Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể và ý nghĩa phương pháp luận của nó trong nghiên cứu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

NGUYỄN QUỲNH HƢƠNG

PHƢƠNG PHÁP ĐI TỪ TRỪU TƢỢNG ĐẾN CỤ THỂ VÀ
Ý NGHĨA PHƢƠNG PHÁP LUẬN CỦA NÓ TRONG
NGHIÊN CỨU KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------

NGUYỄN QUỲNH HƢƠNG

PHƢƠNG PHÁP ĐI TỪ TRỪU TƢỢNG ĐẾN CỤ THỂ VÀ Ý NGHĨA PHƢƠNG PHÁP
LUẬN CỦA NÓ TRONG NGHIÊN CỨU KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60 22 03 01


LUẬN VĂN THẠC SỸ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thúy Vân

HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ về đề tài “Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể và
ý nghĩa phương pháp luận của nó trong nghiên cứu kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” là kết quả của quá trình học
tập và nghiên cứu một cách nghiêm túc của tác giả trong chương trình cao học
Triết học tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Hội đồng khoa học, Hội đồng đào tạo thạc sĩ chuyên ngành Triết học của
Khoa Triết học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cùng quý
thầy cô khoa Triết học đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thúy
Vân – người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và đóng góp những ý kiến quý
báu cho luận văn cũng như truyền đạt kiến thức và đào tạo điều kiện tốt nhất
cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu, thực hiện luận văn.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu, mặc dù có nhiều cố gắng trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu song luận văn không tránh khỏi
những sai sót, kính mong được sự góp ý của các thầy cô để luận văn được
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả


Nguyễn Quỳnh Hƣơng


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………….. 1
1.

Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1

2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu.......................................................................... 2

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 10

4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 10

5.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................... 11

6.

Ý nghĩa của luận văn........................................................................................... 11

7.


Kết cấu của luận văn ........................................................................................... 11

B.NỘI DUNG…………………………………………………………………………….12
CHƢƠNG 1. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CHO SỰ RA ĐỜI PHƢƠNG PHÁP ĐI TỪ TRỪU
TƢỢNG ĐẾN CỤ THỂ………………………………………………………………….12
1.1. Quan niệm của các nhà kinh tế học tƣ sản cổ điển về “điểm khởi đầu nghiên
cứu”……………………………………………………………………………………..12
1.2. Quan niệm của G.W.F. Hêghen về quá trình nhận thức đi từ trừu tƣợng đến cụ
thể……………………………………………………………………………………….17
1.3. Việc xác định điểm khởi đầu nghiên cứu trong một số ngành khoa học cụ thể.27
CHƢƠNG 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA PHƢƠNG PHÁP ĐI TỪ TRỪU TƢỢNG
ĐẾN CỤ THỂ TRONG TRIẾT HỌC MÁC XÍT……………………………..……….32
2.1. Khái niệm Cái cụ thể và Cái trừu tƣợng ............................................................... 32
2.1.1. Khái niệm Cái cụ thể ......................................................................................... 32
2.1.2. Khái niệm Cái trừu tượng ................................................................................. 36
2.2. Nội dung phƣơng pháp đi từ trừu tƣợng đến cụ thể............................................ 41
2.2.1. Quá trình đi từ cụ thể đến trừu tượng .............................................................. 41
2.2.2. Quá trình tiến từ trừu tượng đến cụ thể ........................................................... 45
Chƣơng 3. Ý NGHĨA PHƢƠNG PHÁP LUẬN CỦA PHƢƠNG PHÁP ĐI TỪ TRỪU
TƢỢNG ĐẾN CỤ THỂ TRONG NGHIÊN CỨU KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH
HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY……………………………59
3.1. Kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ............. 59
3.2. Vận dụng phƣơng pháp đi từ trừu tƣợng đến cụ thể trong nghiên cứu nền kinh
tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay .............................. 72
3.2.1. Xác định điểm khởi đầu trong nghiên cứu nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ....................................................................... 72


3.2.2. Tính chỉnh thể của nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa Việt

Nam – cái cụ thể chưa được nhận thức ..................................................................... 89
C. KẾT LUẬN………………………………………………………………...………….96
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………....98


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phương pháp luận biện chứng duy vật là phương pháp tư duy khoa học,
giúp con người có thể nhận thức và hành động đúng, phù hợp với quy luật,
mang lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn. Mặc dù vậy, việc hiểu đúng và
đầy đủnội dung cũng như cách thức vận dụng các nguyên tắc phương pháp
luận này trong thực tiễn không phải lúc nào cũng được quán triệt. Mặt khác,
những khái quát lý luận của các phương pháp này cũng bộc lộ những điểm
còn hạn chế, cần bổ sung, hoàn thiện thêm trước sự thay đổi nhanh chóng và
phức tạp của hiện thực mà nó phản ánh.
Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể là một trong những phương
pháp quan trọng của phép biện chứng duy vật. Phương pháp này giúp cho
hoạt động nhận thức truy tìm bản chất của đối tượng nghiên cứu, lần theo đó
để có thể hiểu được toàn bộ hiện thực sinh động trong tính cụ thể của nó, từ
đó có những giải pháp để hoạt động thực tiễn một cách hiệu quả.
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và phát triển nển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh đổi mới và hội nhập. Đây
lànền kinh tế mở, phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế; thực chất là
kiểu tổ chức nền kinh tế vừa chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc, quy luật của
kinh tế thị trường, vừa bị chi phối bởi các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã
hội và các yếu tố đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang những đặc trưng
chung của kinh tế thị trường, vừa có tính đặc thù - định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Những biến động phức tạp trong thực tiễn phát triển kinh tế ở Việt Nam

hiện nay đang rất cần những định hướng về mặt phương pháp luận biện chứng
để nhận thức đúng đắn, từ đó hoạt động thực tiễn hiệu quả. Chẳng hạn, điểm
khởi đầu trong nghiên cứu kinh tế thị trường Việt Nam bắt đầu từ đâu? Bản

1


chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Tính quy
luật của quá trình phát triển kinh tế.v.v..
Thực tế đó, đặt ra yêu cầu của việc nhất thiết phải trở lại những vấn đề
phương pháp luận cơ bản của triết học, hệ thống hóa một cách căn bản và
toàn diện, đồng thời hoàn thiện những nội dung lý luận còn thiếu hụt của nó,
đề xuất cách thức áp dụng những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản này
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn giúp chúng ta nhận thức đúng đắn và
hành động hiệu quả, đạt được mục đích đặt ra trong phát triển kinh tế ở nước
ta hiện nay.
Vì thế, việc tìm hiểu phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể được khái
quát trong triết học Mác xít, từ đó chỉ ra ý nghĩa của nó trong nghiên cứu nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là hết sức cần thiết. Chỉ có xác định
đúng điểm khởi đầu trong nghiên cứu hiện tượng này, chúng ta mới thấy ra
đặc trưng căn bản nhất trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
là gì? Tìm được những nhân tố, yếu tố ảnh hưởng, tác động đến sự phát
triển kinh tế ở nước ta, chỉ ra tính quy luật trong phát triển kinh tế phù hợp
với tình hình thực tiễn trong nước, với tình hình khu vực và thế giới. Với tính
cấp thiết của vần đề như vậy, nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Phương pháp
đi từ trừu tượng đến cụ thể và ý nghĩa phương pháp luận của nó trong nghiên
cứu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm
công trình nghiên cứu.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Những nghiên cứu về phương pháp luận biện chứng duy vật nói

chung và phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể nói riêng
Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể rất ít được nghiên cứu một cách
độc lập, phần lớn nó được nghiên cứu chung trong nội dung của phương pháp
luận biện chứng duy vật. Những vấn đề về phương pháp luận biện chứng duy
vật được các nhà kinh điển Mác- Lênin đặt ra và nghiên cứu từ những năm 40
của thế kỷ XIX, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc thế giới quan duy vật và phép
2


biện chứng của các nhà triết học trước đó. Hệ thống tư tưởng này sau đó được
Lênin tiếp tục phát triển và hoàn thiện, được thể hiện trong một số công trình
tiêu biểu của các nhà kinh điển. Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể có
một vị trí quan trọng trong việc tái tạo lại toàn bộ biện chứng của đối tượng
nhận thức nên rất được giới nghiên cứu triết học quan tâm. Đây được xem
như một phương pháp không thể bỏ qua khi nghiên cứu phương pháp biện
chứng duy vật.
Khi nghiên cứu vấn đề này, không thể bỏ qua Bộ Tư bản của C.Mác–
đây là hình mẫu lý tưởng của sự áp dụng thành công phương pháp đi từ trừu
tượng đến cụ thể và phương pháp thống nhất lôgic - lịch sử vào việc phát hiện
bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Có thể thấy, Bộ Tư bản
đánh dấu sự hoàn thiện quan niệm của Mác về phương pháp “đi từ trừu tượng
đến cụ thể” mà trước đó ông đã thể hiện nó trong tác phẩm Lời nói đầu cuốn
Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị. Theo đó, những nghiên cứu
chuyên sâu về phương pháp này của Mác cũng đều dựa trên sự phân tích một
cách khoa học và cặn kẽ từ Bộ Tư bản chứ không phải là những công trình
phái sinh từ nó.
Những năm 60, 70 của thế kỷ XX, những nội dung của phép biện chứng
duy vật được triển khai nghiên cứu sâu sắc và cụ thể hơn để từ đó rút ra vấn
đề phương pháp luận trong giải quyết một số vấn đề xã hội tiếp tục được các
nhà nghiên cứu mác xít mà chủ yếu là các tác giả ở Liên Xô cũ nghiên cứu

như Rôdentan M; Đ.I. RôDenBe; N.A. SaGôLốp; E.V.Ilencôv; Viện hàn lâm
khoa học Liên xô .v.v...Ví dụ, để có một cái nhìn tổng thể về phép biện chứng
trong triết học phương Tây trước Mác, thì bộ sách Lịch sử phép biện chứng,
gồm 6 tập của Viện Triết học Liên Xô trước đây biên soạn cũng là một tài liệu
rất hữu ích [Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, Viện Triết học (1998), Lịch sử
phép biện chứng, phép biện chứng cổ đại, tập 1. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội]. Trong bộ Lịch sử phép biện chứng nêu trên đáng chú ý là tập 4 với tiêu
đề Lịch sử phép biện chứng Mác xít từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác đến giai
3


đoạn Lênin do nhà xuất bản Tiến bộ Matxcơva ấn hành năm 1988 được in
thành một quyển riêng. Trong tài liệu này các tác giả đã phân tích chi tiết
phương pháp của Mác trong “Tư bản”. Đi theo hướng này còn có một số bút
ký trong cuốn Lôgic học biện chứng của E.V.Ilencovkhi phân tích về sự hình
thành đối tượng lôgic học (chữ L viết hoa) đã đề cập đến những quan niệm
khác nhau của các nhà triết học trong lịch sử về tư duy, Lôgic học và phép
biện chứng, phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, qua đó cung cấp những
gợi mở đầu tiên cho học viên giải quyết vấn đề này. Những bút ký của E.V.
Ilencov viết về lôgic của bộ “Tư bản” và một số khái niệm chủ yếu như “cái
trừu tượng”, “cái cụ thể”, “cái lôgic”, “cái lịch sử”, “cái phổ biến”, “mâu
thuẫn”… thực chất là sự phân tích chuỗi chuyển hóa của các khái niệm trong
“Tư bản” của Mác, từ việc phân tích khái niê ̣m kh ởi điểm ban đầu là “hàng
hóa” cho đến những khái niệm kế tiếp làm nên một hệ thống các khái niệm cơ
bản phản ánh sự vận động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ngoài ra còn có
“Phương pháp nhận thức biện chứng” của A.P. Steptulin, “Những vấn đề về
phép biện chứng trong Bộ Tư bản của Mác” của M.M. Rodentan, cuốn “Lịch
sử phép biện chứng mác xít” từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác đến giai đoạn
Lênin của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Tập trung nhất, ta kể đến hai tác
phẩm: “Lôgic học biện chứng” của I.V.Ilencốp (bản dịch của Nguyễn Anh

Tuấn, năm 2003, nxb Văn hóa Thông tin) và “Phép biện chứng trong Bộ Tư
bản của Mác” của M.M. Rodentan (bản dịch xuất bản năm 1962, nxb Sự thật).
Nếu như M.M.Rodentan tập trung vào luận điểm: điểm khởi đầu trong nhận
thức là “cái cụ thể cảm tính” chứ không phải “cái trừu tượng” thì I.V.Ilencốp
tập trung chứng minh rằng: mạch đi từ trừu tượng đến cụ thể không chỉ có
trong nhận thức mà còn có trong hiện thực. Từ góc độ nguyên tắc đi từ trừu
tượng đến cụ thể, tác giả Mancốpxky còn xem xét mối tương quan giữa phạm
trù khởi đầu với phạm tù cuối cùng. Chúng ta có thể khảo sát thêm vấn đề này
trong các nghiên cứu của nhiều học giả Nga khác, tập trung trong cuốn “Lịch

4


sử phép biện chứng mácxít, Từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác đến giai đoạn
Lênin” [1986, Nxb Tiến bộ, Matxcơva].
Vấn đề phương pháp luận, từ những năm giữa thế kỷ XX, bắt đầu được
xem xét ở khía cạnh của năng lực tư duy tổng hợp, đặc biệt là tư duy phức
hợp, ở đó những vấn đề về phương pháp như là công cụ quan trọng để có
được sự khái quát đúng đắn trong nhận thức. Vấn đề này được Edgar Morin
với những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề phương pháp với tư cách là cách
tiếp cận phức hợp giúp con người nắm bắt được khả năng tư duy phức hợp
như một phương pháp luận đúng đắn để nhận thức thế giới. Mặc dù không
tiếp cận vấn đề phương pháp ở nghĩa duy vật hay duy tâm, nhưng những luận
giải của Edgar Morin về sự cần vượt qua những nguyên tắc phương pháp luận
như là cái có sẵn, áp đặt từ bên ngoài để vươn tới những vấn đề phương pháp
như là sự sáng tạo của chính nhận thức nảy sinh đồng thời trong quá trình
phản ánh về hiện thực là những gợi mở quan trọng về mục đích và tính hữu
dụng của phương pháp. Các tác giả Helga Nowotny, Peter Scott, Michael
Gibbons lại đưa ra cách đặt vấn đề hoàn toàn mới mẻ khi cho rằng năng lực
nhận thức của con người đứng trước những hiện thực phức tạp, hỗn độn và

bất định thì việc xác lập những nguyên tắc tư duy như là một phương thức ở
tầng khái quát nhất (phương pháp luận) rất cần được điều chỉnh cho phù hợp
với hiện thực đã thay đổi. Tác giả D.Q. Mcinerny lại nhấn mạnh đến những
nguyên tắc của tư duy lôgic như là cơ sở của phương pháp tư duy đúng đắn
trong hoạt động nhận thức.
Lúc này, những nghiên cứu về phương pháp luận biện chứng duy vật lại
được đặt vấn đề trở lại, nhưng ở góc độ của những người không thuộc trường
phái mác xít, có thể kể đến Edwrd Mcnall Burns; Gail M.tresdey, Karsten j.
struhl, Richard E. Olsen , đã nghiên cứu những vấn đề của chủ nghĩa duy vật
và phép biện chứng như là những nguyên tắc phương pháp luận của những
người theo quan điểm duy vật biện chứng và tầm ảnh hưởng của những
phương pháp này trong lịch sử trên một số lĩnh vực nhất định. Đặc biệt, tác
5


giả Estelio Iglesias cũng có hẳn những luận giải thuyết phục về chủ nghĩa duy
vật biện chứng với tư cách là phương pháp luận để Mác nghiên cứu và xây
dựng chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết kinh tế của mình. Tác giả A.
Spirkin đã rất công phu khi đi sâu phân tích bản chất của triết học Mác-Lênin;
mệnh đề trung tâm và các vấn đề của nó, vai trò lịch sử của triết học Mác Lênin và ý nghĩa trong thế giới phức tạp ngày nay. Tác giả khẳng định tầm
quan trọng của triết học Mác-Lênin ngày càng cao hơn nữa trong bối cảnh
hiện nay khi mà sự tồn tại của con người, của nhân loại như một toàn thể, của
tất cả các nền văn minh đang bị đe dọa. Đặc biệt, trong chương 1 của cuốn
sách, phần viết về vai trò phương pháp luận của triết học, A. Spirkin cho rằng
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác có một đặc tính phổ quát và có thể được
cụ thể hóa khi áp dụng cho các lĩnh vực khác nhau của hoạt động của con
người theo các điều kiện và mục tiêu của họ.v.v..
Như vậy, nội dung của phép biện chứng duy vật và những vấn đề
phương pháp luận được rút ra từ nó đã được coi như là một hệ thống lý thuyết
hoàn thiện mà phần lớn những nghiên cứu sau này, hoặc là phải đưa ra cách

tiếp cận rộng và xa hơn, hoặc là chỉ ra sự vận dụng khía cạnh phương pháp
luận trong giải quyết một số vấn đề đang đặt ra từ phương diện lý luận và
thực tiễn.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về phép biện chứng duy vật và ý nghĩa
phương pháp luận được rút ra từ nó được trình bày phổ biến và căn bản trong
các sách giáo khoa triết học của Hội đồng lý luận trung ương; Bộ giáo dục và
đào tạo . Ngoài ra, để hiểu sâu về giá trị và ảnh hưởng của phương pháp luận
biện chứng mác xít đã có một số công trình nghiên cứu về C. Mác và ảnh
hưởng của triết học Mác trong thời đại ngày nay thông qua các tác giả như:
Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Nguyễn Đình Hòa; Lê Xuân Bá (2006);
Doãn Chính, Đinh Ngọc Thạch; Xuân Kiều
Từ những năm 80 trở lại đây, vấn đề phương pháp luận biến chứng duy
vật được tiếp cận dưới góc độ tư duy lý luận và nâng cao năng lực tư duy lý
6


luận. Cách thức và trình độ của tư duy trong quá trình nhận thức và giải quyết
các vấn đề trong thực tiễn thể hiện năng lực vận dụng phương pháp luận. Liên
quan đến những nội dung nghiên cứu này gồm các công trình tiểu biểu của
Trần Nhâm; Lê Phương Lan; Hồ Sĩ Quý; Lê Hữu Tầng.v.v.
Công trình Giáo trình Lôgic học biện chứng,NxbĐại học Quốc gia, Hà
Nội 2016 của PGS.TS Nguyễn Thúy Vân và PGS.TS Nguyễn Anh Tuấn biên
soạn cũng là một công trình nghiên cứu tương đối chuyên sâu và có tính hệ
thống về phương pháp luận biện chứng duy vật với tư cách là những phương
pháp đúng đắn của tư duy biện chứng. Trong công trình này đã trình bày một
cách có hệ thống, sâu sắcnhững tiền đề lý luận, nội dung và bản chất củacác
phương pháp của phép biện chứng duy vật, trong đó tập trung vào hai phương
pháp quan trọng: phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể và phương pháp
thống nhất logic - lịch sử. Công trình cũng đã làm rõtại sao quá trình đi từ
trừu tượng đến cụ thể lại được coi như là phương pháp luận của nhận thức

biện chứng? Điểm xuất phát của nhận thức là gì?
Ngoài ra, còn phải kể đến một số công trình là đề tài nghiên cứu khoa
học, luận án, luận văn nghiên cứu về những nội dung này như: Đề tài nghiên
cứu cấp Đại học Quốc gia, Hà Nội của Nguyễn Thúy Vân (2010), Phương
pháp của Bộ “Tư bản” và việc vận dụng chúng trong nghiên cứu quá trình
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay đã làm rõ hơn về nội dung của các phương pháp cơ bản
của phép biện chứng duy vật trong Bộ Tư bản trong đó có phương pháp đi từ
trừu tượng đến cụ thể và bước đầu khái quát về những đặc điểm của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự vận dụng các phương
pháp này trong nghiên cứu nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay.
Luận văn ThS. Triết học của Trần Minh Hiếu - Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008 - Khái quát các
quan niệm của một số nhà kinh tế học tư sản cổ điển và quan niệm của
7


Hêghen về “điểm khởi đầu nghiên cứu”. Với phạm vi nghiên cứu là bộ “Tư
bản” của C. Mác, đặc biệt là tập I, cùng các tài liệu liên quan như “Bản thảo
kinh tế 1857-1859”, “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, luận văn đã
khảo sát nguồn gốc lý luận và thực tiễn của vấn đề “điểm khởi đầu nghiên
cứu” của C. Mác. Tập trung phân tích chân dung “điểm khởi đầu nghiên cứu”,
phương thức C. Mác xác định “điểm khởi đầu nghiên cứu” trong bộ Tư bản.
Rút ra những nội dung cơ bản của lý luận “điểm khởi đầu nghiên cứu” của C.
Mác, từ đó vận dụng các đặc điểm đó để xác định điểm khởi đầu trong nghiên
cứu một số hiện tượng xã hội hiện nay.
Các công trình củaLê Hữu Nghĩa (1987) Lịch sử và Lôgic;Phạm Thái
Việt (1996) Sự thống nhất giữa cái lôgic và cái lịch sử - một nguyên tắc của
nhận thức lý luận;Trần Thị Ngọc Anh (2004) Lôgic của sự hình thành, phát

triển khái niệm;Nguyễn Thanh Tân (2005) Lôgic vận động của khái niệm
trong tư duy lý luận.v.v. cũng đề cập phần nào về vấn đề này…
Nhóm các bài báo, tạp chí cũng có một số bài nghiên cứu chuyên về
phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể như: Vấn đề xác định điểm khởi đầu
và phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể của Lại Văn Toàn và bài Suy nghĩ
trên kết quả của hội nghị khoa học “Khoa học hiện đại và phương pháp đi từ
trừu tượng đến cụ thể của C.Mác” của Tô Duy Hợp đăng trên Tạp chí Triết
học năm 1983. Ngoài ra cũng có các bài trích trên các tạp chí chuyên sâu như
bài trích Cái trừu tượng và cái cụ thể trong nhận thức đăng trên Tạp chí Triết
học (số 2, 1999) của Phạm Văn Dương…Các công trình trên đã bước đầu
vạch ra một số nội dung của phương pháp đi từu trừu tượng đến cụ thể của
Mác. Song vẫn còn tồn tại một số vấn đề chưa đi đến sự thống nhất trong việc
làm sáng tỏ phương pháp này của Mác như: “đi từ trừu tượng đến cụ thể” là
quy luật đặc thù của tư duy hay là quy luật phổ biến của thế giới? Trong quan
niệm nó là quy luật phổ biến lại hiện hữu một số quan điểm khác nhau như:
xác định sự trừu tượng xuất phát của phương pháp này như thế nào? Con
đường nhận thức chân lý hoặc là đi từ cái cụ thể cảm tính đến cái trừu tượng
8


rồi lại vận động tới cái cụ thể lý luận hoặc là chỉ có sự tiệm tiến từ cái trừu
tượng tới cái cụ thể trong tư duy.v.v. vẫn chưa được xác định rõ nét và thống
nhất.
- Những nghiên cứu chung về kinh tế thị trường và quá trình xây
dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Khi Việt Nam bước vào xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, sự thiếu hụt về mặt lý luận cho một mô hình
chưa có tiền lệ trên thế giới càng đặt ra nhu cầu bức thiết về việc phải hoàn
thiện về mặt lý luận mô hình này để hiện thực hóa nó trong thực tiễn. Những

nghiên cứu ở nước ta trong thời gian này chủ yếu tập trung nghiên cứu về
kinh tế thị trường ở góc độ kinh tế học với các tác giả Đỗ Hoài Nam; Bùi Thị
Xuyến; Phạm Hảo; Hoàng Ngọc Hoà; “Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa: Quan niệm và giải pháp phát triển”- Nguyễn Phú Trọng; “Kế
hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩaở nước
ta”- Vũ Văn Phúc; “Về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường”- Lê
Nguyễn Hương Trinh; “Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩaở Việt Nam; “Một số vấn đề trong tư duy, nhận thức về phát triển
thị trường sức lao động”- Nguyễn Khắc Thanh. “Cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu và những vấn đề đặt ra đối với nền kinh tế Việt nam”- Tô Huy Rứa;
“Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đến kinh
tế nước ta và giải pháp ứng phó”- Võ Trí Thành; “Một số lý thuyết về kinh tế
và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu”- Đỗ Hoài Nam; “Điều hành kinh tế
siêu vĩ mô định hướng xã hội chủ nghĩa”- Nguyễn Bình Giang- Tống Quốc
Đạt; “Đặc điểm kinh tế thị trường của các nước trên thế giới”- Phạm Minh
Trí; “Công cuộc đổi mới ở Việt nam hiện nay: nhìn từ giác độ mâu thuẫn của
quá trình phát triển”- Phạm Ngọc Quang;.v..v....
Trong những công trình trên các tác giả đã vạch chỉ được những đặc
trưng cơ bản nhất của việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định
9


hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; Phân tích sự tác động của khủng hoảng
kinh tế thế giới đến kinh tế Việt Nam và thông qua đó đến quá trình xây dựng
kinh tế thị trường nước ta. Các nghiên cứu trên cũng đồng thời chỉ ra một số
dự báo, xu hướng cũng như cách thức tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩaở Việt Nam...
Tuy nhiên, những nghiên cứu trên chưa thể lấp đầy những khoảng trống
về mặt lý luận khi chúng ta đang xây dựng một mô hình chưa có trong tiền lệ
phát triển kinh tế thị trường của các quốc gia trên thế giới. Sự thiếu hụt

phương pháp luận biện chứng trong nhận thức vấn đề này đang còn là khoảng
trống lớn. Đó cũng chính là nội dung mà chúng tôi muốn hướng tới để nghiên
cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tíchnhững tiền đề lý luận cho sự
ra đời phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể trong triết học Mác xít,luận
văn làm rõ những nội dung lý luận của phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ
thể và phân tích ý nghĩa phương pháp luận của nótrong nghiên cứu nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trình bày những tiền đề lý luận cho sự ra đời phương pháp Đi từ trừu
tượng đến cụ thể
- Hệ thống hóa những nội dung lý luận cơ bản của phương pháp Đi từ
trừu tượng đến cụ thể
- Phân tích ý nghĩa phương pháp luận của phương pháp Đi từ trừu tượng
đến cụ thể trong nghiên cứu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể và ý
nghĩa phương pháp luận của nó trong nghiên cứu kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
10


Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu nội dung phương pháp đi từ trừu tượng
đến cụ thể chủ yếu được thể hiện trong Bộ “Tư Bản” của C. Mác và quan
niệm của một số nhà triết học Xô Viết. Những vấn đề về kinh tế thị trường ở
Việt Nam được khảo sát từ năm 1986 trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật

biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời cũng kế thừa những kết quả
nghiên cứu liên quan trong những năm gần đây.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương
pháp mácxit nghiên cứu lịch sử triết học, quan điểm khách quan, quan điểm
lịch sử cụ thể và quan điểm biện chứng. Luận văn cũng sử dụng chủ yếu
phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử
và lôgíc…
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần luận giải những nội dung cơ bản của phương pháp đi
từ trừu tượng đến cụ thể và chỉ ra ý nghĩa của phương pháp này trong nghiên
cứu nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên
cứu, học tập cho sinh viên ngành triết học, ngành kinh tế học và những ai
quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương, 7 tiết.

11


B. NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CHO SỰ RA ĐỜI PHƢƠNG
PHÁP ĐI TỪ TRỪU TƢỢNG ĐẾN CỤ THỂ.
1.1. Quan niệm của các nhà kinh tế học tƣ sản cổ điển về “điểm khởi
đầu nghiên cứu”
Vấn đề xác định khởi điểmđể nghiên cứu các hiện tượng xã hội xuất hiện
vào những năm 50 của thế kỷ XIX, được bắt đầu bởi các nhà kinh tế học cổ
điển. Để hiểu được đối tượng trong tính chỉnh thể hỗn mang của nó, các nhà
nghiên cứu luôn trăn trở một câu hỏi là: quá trình nhận thức về đối tượng diễn

ra như thế nào? Có hai quan điểm khác nhau về vấn đề này. Quan điểm thứ
nhất cho rằng, tiến trình ấy bao gồm cả hai con đường. Họ đặt tên cho con
đường thứ nhất là con đường “đi từ cụ thể cảm tính đến trừu tượng” để phân
biệt với con đường thứ hai “đi từ trừu tượng đến cụ thể”. Tức là muốn nhấn
mạnh hai khái niệm “cụ thể cảm tính” và “cụ thể trong lý luận tư duy”. Đó
thực chất là điểm khởi đầu và điểm cuối của quá trình tư duy. Cách hiểu đó về
cơ bản thống nhất với cách hiểu của C. Mác sau này. Tuy nhiên, sẽ có một
điểm bất lợi nếu cách hiểu đó rơi vào trường hợp khi người ta không phân
biệt được nhận thức luận và bản thể luận, không phân biệt được “cái cụ thể
hiện thực” và “cái cụ thể cảm tính”. Quan điểm thứ hai cho rằng, mọi quá
trình nhận thức luôn bắt đầu từ cái trừu tượng vì ngay khi “cái chỉnh thể hỗn
mang” được đem lại trong trực quan và biểu tượng thì đó cũng đã là một sự
nhận thức, dù rằng chỉ ở trình độ ý niệm. Mỗi một hiểu biết mới về đối tượng
sẽ đem lại, bổ sung thêm cho nhận thức còn tương đối “rỗng” ban đầu và làm
cho nó ngày càng đầy lên, cụ thể hơn. Như vậy, so với cái cụ thể ở kết quả, sự
hiểu biết ban đầu chỉ là một cái “trừu tượng”. Bất cứ tiến trình tư duy nào
cũng sẽ diễn ra như vậy. Theo cách hiểu này, điểm khởi đầu của quá trình
nhận thức, dù ở cấp độ loài hay cá thể luôn là “chỉnh thể đối tượng trong trực
quan và biểu tượng”.

12


Như vậy, có thể nói toàn bộ “con đường thứ nhất” – hiểu cho đúng thì đó
là con đường kinh nghiệm phân tích mà nhận thức của khoa kinh tế chính trị
thế kỷ XVII đã đi thực chất chính là con đường phân tích, trừu tượng hóa. Đó
cũng là con đường duy nhất đúng để hình thành những khái niệm chung nhất,
trừu tượng nhất. Cách mà các nhà kinh tế chính trị học tư sản cổ điển đã làm
để có những khái niệm như: phân công lao động, tiền tệ, giá trị,… chính là
như vậy. Họ đã bắt đầu từ một tổng thể sống động, được đem lại trong trực

quan và biểu tượng. Sau đó, họ so sánh, phân tích để rút ra từ các dữ kiện trực
quan, trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, những tính quy định chung giống
nhau.
Tuy nhiên, khi nhìn từ giai đoạn phát triển cao của lý luận kinh tế chính
trị, chúng ta có thể nhận ra những giá trị nhất định của “con đường thứ nhất”.
Có thể nói, do mọi tiến trình nhận thức luôn bắt đầu một cách tất yếu từ tổng
thể sinh động trong trực quan và biểu tượng, nên chủ thể nhận thức dù ở cấp
độ loài hay cá thể đều phải “lựa chọn điểm khởi đầu” khi nghiên cứu về đối
tượng. Thành quả của nhận thức ở “con đường thứ nhất” chính là những phạm
trù kinh tế trừu tượng mà các nhà kinh tế học tư sản đã rút ra trên cơ sở trừu
tượng hóa các dữ kiện hiện thực. Những phạm trù kinh tế trừu tượng ấy như
“lưu thông”, “thương mại”, “lao động”… tất nhiên chỉ ở một tầng bậc thấp,
đơn giản. Chính ở tầng bậc thấp đó, những phạm trù ấy đã tạo cơ sở cho sự
nhận thức cụ thể hơn, sâu sắc hơn, đặc thù hơn sau này ở các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác.
Ví dụ, các nhà kinh tế học đã bắt đầu từ phạm trù “lưu thông”. Đây là
vấn đề đã được nêu lên ngay từ phái trọng thương, với quan niệm cho rằng
“lợi nhuận sinh ra trong lưu thông”. Nhưng đó chỉ là cái nhìn chỉ gắn với lớp
vỏ bề ngoài của hiện tượng. Các nhà trọng thương thấy rằng lợi nhuận thương
nghiệp là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, là lừa gạt, chiến tranh, họ
chưa thừa nhận quy luật kinh tế khách quan. Điều đó tất yếu phải dẫn đến tư
tưởng phủ định nó. Đơlâynốt (1641-1695) trái với quan điểm trên của chủ
13


nghĩa trọng thương, đã cho rằng “thương mại” cần được nhìn theo tính quy
luật khách quan hơn. Rằng đó phải là “sự trao đổi” giá trị sử dụng này lấy giá
trị sử dụng khác. Quan điểm này đến C. Mác đã giúp ông có được sự suy luận
khoa học: người ta trao đổi những hàng hóa với những hàng hóa khác, hay
những hàng hóa với tiền tệ có cùng giá trị với hàng hóa đó, tức là trao đổi

những vật ngang giá, rõ ràng là không ai rút ra được từ trong lưu thông nhiều
giá trị hơn số giá trị đã bỏ vào trong đó. Vậy giá trị thặng dư tuyệt nhiên
không thể hình thành ra được trong lưu thông. Từ quan điểm này nhìn ngược
lại, không thể đánh giá nguyên nhân sự hạn chế trong lý luận của phái trọng
thương là hoàn toàn do tính chủ quan. Nguyên nhân của hạn chế đó cũng có
một phần cơ sở từ hiện thực, bởi theo Mác thực sự tư bản thương nghiệp
chính là hình thái tồn tại tự do đầu tiên của tư bản nói chung.
Nếu phái trọng thương coi “lưu thông” là điểm khởi đầu nghiên cứu thì
phái trọng nông lại xác định “lao động” là điểm khởi đầu nghiên cứu về kinh
tế tư bản. Các nhà trọng nông là những người đầu tiên chuyển việc nghiên
cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư từ lĩnh vực lưu thông vào lĩnh vực sản
xuất trực tiếp với quan điểm cho rằng “lao động là nguồn gốc của của cải”.
Tuy nhiên “lao động” đó mới chỉ dừng lại ở việc đồng nhất với một dạng cụ
thể của nó là “lao động nông nghiệp” nhưng về cơ bản quan điểm đó đã “đặt
cơ sở cho việc phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa” (C.Mác). Thành tựu
to lớn của A.Xmit như C.Mác đánh giá ông đã gạt bỏ tất cả mọi tính xác định
cụ thể của hoạt động sáng tạo ra của cải. Ở ông, chỉ có khái niệm “lao động”
mà thôi, nó không phải lao động công nghiệp, cũng không phải lao động
thương nghiệp hay lao động nông nghiệp mà là cả cái nọ lẫn cái kia. Và cùng
với tính phổ biến trừu tượng của hoạt động sáng tạo ra của cải, người ta đi đến
nhận thức tính phổ biến của cải, đó là “sản phẩm nói chung” đến Mác chính
từ điểm xuất phát này mà Mác đã nghiên cứu để khái quát ra phạm trù “lao
động trừu tượng” là nguồn gốc của giá trị và giá trị thặng dư.

14


Khi quá trình tích lũy nguyên thủy kết thúc, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
bước vào giai đoạn phát triển của nó. Lý luận U.Petty, A.Xmith, D.Ricacđô
đã cho thấy sự phát triển đồng nhịp của tư duy với hiện thực. Những phạm trù

kinh tế như “giá trị”, “lao động”, “tiền tệ”, “hàng hóa” được đưa vào hệ thống
và mang tầm khái quát cao hơn, phản ánh sống động hơn bản chất vốn có của
đối tượng, những phạm trù ấy trở nên trừu tượng nhưng đồng thời cũng cụ thể
hơn. Song “cái cụ thể” ấy mới chỉ là kết quả đánh dấu sự kết thúc giai đoạn
đầu của quá trình nhận thức. Trong quá trình vận động lên phía trước, nó trở
lại thành “cái trừu tượng xuất phát” cho giai đoạn nhận thức tiếp theo.
Vì thế, các nhà kinh tế học thế kỷ XVII, khi sử dụng phương pháp này
trong các công trình nghiên cứu của mình, họ bao giờ cũng bắt đầu từ chỉnh
thể cụ thể, đặc biệt là từ dân cư, và sau đó đi tới “những sự trừu tượng hóa
ngày càng nghèo nàn” cho đến cuối cùng đi tới những khái niệm đơn giản
nhất như là lao động, phân công lao động, giá trị trao đổi,.... C.Mác đã viết:
“Các nhà kinh tế học thế kỷ XVI luôn luôn bắt đầu từ cái chỉnh thể sinh động,
từ dân cư, dân tộc, quốc gia, một vài quốc gia,... nhưng họ luôn luôn kết thúc
bởi điều là bằng phân tích họ tách riêng ra một số mối quan hệ phổ biến trừu
tượng quyết định như phân công lao động, tiền tệ, giá trị,...” [29;62-63]
Sau khi tách các mặt hoặc các thuộc tính cá biệt của chỉnh thể đang được
nghiên cứu ra và thể hiện kết quả nhận được trong các khái niệm chung đơn
giản nhất, họ chỉ cần ghép các khái niệm, những sự trừu tượng hóa đó lại một
cách máy móc cũng hiểu biết được bản chất của chỉnh thể. Dĩ nhiên, nếu tuân
theo nguyên tắc nhận thức như vậy thì ta không thể hiểu biết đươc chút nào
bản chất bởi vì bản chất không phải là chỉnh thể máy móc, không phải là sự
kết hợp giản đơn các thuộc tính hay các mặt của đối tượng, mà là sự thống
nhất biện chứng, chỉnh thể biện chứng mà tất cả các mặt của nó đều nằm
trong mối liên hệ qua lại và phụ thuộc lẫn nhau một cách tự nhiên, tất yếu.
Như vậy, cái cụ thể tồn tại trong hiện thực, mới là khách thể của nhận
thức,nhưng để nghiên cứu về nó, sự nghiên cứu lại bắt đầu từ cái không phải
15


từ cái cụ thể, đó là cái trừu tượng, từ những khái niệm phản ánh các mặt, các

mối quan hệ chung hoặc phổ biến đơn giản nhất của đối tượng nhận thức.
Hơn nữa, cần phải lấy không phải bất cứ mặt nào (đơn giản, phổ biến), mà là
mặt quyết định trong chỉnh thể đang được nghiên cứu - mặt quy định tất cả
các mặt khác của nó, làm điểm xuất phát. Sau khi tách mặt quyết định, chủ
yếu ra, chúng ta cần phải nắm bắt nó đã phát sinh như thế nào, đã trải qua
những giai đoạn nào và đã ảnh hưởng như thế nào đến tất cả các mặt khác của
tạo thể vật chất đang được nghiên cứu và cùng với điều đó là toàn bộ tổng thể
các mặt và các mối liên hệ tất yếu vốn có ở nó, có nghĩa là bản chất của nó,
được tái tạo từng bước trong ý thức.
Mặc dù vậy, không thể phủ nhận công lao của các nhà kinh tế chính trị
học tư sản cổ điển đã đứng trên lập trường duy vật để xây dựng lý luận kinh
tế. Những khái niệm của họ tuy chỉ đạt tới tính chung, nội hàm còn tương đối
nghèo nàn, có chỗ còn chưa chính xác, song tất cả chúng là kết quả của quá
trình trừu tượng hóa từ hiện thực, chứ không phải là thứ đẻ ra hiện thực (như
Hêghen sau này quan niệm). Hạn chế của các nhà kinh tế chính trị học tư sản
cổ điển ở chỗ, với con đường thứ nhất, họ chỉ có được những khái niệm
chung, trừu tượng phổ biến về hiện thực, chứ không phải những khái niệm
đặc thù, trong khi, đó mới là mục đích cuối cùng mà nhận thức phải đạt đến.
Họ đã dừng lại với vô hạn các trừu tượng mà không biết phải đi tiếp thế nào.
Bản thân họ cũng không hài lòng với chính phương pháp của mình.
Không chỉ bàn đến điểm khởi đầu trong nghiên cứu, khi luận giải một
lĩnh vực các hiện tượng nào đó, các nhà khoa học trước C.Mác thường sử
dụng phương pháp đi từ cái cụ thể cảm tính đến cái trừu tượng. Theo phương
pháp này, việc nghiên cứu cần bắt đầu từ chỉnh thể cụ thể cảm tính. Trong
tiến trình nghiên cứu chỉnh thể cần phải tách các mặt, các thuộc tính cá biệt
của nó ra, nghiên cứu chúng như vốn có và do đó nhận được những khái niệm
đơn giản nhất phản ánh những thuộc tính chung hoặc phổ biến cá biệt. Việc
vạch rõ những thuộc tính hay mối quan hệ chung hoặc phổ biến đơn giản nhất
16



được coi là đủ để nhận thức chỉnh thể đang được nghiên cứu, đủ để thiết lập
được quan niệm xác định về chỉnh thể đó.
1.2. Quan niệm của G.W.F. Hêghen về quá trình nhận thức đi từ
trừu tƣợng đến cụ thể
Georg Wilhelm Friedrid Hêghen (1770 - 1831) là nhà biện chứng lỗi lạc,
bậc tiền bối của triết học Mác.Trong hệ thống triết học của Hêghen thì lôgic
học chính là bộ phận đầu tiên, nó phân tích ba lĩnh vực cơ bản là tồn tại, bản
chất và khái niệm, trong đó, mỗi lĩnh vực lại được làm rõ về mặt nội dung
bằng một số phạm trù khác. Trong tác phẩm “Khoa học lôgic” lần đầu tiên
trong lịch sử triết học, ông đã vạch ra một cách đúng đắn tính tất yếu của sự
vận động của nhận thức đi từ trừu tượng đến cụ thể. Đây được xem như quy
luật cơ bản quy định toàn bộ hệ thống của Hêghen trong lĩnh vực lôgic học.
Theo Hêghen trên con đường vận động của ý niệm tuyệt đối sự phát triển
chính là sự vận động do các mâu thuẫn bên trong quy định từ nội dung trừu
tượng đến nội dung ngày càng cụ thể hơn, thông qua sự phủ định cái này bằng
cái cái kia và sự bảo tồn nội dung tích cực của cái bị phủ định dưới dạng đã bị
vượt bỏ. Hêghen viết: “...Sự vận động tiến lên có đặc trưng đầu tiên là: nó bắt
đầu từ những tính quy định tiếp theo ngày càng phong phú và cụ thể hơn. Bởi
vì kết quả chứa đựng cái bắt đầu của nó, và sự vận động của cái ban đầu này
đã làm cho nó giàu thêm bởi một tính quy định mới” [Trích theo44; 243].
Vốn là quy luật phổ biến, nó phải được tính đến khi nghiên cứu phương
pháp nhận thức, thể hiện trong những yêu cầu nhất định đối với chủ thể nhận
thức. Hêghen đã chỉ ra rằng sự nhận thức cần phải bắt đầu từ những khái niệm
trừu tượng, đơn giản nhất và chuyển sang những khái niệm ngày càng cụ thể
hơn, phủ định những khái niệm trước đó và bao hàm những khái niệm mới
nhất với tính cách là yếu tố và mức độ phát triển nội dung của nó. Khi mô tả
đặc trưng phương pháp của mình, Hêghen đã viết: “Trong phương pháp tuyệt
đối, khái niệm được duy trì trong cái tồn tại khác của nó, cái phổ biến được
duy trì trong tính riêng biệt của nó, trong phán đoán và trong thực tại; Ở mỗi

17


giai đoạn của sự quy định tiếp theo, cái phổ biến nâng toàn bộ nội dung, trước
kia của nó lên cao hơn, và không những nó không mất gì cả vì sự vận động
tiến lên biện chứng của nó, không những không để lại cái gì sau nó cả, mà còn
mang theo tất cả những cái đã thu nhận được và tự làm phong phú và cô đọng
bên trong nó”.[44; 244].
Hêghen chỉ coi ưu điểm của phương pháp trên ở chỗ nó đã tháo gỡ được
vấn đề về sự luận chứng của cái ban đầu, của luận điểm xuất phát chung. Như
ta đã biết, chính vấn đề đó là sự cản trở hầu như đối với tất cả các hệ thống
triết học. Nhiều nhà triết học đã nghiên cứu cách giải quyết vấn đề đó. Một
mặt, chỉ những luận điểm được luận chứng bằng những luận điểm xác thực
khác, được rút ra từ những luận điểm ấy, mới được công nhận là đúng đắn,
nhưng mặt khác, cái ban đầu mà một nhà triết học nào đó thường lấy làm
điểm xuất phát và từ đó rút ra những luận điểm của học thuyết của mình, lại
không được luận chứng, nó không được rút ra từ cái gì, nó được công nhận
mà không có chứng minh. Nhưng nếu cái ban đầu mà từ đó rút ra tất cả những
luận điểm khác, không được luận chứng, thì tính chân lý của toàn bộ hệ thống
tri thức sẽ bị nghi ngờ.
Trong triết học của Hêghen không có mâu thuẫn trên. Ở Hêghen, nhận
thức được bắt đầu từ cái trừu tượng đơn giản nhất, nghèo nàn nhất, từ cái phổ
biến trừu tượng không có bất cứ một nội dung xác định nào. Nhưng nếu cái
ban đầu không có một nội dung xác định nào, thì không cần thiết luận chứng
nó, vì chẳng có gì để luận chứng. Cái phổ biến trừu tượng này khi tự phát
triển thông qua bản thân mình, nó sinh ra các khái niệm tiếp theo và bằng
cách đó nó luận chứng cho các khái niệm đó - nhưng khái niệm đã có một nội
dung nhất định nào đó. và những khái niệm vừa nói trên được tách riêng, sinh
ra các khái niệm khác, còn cụ thể hơn, ..., chừng nào toàn bộ sự vận động đó
chưa quay trở lại cái ban đầu, trở lại khái niệm xuất phát mà giờ đây đã biểu

hiện như kết quả của sự phát triển trước đó, như một khái niệm đã được luận
chứng và được rút ra từ những khái niệm trước đó. Vì vậy, theo phương pháp
18


của Hêghen, mỗi bước đi lên trong nhận thức đồng thời cũng là một bước lùi,
là sự quay trở lại cái ban đầu. Ông viết: “Chính như vậy, mỗi bước tiến lên
trong quá trình quy định tiếp theo, khi xa cái ban đầu vô định cũng đồng thời
là một bước quay trở lại gần cái ban đầu ấy, thành thử cái gì lúc đầu có thể
xuất hiện như là hai vật khác nhau - sự chứng minh đi giật lùi của cái ban đầu
và sự quy định tiến lên tiếp theo của cái ban đầu ấy - về thực chất chỉ là một
và cùng một sự vật” [44; 245]. Kết quả là chính cái ban đầu, nhưng đã được
làm phong phú thêm bằng một nội dung cụ thể, là chính cái phổ biến, nhưng
khác cái ban đầu - cái chỉ là cái phổ biến, nghĩa là cái phổ biến một cách trừu
tượng như Hêghen diễn đạt, thì đây là cái phổ biến bao hàm toàn bộ sự phong
phú của cái đặc thù và cái đơn nhất.
Có thể thấy rằng, Hêghen có cách hiểu về cặp phạm trù cái trừu tượng và
cái cụ thể một cách biện chứng và sâu sắc hơn nhiều so với các nhà triết học
trước đây bởi họ thường hiểu cái cụ thể chỉ là những sự vật riêng biệt được
đem lại trong trực quan và biểu tượng, còn cái trừu tượng là cái thuộc về tư
tưởng, tinh thần là cái không thể cảm giác được. Hêghen coi:
Một là, cái cụ thể là bản thân sự vật hay khái niệm như một chỉnh thể
toàn vẹn bao hàm nhiều khía cạnh, nhiều mối liên hệ khác nhau nghĩa là hiểu
sự vật một cách trọn vẹn và đầy đủ như chính bản thân nó trên thực tế. Như
vậy, bản thân cái cụ thể được Hêghen hiểu theo hai nghĩa: Cái cụ thể vừa là
xuất phát điểm của nhận thức vừa phải hiện ra thành kết quả ở điểm kết thúc.
Cái cụ thể thứ nhất là cụ thể - cảm tính, bản thân sự vật tự nó và vì nó. Còn
cái cụ thể thứ hai là kết quả tổng hợp của nhiều định nghĩa về sự vật nhằm
nắm bắt sự vật trong tính chỉnh thể của nó. Hêghen cho rằng triết học “có luận
điểm trực tiếp đầu tiên không được chứng minh, không là kết quả, vì nói

chung triết học cần phải bắt đầu từ cái gì đó. Nhưng cái mà từ đó triết học bắt
đầu chỉ một cách tương đối là cái trực tiếp, vì nó còn cần phải hiện ra thành
kết quả ở điểm kết thúc” [Trích theo10; 1].

19


Hai là, cái trừu tượng là cái phiến diện, chung chung, chỉ bao hàm một
khía cạnh, một mối liên hệ nào đó của sự vật mà thôi. Theo Hêghen, cái trừu
tượng chỉ tồn tại ở trong ý thức con người, nó không có sự tồn tại độc lập
trong hiện thực. Với tư cách là bộ phận, cái trừu tượng chỉ có được sự tồn tại
đặc thù của nó trong mối liên hệ và quan hệ với các bộ phận khác, với các
trừu tượng khác của một cái cụ thể chỉnh thể. Hêghen cho rằng, để đi tới cái
trừu tượng, người ta phải tiến hành phân tách đối tượng hiện thực nhằm rút ra
các mặt, các yếu tố, các mối liên hệ có tính bản chất, quy luật của sự vật, rồi
từ đó cố định lại trong các khái niệm, phạm trù lôgic. Nhưng khi người ta tiến
hành “giải phẫu”, phân tích sự vật khách quan thì nó hiện ra không phải như
một cái chỉnh thể sống động, một “cơ thể sống” mà chỉ là xác chết mà thôi.
Như vậy, đối với Hêghen, cái cụ thể và cái trừu tượng là thống nhất không
những ở trong bản thân đối tượng hiện thực mà còn ở trong cái cụ thể tinh
thần.
Vậy là, cái trừu tượng biểu hiện ra chỉ là một mặt, một yếu tố, một mối
liên hệ của cái cụ thể. Nếu dừng lại ở cái trừu tượng này thì chúng ta vẫn chưa
thể nhận thức được sự vật trong tính chỉnh thể và cụ thể của nó. Như thế, mục
đích của nhận thức vẫn chưa đạt được một cách đầy đủ. Theo Hêghen, muốn
phát hiện ra được bản chất thực sự của sự vật thì nhận thức không thể dừng lại
ở cái trừu tượng được mà từ chính cái trừu tượng sự nhận thức lại phải đi tiếp
con đường mang tính tất yếu nữa là đi từ trừu tượng đến cụ thể. Kết quả của
sự vận động này là: vẫn cái cụ thể lúc đầu được cho trong trực quan và biểu
tượng nhưng đã được làm giàu bằng lý luận.

Trong quan niệm của Hêghen, nhận thức chính là sự vận động từ nội
dung này đến nội dung khác. Mà phương pháp, theoHêghen không phải là gì
khác ngoài “ý thức về hình thức của sự vận động nội tại của bản thân nội
dung” [7; 105]. Hêghen viết: Trong nhận thức, “sự vận động tiệm tiến này có
đặc trưng đầu tiên là: nó bắt đầu bằng những tính quy định đơn giản và những
tính quy định tiếp theo ngày càng phong phú và cụ thể hơn. Bởi vì kết quả
20


×