giang… cho rằng ký
có thể hư cấu trong giới hạn cho phép. Trong công trình Cơ sở lý luận
văn học năm 1973 của các tác giả Nguyễn Xuân Nam, Trần Văn Bính, ký
được xác định như “một thể loại cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong việc
phản ánh hiện thực ở cái thế trực tiếp nhất”; các tác giả khi viết ký cần
“tôn trọng tính xác thực của người và việc trong tác phẩm”; “hư cấu
không được sử dụng tuỳ tiện ảnh hưởng đến tính xác thực của nội dung
mà trái lại phải làm tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật cho tác
phẩm” [117, 42]. Năm 1980, trong công trình Ký viết về chiến tranh cách
mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hà Minh Đức lại khẳng định: “Chức
năng của ký không chỉ nhằm vào miêu tả cái có thật trong cuộc sống. Ký
cảm nhận nhạy bén với những sự kiện đang phát triển trên dòng thời sự,
nên có khả năng phát hiện hướng vận động của hiện thực, những mâu
thuẫn, những vấn đề nảy sinh và đoán định hiệu quả đạt tới” [41,7]. Đặt
trong mối tương quan so sánh với các loại ký ngoài văn học, tác giả đưa
ra định nghĩa: “Ký văn học chủ yếu là hình thức ghi chép linh hoạt trong

văn xuôi về những sự kiện và con người có thật trong đời sống với
nguyên tắc tôn trọng tính xác thực và chú ý đến tính thời sự của đối tượng
miêu tả” [41,45].
9


Nhìn chung, các tranh luận trong giai đoạn 1945-1986 đều xoay
quanh vấn đề: ký được phép hay không được phép hư cấu? Đây cũng là
giai đoạn xác lập hệ thống lý thuyết về ký. Lần đầu tiên, các thể tài có
chức năng và hình thức ghi chép sự thật như ký sự, phóng sự, bút ký…
được tập hợp trong một thể loại văn học có tên là ký.
Sau năm 1986, sự ra đời của các bộ giáo trình lí luận văn học gắn
với các cơ sở đào tạo sinh viên Ngữ Văn, Báo chí đã tiếp tục xác lập hệ
thống lý thuyết về ký. Lí luận văn học do Trần Đình Sử, La Khắc Hòa,
Phùng Ngọc Kiếm biên soạn đã cho rằng ký là một loại hình văn học
trung gian với những đặc trưng như: ký là sự can dự trực tiếp của nghệ
thuật vào đời sống xã hội, ký có cách xử lý riêng về khoảng cách giữa
thời gian sự kiện và thời gian trần thuật, ký kết hợp linh hoạt các phương
thức tự sự, trữ tình, nghị luận với những thao tác tư duy khoa học, đặc
trưng của ký là trần thuật người thật việc thật nên người trần thuật trong
ký thường xưng tôi, hiện diện với tư cách là nhân chứng, ký có thể hư cấu
trong phạm vi nhất định... Từ điển thuật ngữ văn học nhận định: “Nhưng
khác với truyện ngắn, truyện vừa, đặc biệt là tiểu thuyết, ký có quan điểm
thể loại là tôn trọng sự thật khách quan của đời sống, không hư cấu. Nhà
văn viết ký luôn chú ý đảm bảo cho tính xác thực của hiện thực đời sống
được phản ánh trong tác phẩm. Sự việc và con người trong ký phải xác
thực hoàn toàn, có địa chỉ hẳn hoi” [52, 163].
Tiếp tục giải quyết những tranh luận về vấn đề hư cấu trong ký, tác
giả Hoàng Minh Lường trong Giáo trình lý luận văn học (dành cho sinh
viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền) đã có những kiến giải khá thú vị

và xác đáng: “Người viết ký cũng có thể viết về sự kiện nhờ nghe kể lại,
thậm chí nhờ đọc nguồn tư liệu tĩnh… Những khó khăn của quá trình xử
lý, tiếp cận tư liệu như trên chính là nguồn gốc của sự sáng tạo và hư cấu.
Hư cấu và sáng tạo là một khả năng có thể trong quá trình sáng tạo các
tác phẩm ký” [104, 256]. Chúng tôi nhận thấy, không cần đợi đến khi văn
10


học được “cởi trói tư duy” ở thời kỳ đổi mới, tạo tiền đề cho những tác
phẩm ký thể hiện tư tưởng nội dung và nghệ thuật, mà ngay ở giai đoạn
đầu của văn học cổ điển, thực tiễn sáng tác đã xuất hiện nhiều tác phẩm
ký với đầy ắp những yếu tố hoang đường, kì ảo (Vũ trung tuỳ bút- Phạm
Đình Hổ, Công dư tiệp ký- Vũ Phương Đề) hay những tưởng tượng, giả
định lý thú (Thượng kinh ký sự- Lê Hữu Trác).
Năm 2013, trong luận án của mình, tác giả Nguyễn Ngọc Minh đã
đặt vấn đề nhìn nhận ký như một loại hình diễn ngôn, giải quyết một loạt
vấn đề của thể loại dưới góc nhìn mới. Tất nhiên, chúng tôi không đồng ý
với tác giả khi coi ký là một “loại hình” (đứng từ góc độ lý luận, ký chỉ
nên được xem xét với tư cách một thể loại, đồng đẳng với các thể loại
khác như thơ, truyện, tiểu thuyết,…) nhưng chúng tôi khá tán thành với
cách tác giả bóc tách đặc trưng của ký. Trên quan điểm của lý thuyết diễn
ngôn, người viết đã phân tích giá trị của các tác phẩm ký qua các “mã” từ
mã thể loại đến mã tư tưởng hệ. Hướng nghiên cứu này gợi mở cho
chúng tôi thêm một cách tiếp cận mới về đặc trưng thể loại của ký.
Có thể nói, đặc trưng của ký không chỉ dừng lại ở đặc điểm viết về
người thật việc thật hay có sử dụng hư cấu hay không mà “phải là loại
văn xuôi tự sự trần thuật những người thật việc thật với những đặc điểm
riêng biệt trong mức độ và tính chất hư cấu, trong vai trò của người trần
thuật cùng mối liên hệ giữa nó với đặc điểm của kết cấu và cốt truyện…
thì mới làm nên đặc trưng của ký” [148, 280]. Bản thân tác giả Tô Hoài

cũng nhận xét: “Thể truyện đòi hỏi sáng tạo trên cơ sở tổng hợp thực tế.
Thể ký cần tổng hợp thực tế rồi sáng tạo thông qua những điều mắt thấy
tai nghe. Những đặc điểm có tính chất quy định thể loại ấy không hạn chế
sự sáng tạo. Hạn chế hay không chỉ do tư tưởng, vốn sống và sở trường,
tài năng mọi mặt của người viết mà thôi” [63, 22]. Ký, trong bản chất thể
loại, đã luôn dung nạp những sự sáng tạo, hư cấu của chủ thể trần thuật ở
một giới hạn nhất định.
11


Tóm lại, chúng tôi cho rằng ký là một thể loại văn học nằm trong
loại hình văn xuôi tự sự mang những đặc trưng nổi bật như sau:
- Tính chất nổi trội của ký là tính tự sự nhưng bên cạnh đó, tùy
thuộc vào đặc trưng của các tiểu loại/ thể tài, ký hoàn toàn có thể dung
nạp tính chất trữ tình, chính luận. Những yếu tố này chính là những suy
nghĩ, cảm xúc thật của người viết xuất phát từ quá trình tiếp xúc, cảm thụ
những sự kiện có thật nên trong ký luôn có sự kết hợp giữa tính khách
quan và tính chủ quan.
- Khác với nhân vật trong các tác phẩm truyện hay tiểu thuyết
thường là một nhân vật được làm mới hoàn toàn thì nhân vật của ký là do
nhà văn tái tạo theo nguyên hình một con người có thật. Trong ký, sự
trung thực đến mức tối đa với người thật việc thật là một tính tất yếu, một
nguyên tắc. Tuy nhiên, giữa những tư liệu bề bộn của đời sống, người
viết ký luôn phải biết chọn lọc các chi tiết sinh động và tiêu biểu nhất để
tái tạo thành các hình tượng nghệ thuật điển hình. Nhà văn không đưa hết
mọi chi tiết vào tác phẩm nhưng chi tiết nào đã được chọn đưa vào tác
phẩm thì phải đảm bảo độ chính xác cao.
- Phương pháp sáng tạo nghệ thuật và khái quát hiện thực của ký
không phải là “ghép những hiện tượng thuộc nhiều người, nhiều việc vào
một nhân vật, một hoàn cảnh, mà là phương pháp đúc những hiện tượng

thuộc riêng một người thật, việc thật thành một nhân vật, một hoàn cảnh
trung thực đến mức tối đa với người thật, việc thật nhà văn đã chọn”
[115, 564]. Trên cơ sở tôn trọng sự thật đến mức tối đa, không bịa đặt,
không bóp méo sự thật, ký có thể sử dụng linh hoạt các phong cách và bút
pháp khác nhau.
1.1.3. Phân loại ký
Đặt ký trong dòng chảy lịch đại, các nhà nghiên cứu nước ta chia ký
thành hai giai đoạn: ký cổ điển và ký hiện đại. Sự phân chia này không
chỉ dựa vào thời gian xuất hiện mà chủ ý nhấn mạnh đến đặc trưng nổi
12


trội của các tiểu loại ký qua các thời kỳ. Ký cổ điển thiên về ghi chuyện,
kể việc, các thủ pháp tạo lập văn bản khá đơn giản và thống nhất. Ký hiện
đại là những tác phẩm nghệ thuật phản ánh và tái hiện cuộc sống bằng
những hình vẻ đa dạng và phong phú...
Với ký cổ điển, các tác giả Trần Thị Kim Anh và Hoàng Hồng Cẩm
trong cuốn Các thể văn chữ Hán Việt Nam chỉ ra “Trước thế kỷ XV,
dường như chỉ bắt gặp những đoạn văn ngắn mang dáng dấp của ký trong
sử thi và văn bia, văn tự bạt, những tác phẩm ký hoàn chỉnh chỉ thực sự
xuất hiện từ thế kỷ XV trở về sau” [3, 104]. Đồng thời, căn cứ theo nội
dung và đặc điểm của các bài ký, các nhà nghiên cứu cũng đề xuất phân
chia thành 5 tiểu loại chính là truyện ký nhân vật, ký đình đài danh thắng,
du ký, ký sự, tạp ký. Trong khi đó, tác giả Trần Đình Sử cho rằng ký cổ
điển chủ yếu bao gồm hai loại là tạp ký và ký sự. Tạp ký là “ghi lại những
điều mắt thấy tai nghe”, “loại ghi chép có tính chất lịch sử về sông núi,
đền chùa, phương vực, phẩm vật, chuyện lạ…” [147, 328].
Với ký hiện đại, có nhiều cách phân chia được đề xuất. Trong cuốn
Lý luận văn học (tập 2) do Trần Đình Sử chủ biên, các tác giả đã phân
chia ký thành các thể: phóng sự với đặc trưng nổi bật là ghi chép “những

sự thật xác thực, dồi dào và nóng hổi”, có màu sắc chính luận; bút ký thể
hiện trực tiếp khuynh hướng cảm nghĩ của tác giả, do đó mang màu sắc
trữ tình, ký sự ghi chép hoàn chỉnh một sự kiện, phong trào, giai đoạn; hồi
ký có đặc trưng là chủ thể trần thuật phải là người trong cuộc, kể lại
những sự việc trong quá khứ. Tác giả Hà Minh Đức trong công trình Ký
viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội đề nghị phân
chia ký thành 3 nhóm cơ bản dựa vào phương thức phản ánh đặc thù, đó
là: ký tự sự, ký trữ tình và ký chính luận. Ký tự sự bao gồm phóng sự, ký
sự, du ký, hồi ký… với đặc tính nổi bật nhất là “tính chất mẫn cảm và
năng động trong việc phản ánh người thật việc thật, phản ánh sự kiện
đang trên dòng vận động” [41, 64]. Ký trữ tình bao gồm hệ thống thể loại
13


tiêu biểu như nhật ký, bút ký, tùy bút…,“tuy vận dụng nhiều yếu tố trữ
tình nhưng cơ sở của những cảm xúc suy nghĩ này vẫn phải dựa vào
người thật việc thật trong đời sống” [41, 65]. Ký chính luận gồm các thể
loại như bút ký chính luận, tạp văn, tiểu phẩm… “kết hợp tư duy hình
tượng và tư duy của hoạt động báo chí chính luận” [41, 65].
Những cách phân loại trên khá hợp lý và tất nhiên mọi sự phân chia
đều chỉ là tương đối. Tuy có sự khác biệt đôi chút về cơ sở, tiêu chí phân
loại nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất về tên gọi và
đặc trưng của các thể loại thuộc ký. Trên cơ sở những lý thuyết khái quát
này, chúng ta có thể vận dụng để phân tích và thẩm định những tác phẩm
hồi ký theo đúng định hướng thể loại.
1.2. Quan niệm về hồi ký
1.2.1. Khái niệm hồi ký
Hồi ký là một trong những thể ký tự sự điển hình, vừa mang đầy đủ
những đặc trưng cơ bản của thể loại, vừa có những nét khu biệt riêng,
không trộn lẫn. Trong tiếng Anh, thể loại này có tên gọi là “memoir”

(tiếng Pháp là “mémoire”) và được từ điển Wikipedia định nghĩa như sau:
Mỗi tác phẩm hồi ký là tập hợp những ký ức cá nhân về những
khoảnh khắc hay sự kiện, cả những điều công khai hoặc mang tính chất
riêng tư đã diễn ra trong cuộc sống của đối tượng đó. Hồi ký từng được
định nghĩa là một dạng của tiểu sử, lý lịch hoặc tự truyện từ cuối thế kỷ
XX nhưng thực chất những thể loại này có sự khác biệt về cấu trúc, thể
hiện chủ yếu ở tiêu điểm trần thuật. Tự truyện kể câu chuyện về cuộc đời
trong khi đó hồi ký thường kể một câu chuyện rút ra từ đời sống.
Có thể thấy, ban đầu, hồi ký chưa được định dạng như một thể loại
độc lập. Hồi ký trên thế giới đã từng được xếp vào dạng tự truyện hoặc
tiểu sử, còn ở Việt Nam thì từng được định danh là một biến thể của bút
ký như trong bài nghiên cứu sau của Nam Mộc: “Bút ký lại có nhiều thứ:
có bút ký phản ánh những người, việc và cảm nghĩ đang diễn ra từng
14


ngày theo một thứ tự thời gian (nhật ký), có thứ phản ánh người, việc và
cảm nghĩ diễn biến trong không gian theo bước đi của nhà văn (du ký); có
thứ bút ký phản ánh những hiện tượng đã qua theo trí nhớ của nhà văn
(hồi ký). Ở ta có một loại hồi ký đặc biệt do người trong cuộc hoặc người
chứng kiến kể lại cho nhà văn ghi mà có đồng chí gọi là “loại ghi chép”
hoặc “truyện ghi” [115, 549]. Trong cuốn “Viết hồi ký” xuất bản năm
1961, nhiều nhà nghiên cứu cũng khẳng định: “Theo một số tài liệu giáo
khoa thì hồi ký nằm trong thể chung của bút ký, nhằm ghi chép lại những
sự kiện đã xảy ra trong đời sống tương đối lâu. Thể “ký” nằm trong một
loại được gọi chung là tản văn có đặc điểm không xây dựng hình tượng
văn học bằng hư cấu. Người viết chỉ chọn lọc, cắt xếp lại một số chi tiết
của sự việc…” [126, 11].
Sự sắp xếp và định danh như trên có nhiều điểm bất cập bởi giữa bút
ký và hồi ký có sự phân biệt khá rõ về đặc trưng thể loại và cách tiếp cận,

phản ánh hiện thực. Các nhà nghiên cứu sau này đã đưa ra những định
nghĩa phù hợp hơn, trả lại cho hồi ký vị trí xứng đáng trong hệ thống thể
loại của ký. Theo nhà nghiên cứu Hà Minh Đức: “Hồi ký là những trang
ghi chép dựa trên sự hồi tưởng lại những sự việc đã lùi vào quá khứ. Viết
hồi ký là nhằm đáp ứng những yêu cầu của hiện tại bằng câu chuyện kể
lại về người thật việc thật ngày hôm qua, do chính người kể chứng kiến
hoặc tham gia vào sự việc. Viết hồi ký không riêng là công việc của hoạt
động văn học. Hồi ký phát triển trên nhiều lĩnh vực của đời sống nhằm kể
lại những hoạt động xã hội thu hút được sự quan tâm của người đọc mà
mọi người chưa có dịp biết đến” [41, 78]. Sách Từ điển văn học định
nghĩa: “Hồi ký còn được gọi là hồi ức (…). Lời văn của hồi ký cốt xác
đáng, trung thực, giàu suy nghĩ và cảm tưởng cá nhân” [60, 319]. Từ điển
thuật ngữ văn học cũng nêu: “hồi ký là một thể loại thuộc loại hình ký, kể
lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự
hoặc chứng kiến” [52, 152].
15


Tóm lại, chúng tôi cho rằng hồi ký là một thể loại dùng góc nhìn
chủ quan của người viết để phản ánh những sự thật khách quan đã xảy ra
trong quá khứ có liên hệ mật thiết đến hiện tại- những sự thật đã được
sàng lọc qua cơ chế lựa chọn của hồi ức. Như vậy, ngay trong sự chọn
lọc, sắp xếp, tái hiện các dữ kiện trong quá khứ, hồi ký đã thể hiện rõ tính
“truyện” trong “ký” một cách linh hoạt và đầy sức hút. Về phạm vi phản
ánh, hồi ký thường viết về những sự kiện đã qua của bản thân tác giả
nhưng cũng có thể tái hiện những biên độ sự thật rộng hơn về bạn bè, thời
đại mà tác giả là người trực tiếp tham gia hoặc tận mắt chứng kiến. Nói
như Đặng Thai Mai “Cuối cùng, hồi ký là gì? Là nhân chứng, là một
chuỗi trí nhớ, là ấn tượng, là tâm sự, là tôi nhưng vẫn là anh, là ngày xưa
nhưng cũng là ngày nay, ngày mai” [107, 17].

1.2.2. Đặc trưng của hồi ký
Dựa trên việc tổng hợp các nguồn tư liệu đã viết về hồi ký, có thể
chỉ ra một số đặc điểm của thể loại đã được các nhà nghiên cứu ghi nhận
như: sự nổi bật của cái tôi tác giả, sức hấp dẫn của sự thật được cất giữ
trong quá khứ, cơ chế tái hiện hiện thực chủ đạo trong hồi ký so với các
thể loại gần gũi… Tuy nhiên, những đặc điểm này còn hết sức sơ lược và
mang tính khái quát chung chung, đòi hỏi những phân tích cụ thể hơn,
sâu sắc hơn.
1.2.2.1. Trung tâm của hồi ký là cái tôi tác giả
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân từng nhấn
mạnh “Tác phẩm hồi ký là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về
những sự kiện trong quá khứ mà tác giả tham dự hoặc chứng kiến” [6,
155]. Từ điển văn học nêu: “Khác với sử gia và nhà viết tiểu thuyết,
người viết hồi ký chỉ tiếp nhận và ghi chép phần hiện thực mà tác giả
nhìn rõ hơn cả dựa trên cơ sở những ấn tượng và hồi ức riêng trực tiếp
của mình” [60, 152]. Cả hai quan điểm trên đều thể hiện vai trò vô cùng
quan trọng của hình tượng tác giả trong hồi ký. Là người trực tiếp tham
16


gia vào thế giới hình tượng nghệ thuật của tác phẩm, không những thế
còn nằm ở vị trí trung tâm; là người được tác giả ủy thác để cất lên tiếng
nói về sự thực, người kể chuyện này không chỉ miêu tả, kể chuyện mà
luôn bày tỏ thái độ, cảm xúc, đánh giá của mình trước câu chuyện mình
kể, khiến phát ngôn về sự thực trong hồi ký bao giờ cũng có một giọng
điệu riêng. Tính chủ quan trong những trang hồi ký xuất phát từ điểm
nhìn trần thuật của người kể chuyện xưng “tôi” khiến cho tác phẩm luôn
đứng ở ranh giới giữa sự trung thực và dối trá, sự chính xác và mập mờ,
sự tinh tế và sống sượng. Hơn bất kỳ một thể loại nào khác, hồi ký đòi hỏi
người viết luôn phải cân nhắc kĩ càng trước khi viết. Bên cạnh đó, từ lăng

kính chủ quan của người viết, hồi ký không chỉ nêu lên sự thực của một
cá nhân mà thông qua những câu chuyện đời muôn hình muôn vẻ, chân
dung những con người khác, chân dung thời đại, chân dung của cả một xã
hội có thể được khắc họa sống động, vừa khách quan lại vừa chân thực,
gần gũi. “Viết hồi ký là một cách tự đánh giá. Đây không phải là một dịp
để người viết tự giới thiệu và đề cao mình trước người đọc” [41, 79]. Rõ
ràng “ai cũng có quyền viết hồi ký. Song, những người sống bên lề xã
hội, ít tham gia trực tiếp vào nhiệm vụ đấu tranh xã hội, nghèo nàn về vốn
sống và tâm hồn, thường không có đủ tư cách và điều kiện để viết hồi ký”
[41, 78]. Hồi ký không kén người viết nhưng để có những trang hồi ký có
ảnh hưởng nhất định đến cộng đồng, tác giả của hồi ký ngoài tài năng viết
lách và tâm huyết trải lòng, cần một sự trải nghiệm cũng như lập trường
sống vững vàng và bản lĩnh thép để chịu trách nhiệm trước những sự thật
được công khai và phản ứng đáp trả của dư luận xã hội.
Theo quan điểm của chúng tôi, việc nhấn mạnh vai trò trung tâm
của cái tôi tác giả trong hồi ký là một hướng nghiên cứu đúng nhưng chưa
đủ. Bởi lẽ, không riêng gì hồi ký, những thể loại như nhật ký, bút ký, ký
sự, tản văn, tùy bút hay tự truyện cũng đều tiếp cận và khám phá hiện
thực từ điểm nhìn của một cái tôi chủ quan và luôn khát khao muốn thể
17


hiện bản thể của mình. Vì thế, muốn làm nổi bật đặc trưng thể loại của
hồi ký, việc phân tích hình tượng cái tôi tác giả cần phải gắn chặt với đặc
điểm của quá trình phục hiện ký ức và sự thể hiện của những diễn ngôn
về sự thật. Bên cạnh đó, trong rất nhiều hồi ký, đặc biệt là dòng hồi ký
cách mạng, nhân vật trung tâm của hồi ký hoàn toàn không trùng khít với
người ghi chép, người kể lại câu chuyện (xuất hiện hiện tượng tác giả
“kép”) nên việc nghiên cứu về “cái tôi tác giả” có lẽ phải chuyển sang đối
tượng là “chủ thể trần thuật” mới bao quát được hết phạm vi tác phẩm.

1.2.2.2. Cốt lõi của hồi ký là giải mã và công bố sự thật
Cũng như các thể loại khác của ký, chất liệu cốt lõi để tạo nên hồi
ký là “sự thật” nhưng không phải là bất kỳ sự thật nào trong đời sống mà
phải là những sự thật có tính đại diện, có độ hấp dẫn nhất định với sự tò
mò của độc giả. Điều này lý giải nguyên nhân vì sao hồi ký của những
người nổi tiếng thường sẽ thu hút được đông đảo bạn đọc hơn hẳn những
người bình thường. Và có một thời gian dài, hồi ký dường như chỉ là “địa
hạt” của những tên tuổi lớn. Đúng như nhà văn Bùi Ngọc Tấn đã chiêm
nghiệm: “Thời ấy viết hồi ký phải có hai điều kiện: Một là phải già (…),
Hai, phải là những cây đa cây đề (…)” [151, 5]. Mặt khác, ngay trong vấn
đề “sự thật” được tái hiện trong hồi ký cũng cần phải được nhìn nhận một
cách thấu đáo. Bởi lẽ, như nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân đã nhận
định: “trong hồi ký, có hai loại sự thật: một là sự thật khách quan và một
là sự thật chủ quan. Sự thật khách quan là những sự thật của thiên nhiên
và xã hội diễn ra thật sự đúng như chúng ta chứng kiến. Còn sự thật chủ
quan lại là những sự thật phụ thuộc vào suy nghĩ và hành động chủ quan
của con người mà chúng diễn ra nhiều khi không như chúng ta thấy” [27].
Công việc viết hồi ký không giản đơn chỉ là nêu ra sự thật, tác giả hồi ký
cần phải biết chọn lọc, sắp xếp và cân đối giữa các kiểu sự thật trên. Nói
như Trecnusevski: “Đối tượng của ký cũng như của văn học nói chung
chẳng những là mối quan hệ giữa con người với những vật và sinh linh
18


×