Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tìm hiểu về chứng khoán phái sinh, liên hệ với một số nước trên thế giới và rút ra bài học kinh nhiệm đối với thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.08 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
Thị trường chứng khoán


BÁO CÁO THỊ TRUỜNG CHỨNG KHOÁN
Tìm hiểu về chứng khoán phái sinh, liên hệ với một số nước trên
thế giới và rút ra bài học kinh nhiệm đối với thị trường chứng
khoán phái sinh Việt Nam hiện nay.

Họ và tên: Nguyễn Thị Huyền - 1731070108
Lớp: CĐ Kế Toán 2- K17
Nhóm:3

Năm học: 2017- 2018


Câu 4: Tìm hiểu về chứng khoán phái sinh, liên hệ với một số nước trên thế
giới và rút ra bài học kinh nhiệm đối với thị trường chứng khoán phái sinh
Việt Nam hiện nay.
Lý thuyết chung về thị trường chứng khoán phái sinh.
CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH (CKPS) LÀ GÌ?
- Công cụ tài chính có giá trị phụ thuộc vào giá trị của một hay nhiều tài
1.

sản cơ sở
Có dạng hợp đồng tài chính với đặc điểm:
Quy định quyền lợi và/hoặc nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng đối
với việc thanh toán hoặc/và chuyển giao tài sản cơ sở với một mức giá
được thỏa thuận trước vào một thời điểm nhất định trong tương lai.
CÁC LOẠI TÀI SẢN CƠ SỞ (TSCS)
Hàng hóa/công cụ tài chính có giá trị quyết định giá trị của Chứng khoán


Phái sinh Chia làm hai (02) dạng chính:

-

Hàng hóa:
Thực phẩm/nông sản ( ngũ cốc, thịt, cà phê, hồ tiêu v.v..)
Kim loại (vàng, bạc, kẽm, v.v…)
Năng lượng (khí đốt, dầu, v.v…)
Khác (thời tiết, kết quả bầu cử, v.v…)
 Công cụ tài chính:
Cổ phiếu (Chỉ số cổ phiếu, cổ phiếu, đơn lẻ)
Trái phiếu (trái phiếu CP, Trái phiếu chính quyền địa phương, Trái phiếu

-

Doanh nghiệp)
Lãi suất (lãi suất ngân hàng, lãi suất ngoại tệ)
Tiền tệ (USD, Yên Nhật, Euro, v.v..)
Chứng khoán Phái sinh


-


CÁC LOẠI CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH
Được chia thành 4 loại chính:
- Hợp đồng Kỳ Hạn: là thỏa thuận pháp lý giữa hai bên tham gia về việc
mua và bán một loại tài sản tại một thời điểm nhất định trong tương lai
-


với mức giá được xác định trước tại ngày giao dịch.
Hợp đồng Tương Lai: là hợp đồng kỳ hạn được chuẩn hóa, niêm yết
và giao dịch trên thị trường giao dịch tập trung (Sở giao dịch chứng

-

khoán).
Hợp đồng Quyền chọn: là thỏa thuận pháp lý trong đó một bên có
quyền yêu cầu thực hiện và bên kia có nghĩa vụ phải mua hoặc bán
một lượng tài sản cơ sở theo mức giá đã xác định trước trong hợp
đồng trong một khoảng thời gian hoặc tại một thời điểm nhất định

-

trong tương lai.
Hợp đồng Hoán đổi: là thỏa thuận pháp lý trong đó hai bên cam kết
hoán đổi dòng tiền của công cụ tài chính của một bên với dòng tiền
của công cụ tài chính của bên còn lại trong một khoảng thời gian nhất
định.



CHỦ THỂ, THÀNH PHẦN THAM GIA TTCKPS
Các thành phần tham gia trên thị trường chứng khoán phái sinh bao gồm 03
nhóm chính như sau:


-



-

Cơ quan, tổ chức quản lý, điều hành và giám sát thị trường:
Bộ Tài chính;
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước;
Sở Giao dịch Chứng khoán; Tổ chức bù trừ, lưu ký;
Nhà phát hành/ cung cấp sản phẩm/ dịch vụ:
Sở Giao dịch Chứng khoán;
Tổ chức bù trừ, lưu ký;
Tổ chức kinh doanh như:

Công ty chứng khoán, Ngân hàng thương mại;

Thành viên giao dịch, thành viên bù trừ và thành viên tạo lập thị
trường
Nhà đầu tư:
Các nhà đầu tư cá nhân;
Các nhà đầu tư có tổ chức:

Công ty tài chính;

Quỹ đầu tư;

Chức năng chính của các thành phần tham gia trên thị trường chứng
khoán phái sinh cụ thể như sau:
Cơ quan quản lý:
Bộ tài chính và UBCKNN chịu trách xây dựng một hành lang pháp lý hoàn
chỉnh nhằm quản lý, giám sát thị trường chứng khoán phái sinh một cách bao
quát và hiệu quả. Thông qua việc ban hành các văn bản pháp quy về chứng
khoán phái sinh, cơ quan quản lý đảm bảo việc giao dịch được diễn ra công

khai, minh bạch và công bằng. Từ đó, đảm bảo phát triển thị trường chứng
khoán phái sinh một cách bền vững và đồng thời bảo vệ quyền lợi của các nhà
đầu tư trên thị trường.
Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK):
Với vai trò là cơ quan vận hành thị trường, SGDCK phái sinh xây dựng các quy
chế có liên quan, các hệ thống và tổ chức giao dịch và giám sát các chứng khoán
phái sinh niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán. Có thể nói, SGDCK chịu
trách nhiệm điều hành và quản lý các hoạt động liên quan tới giao dịch.
Tổ chức bù trừ chứng khoán phái sinh (CCP):


Việc hình thành CCP nhằm đảm bảo quy trình bù trừ, thanh toán chứng khoán
phái sinh diễn ra thuận lợi, đảm bảo an toàn và công bằng cho các bên tham gia.
CCP có thể coi như một pháp nhân độc lập như trường hợp thị trường phái sinh
tại Nhật Bản và Thái Lan, Ấn Độ và Malaysia hoặc là một bộ phận trực thuộc
Sở Giao dịch chịu sự chi phối và quản lý của Sở như trường hợp Đài Loan, Hàn
Quốc.
Ngân hàng thanh toán (NHTT):
Thực hiện hoạch toán và chuyển khoản cho các tài khoản giao dịch sản phẩm
phái sinh theo kết quả về việc hoạch toán nhận được từ tổ chức bù trừ. Thông
thường, ngâng hàng thanh toán và tổ chức bù trừ liên kết với nhau để đảm bảo
việc giám sát giá trị tài khoản thực của khách hàng đạt hiệu quả tối ưu.
Thành viên giao dịch phái sinh: bao gồm các công ty chứng khoán, ngân hàng
thương mại, quỹ đầu tư đáp ứng được các quy định về nghiệp vụ môi giới, tự
doanh cho giao dịch sản phẩm phái sinh do cơ quan quản lý yêu cầu và được
UBCKNN cấp giấy phép hoạt động. Khi trở thành các thành viên giao dịch phái
sinh, các tổ chức này phải thực hiện các nghĩa vụ và trách nhiệm của thành viên
giao dịch thuộc SGDCK phái sinh. Có 02 loại thành viên giao dịch: là thành
viên giao dịch có chức năng bù trừ (gọi tắt là thành viên giao dịch) và thành
viên giao dịch không có chức năng bù trừ (gọi là thành viên không bù trừ).

Thành viên bù trừ: Các tổ chức tài chính được cấp phép thực hiện nhiệp vụ bù
trừ cho giao dịch sản phẩm phái sinh. Sau khi đăng ký và được chấp nhận tư
cách thành viên bù trừ, các tổ chức này được phép thực hiện dịch vụ bù trừ
chứng khoán phái sinh cho khách hàng và cho các giao dịch tự doanh của chính
mình.
Thành viên tạo lập thị trường: Vai trò chính của nhà tạo lập thị trường là để
tạo ra tính thanh khoản cho các sản phẩm phái sinh mới và giúp tăng cường tính
thanh khoản đối với các sản phẩm đang thiếu tính thanh khoản hoặc thanh
khoản thấp thông qua việc tác động lên tổng khối lượng giao dịch trên thị
trường.
Các nhà đầu tư: Các nhà đầu tư là các thành phần tham gia đầu tư vào thị
trường chứng khoán phái sinh, bao gồm nhà đầu tư nhỏ lẻ hoặc các nhà đầu tư
có tổ chức.


TẦM QUAN TRỌNG CỦA CKPS
-

-

Giúp giá của tài sản cơ sở được xác định hợp lý hơn: cơ chế tác động
giá giữa thị trường phái sinh và thị trường cơ sở giúp giá tài sản cơ sở
trên thị trường phản ánh được nhu cầu giao dịch của nhà đầu tư trong
tương lai
Quản lý rủi ro: Nhà đầu tư có thể sử dụng CKPS là công cụ phòng hộ
rủi ro phát sinh từ biến động giá của tài sản cơ sở


THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH CỦA MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI

Sự phát triển vượt bậc và rộng khắp của thị trường chứng khoán phái sinh
là kết quả của một quá trình hình thành, thay đổi và sáng tạo qua hơn
hàng trăm năm.
Hiện nay, trên thế giới, có tới 100 Sở giao dịch đã đưa vào sản phẩm chứng
khoán phái sinh, thuộc 41 khu vực quốc gia và vùng lãnh thổ có nền kinh tế đã
và đang phát triển.
Các tổ chức tham gia đầu tư chứng khoán phái sinh đều là những nhà đầu tư
chuyên nghiệp, bao gồm mạng lưới các ngân hàng, tổ chức tài chính, các quỹ
đầu tư, nhà đầu tư tổ chức/cá nhân có lượng vốn lớn, sử dụng chứng khoán phái
sinh như phương tiện phòng hộ rủi ro và giao dịch chênh lệch giá.
Sự phát triển vượt bậc và rộng khắp của thị trường chứng khoán phái sinh là kết
quả của một quá trình hình thành, thay đổi và sáng tạo qua hơn hàng trăm năm,
kể từ khi giao dịch phái sinh trên nông phẩm đầu tiên được tổ chức tại thị
trường Nhật Bản và thị trường Hà Lan vào đầu thế kỷ 17. Khởi nguồn tại Nhật
Bản, giao dịch phái sinh trên Gạo đã được tổ chức thông qua Sở giao dịch Gạo
Dojima tại Osaka.
Thị trường bấy giờ được tổ chức với những hình thức nguyên sơ nhất, như ghi
sổ, trao đổi giấy tờ hợp đồng, thông qua một “chợ đầu mối” Dojima, phương
tiện truyền tin chỉ qua thư báo và tín hiệu. Sản phẩm này phục vụ giới thượng
lưu võ sĩ Nhật Bản, vào thời đó, “tiền lương” của các samurai được chi trả bằng
lúa gạo.
Tại Hà Lan, trung tâm giao dịch thương mại của khu vực châu Âu, phái sinh
trên lúa mỳ cũng phục vụ nhu cầu của rất nhiều quốc gia cần tích trữ và chi trả
chi phí thương mại bằng nông phẩm. Thời kỳ đầu, thị trường chứng khoán phái
sinh hoàn toàn chưa được điện tử hóa.
Sang thế kỷ 19, tại Hoa Kỳ, thị trường phái sinh trên nông phẩm cũng được
hình thành, và đặt một bước tiến mới cho chu kỳ mở rộng giao dịch thương mại
và chung chuyển vốn toàn cầu sang cả các sản phẩm phái sinh trên những tài
sản cơ sở khác nông phẩm. Về cơ bản, đất nước Mỹ với diện tích quốc gia rộng
lớn, việc buôn bán nông phẩm phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết “mưa

thuận gió hòa”.
Trong những năm nhiều thiên tai, thời tiết khắc nghiệt, nông phẩm trở nên khan
hiếm, đắt đỏ. Để ổn định thị trường nông phẩm, nhằm bảo hộ, giảm thiểu rủi ro


về giá do nông phẩm dư thừa hoặc khan hiếm, năm 1848 tại Chicago (Hoa Kỳ),
một Hội đồng mậu dịch kỳ hạn đã ra đời. Một năm sau đó, Trung tâm giao dịch
mua bán nông phẩm kỳ hạn ra đời, hoạt động theo phương thức đấu giá cạnh
tranh, qua đó hình thành các hợp đồng mua bán kỳ hạn.
Hàng hóa giao dịch thời kỳ đầu là ngũ cốc, lúa mì, bắp, đậu, về sau có thêm gia
súc, trứng, thực phẩm và nước trái cây ướp lạnh. Phổ biến trong thời kỳ này là
các hợp đồng kỳ hạn về nông phẩm.
Sau đó để khắc phục nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn là không được chuẩn hóa
và khó bán lại cho bên thứ ba, hợp đồng tương lai đã ra đời.
Mặc dù vậy, cũng phải tới hơn 01 thế kỷ sau đó, vào những năm 1980, cùng với
quá trình hiện đại hóa công nghệ, kết nối thị trường vượt qua các rào cản địa lý,
sự bùng phát của chứng khoán phái sinh mới đạt tới đỉnh cao, đặt dấu ấn thứ hai
trong toàn bộ quá trình phát triển. Đó là sự ra đời của các sản phẩm phái sinh
trên tài sản tài chính như cổ phiếu đơn lẻ, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu và các kim
loại quý, năng lượng.
Trên thực tế, trong khu vực liên ngân hàng và các tổ chức tài chính lớn, các hợp
đồng kỳ hạn giao dịch ngoại tệ, lãi suất phi rủi ro (trái phiếu chính phủ), các
giấy tờ có giá, kể cả là hợp đồng mua nhà, hoặc các giấy chứng nhận sở hữu tài
sản tài chính được giao dịch rất sôi động và mang giá trị lớn. Các hợp đồng kỳ
hạn trên tài sản tài chính đóng vai trò là công cụ phòng hộ rủi ro thiết yếu cho
danh mục đầu tư và cơ cấu vốn của các ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương
mại, các tổ chức tài chính và bảo hiểm.
Việc xuất hiện chứng khoán phái sinh trên chỉ số cổ phiếu và trái phiếu chính
phủ đáp ứng nhu cầu cung cấp các sản phẩm phòng hộ rủi ro cho danh mục đầu
tư đa dạng, hoặc cho phép nắm giữ các danh mục đầu tư mô phỏng thị trường

với lợi ích đòn bẩy rất cao. Thống kê các thị trường ra mắt sản phẩm phái sinh
trên chỉ số cổ phiếu và trái phiếu chính phủ như sau:


Thống kê ra mắt các sản phẩm phái sinh trên chỉ số cổ phiếu

TT

Thị trường

Tên chỉ số

Năm ra mắt
HĐTL trên
chỉ số

Năm ra mắt
HĐQC trên
chỉ số

1

Mỹ

S&P 500

1982

1983


2

Úc

All
Ordinaries

1983

1983

3

Hàn Quốc

KOSPI 200

1996

1997

4

Hồng Kông

Hang Seng

1986

1993


5

Canada

TSE 300

1984

1984

6

Thái Lan

SET50

2006

2007

7

Đài Loan

TAIEX

1998

2004


8

Ba Lan

WIG 20

1998

2003

9

Nhật
(Osaka)

Nikkei 225

1986

1989

IBEX 35

1992

1992

1984


1984

10

11

Tây Ban
Nha
Anh (LSE)

FTSE 100

Đối với những mặt hàng là kim loại quý và năng lượng, thời kỳ 1980 về sau phù
hợp với sự đổ vỡ của chế độ bản vị vàng Bretton Woods nawm 1971 và khủng
hoảng dầu khí của những năm 1970. Phái sinh trên các mặt hàng này đáp ứng
dự đoán giá cả, phòng hộ rủi ro và báo trước những diễn biến trên thị trường cơ
sở.


Mặc dù vậy, sau nhiều lần khủng hoảng tài chính đổ vỡ với quy mô toàn cầu,
các thị trường lớn đã có xu hướng tiến tới giao dịch và/hoặc bù trừ/thanh toán
tập trung cho chứng khoán phái sinh. Việc áp dụng các quy định chung về ký
quỹ, thắt chặt quy định cho giao dịch đặc biệt được sử dụng sau khủng hoảng tài
chính năm 2008.


Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính 2008 khởi nguồn từ các hợp đồng phái sinh
trên thị trường tự do OTC và thuộc về sản phẩm phái sinh bậc cao dựa trên
nhiều lớp tài sản chứng khoán hóa từ nợ xấu bất động sản (subprime mortgage
và Mortgage-backed Securities), nhưng cuộc khủng hoảng cũng dấy lên một hồi

chuông cảnh tỉnh cho việc thắt chặt quy định và tăng cường giám sát, giúp ổn
định và đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán phái sinh.
Đối với các sản phẩm chứng khoán phái sinh cơ bản, đặc biệt là các sản phẩm
giao dịch trên thị trường tập trung và bù trừ thông qua đối tác bù trừ trung tâm
(CCP – Central Counter Party), lịch sử cho thấy chưa có tình huống mất khả
năng thanh toán nào vượt quá tầm kiểm soát và các bước đệm quản lý rủi ro của
thị trường.
3. CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CK PHÁI SINH Ở VIỆT NAM
Dự kiến cuối năm 2016, thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam sẽ chính
thức đi vào vận hành, tiếp tục hỗ trợ cùng thị trường chứng khoán niêm yết thực
hiện sứ mệnh trở thành kênh huy động vốn trung, dài hạn chủ đạo của nền kinh
tế. Kinh nghiệm của một số quốc gia phát triển ở châu Á sẽ gợi mở cho Việt
Nam nhiều bài học nhằm vận hành thành công và phát triển bền vững thị trường
chứng khoán phái sinh trong thời gian tới.
Kinh nghiệm từ các nước châu Á
Kinh nghiệm phát triển thị trường chứng khoán (TTCK) phái sinh tại các nước
trên thế giới đặc biệt là sau khủng hoảng tài chính năm 2008 – 2009 cho thấy,
vấn đề quản trị cần được quan tâm hàng đầu và hợp đồng tương lai dựa trên chỉ
số luôn là sản phẩm đầu tiên đặt nền móng cho TTCK phái sinh. Thực tế tại
nhiều quốc gia cũng cho thấy, phát triển TTCK phái sinh thường theo hai xu
hướng; Thứ nhất, thị trường phái sinh theo mô hình tập trung được hình thành
trên cơ sở kế thừa thị trường phái sinh phi tập trung đã có hàng trăm năm phát
triển; Thứ hai, thị trường phái sinh theo mô hình tập trung được hình thành trên
cơ sở tác động tích cực từ phía cơ quan quản lý bên cạnh một thị trường phái
sinh OTC chưa phát triển (điển hình như: Hàn Quốc, Thái Lan…). Quá trình
này ở Việt Nam cũng giống như các quốc gia châu Á nói trên nhưng lại đặt
trong bối cảnh nền tài chính và kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế hiện gặp
nhiều khó khăn. Các TTCK phái sinh tập trung trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... đang ngày càng khẳng định

vị thế của mình trên thị trường tài chính quốc tế và đã vượt qua khu vực châu
Âu, vươn lên đứng vị trí thứ 2 sau khu vực Bắc Mỹ và vẫn đang tiếp tục tăng


trưởng mạnh mẽ.
Tại Singapore
TTCK phái sinh Singapore được hình thành từ năm 1984 với việc thành lập thị
trường trao đổi tiền tệ quốc tế Singapore (SIMEX), sản phẩm chủ yếu là hợp
đồng tương lai của chỉ số Nikkei 225. Tới tháng 12/1999, nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho công tác quản lý đồng thời tiết kiệm được nguồn lực để xây dựng
cơ sở hạ tầng và tập trung được nguồn nhân lực có chất lượng cao, 3 thị trường
phái sinh hàng hóa (SICOM), phái sinh chứng khoán (SIMEX) và phái sinh tiền
tệ (SES) đã hợp lại thành một Sở giao dịch chứng khoán chung là Singapore
Exchange (SE). SE là một tổ chức độc lập, đồng thời cơ quan này cũng chịu sự
giám sát của cơ quan quản lý tiền tệ Singapore. Ngay từ khi mới thành lập, các
nhà quản lý thị trường đã có một quyết định hợp lý khi cho phép TTCK phái
sinh Singapore được liên thông với thị trường Chicago (TTCK phái sinh có lịch
sử lâu đời nhất và phát triển nhất trên thế giới), nhờ đó, nhà đầu tư (NĐT) được
phép giao dịch giữa 2 thị trường mà không tốn chi phí.
Bên cạnh đó, điều kiện tham gia thị trường cũng được SE quy định cụ thể cho
từng nhóm đối tượng: (i) Đối với thành viên giao dịch là cá nhân: phải là một
nhà kinh doanh phái sinh chuyên nghiệp, có đầy đủ kiến thức, hiểu biết về
chứng khoán phái sinh, không yêu cầu vốn tối thiểu; (ii) Đối với thành viên
thanh toán: phải có mức vốn tối thiểu 5 triệu đô la Singapore, có giấy phép cung
cấp dịch vụ thị trường vốn và đáp ứng những chuẩn mực tài chính cao nhất.
Quy định này đã thu hút nhiều NĐT tham gia thị trường trong thời gian đầu
thành lập, tạo lập nền tảng giúp TTCK phái sinh phát triển nhanh và bền vững.
Từ năm 2004, Singapore bắt đầu đưa thêm quyền chọn cổ phiếu vào giao dịch
và tiếp tục gặt hái nhiều thành công nhờ nhiều cơ chế chính sách nhằm tạo
thuận lợi cho các NĐT như: Thay thế hệ thống khớp lệnh tại sản bằng hệ thống

giao dịch điện tử trực tuyến; Miễn yêu cầu về cáo bạch; Giảm bớt các tiêu
chuẩn niêm yết quyền chọn.
Tại Hàn Quốc
Năm 1993 đánh dấu sự kiện quan trọng TTCK phái sinh Hàn Quốc chính thức
ra đời. Tháng 5/1996, lần đầu tiên các công cụ phái sinh và chỉ số các hợp đồng
chứng khoán tương lai (KOSPI 200) được đưa ra dựa trên việc tính toán chỉ số
giá cổ phiếu trên Sở Giao dịch Chứng khoán Hàn Quốc. Chỉ sau một tháng hoạt
động, thị trường quyền chọn KOSPI 200 đã cho thấy rõ hiệu quả hoạt động và
sự cần thiết có một thị trường các công cụ phái sinh chính thức. Nhờ sự thành
công khi đưa thị trường này vào hoạt động, các cơ quan quản lý ngành chứng
khoán Hàn Quốc quyết định đưa thị trường quyền chọn KOSPI 200 vào hoạt
động tháng 7/1997. Sau đó, vào tháng 4/1999, Sở giao dịch các hợp đồng tương


lai Hàn Quốc (KOFEX) được thành lập. Ngoài các công cụ phái sinh đang được
giao dịch trên KSE, các sản phẩm quyền chọn và hợp đồng tài chính tương lai
đều được giao dịch trên KOFEX. Hàng hóa được niêm yết trên Sở này là:
Quyền chọn và hợp đồng tương lai Trái phiếu kho bạc Hàn Quốc, Hợp đồng
tương lai lãi suất Trái phiếu ổn định tiền tệ và chỉ số tương lai KOSDAQ 50,
quyền chọn và hợp đồng tương lai phát hành với mệnh giá tính bằng USD…
Kinh nghiệm cho thấy, để có được thành công trên: (i) Hàn Quốc đã xây dựng
được một cơ chế pháp lý chặt chẽ và có các ưu đãi nhất định ban đầu đối với
những thành viên tham gia TTCK, cụ thể là ưu đãi thuế; (ii) Tạo dựng được một
cơ sở hạ tầng hiện đại, đáp ứng được yêu cầu giao dịch khớp lệnh nhanh chóng.
Chấp nhận giao dịch trực tuyến ngay từ khi đưa TTCK phái sinh vào hoạt động;
(iii) Áp dụng phương pháp ký quỹ chặt chẽ khi thực hiện các giao dịch chứng
khoán phái sinh nhằm ngăn ngừa rủi ro thanh khoản, việc ký quỹ được thực
hiện dựa trên 2 quy chế là mức ký quỹ ban đầu và ký quỹ duy trì.
Tại Nhật Bản
TTCK phái sinh Nhật Bản với một số đặc điểm như sản phẩm mang tính phức

tạp, đối tượng tham gia chuyên nghiệp, giao dịch mang tính chất đầu cơ cao và
hám chứa nhiều rủi ro. Do vậy, TTCK phái sinh phải được theo dõi, điều chỉnh
kịp thời và phù hợp với mục tiêu ổn định thị trường và bảo vệ NĐT, Sở Giao
dịch chứng khoán Tokyo quy định một số nguyên tắc ứng xử đối với thị trường
trong một số trường hợp cụ thể như: (i) Khi giá của thị trường hợp đồng tương
lai và hợp đồng quyền chọn nếu vượt quá giá của chỉ số cổ phiếu cơ sở thì dừng
giao dịch tạm thời 15 phút. (ii) Khi chỉ số TOPIX dao động ngoài khoảng cho
phép thì hạn chế giao dịch TOPIX đối với những tài khoản đồng sở hữu của các
tổ chức kinh doanh chứng khoán. (iii) Tham gia giao dịch mua bán TOPIX khi
đó các đối tượng giao dịch phải có báo cáo hàng ngày về việc thay đổi vị trí khi
tham gia giao dịch.
Những khuyến nghị cho Việt Nam
Trải qua hơn 16 năm hình thành và phát triển, quy mô TTCK hiện vẫn còn khá
khiêm tốn so với các nước trong khu vực và thế giới. So với giá trị vốn hoá toàn
thế giới, TTCK Việt Nam chỉ tương đương 0,09%. Quy mô thị trường vốn so
với nền kinh tế của Việt Nam cũng nằm trong nhóm thấp nhất, với tỷ số thị
trường vốn so với GDP đạt 33,7%. Việc chưa phát triển TTCK phái sinh khiến
cho TTCK Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn trong mắt NĐT trong và ngoài nước
khi họ thiếu đi công cụ phòng ngừa và thiếu các sản phẩm để đa dạng hóa đầu
tư. Tại các quốc gia trên thế giới, TTCK phái sinh tuy ra đời muộn nhưng lại có
doanh số giao dịch cao như ở châu Âu doanh số hợp đồng tương lai gấp bốn lần
thị trường sơ cấp.


Theo nhận định của các chuyên gia chứng khoán, phát triển TTCK phái sinh là
cấu phần quan trọng trong việc phát triển TTCK tại Việt Nam bởi: (i) TTCK
phái sinh phản ánh mức độ phát triển sâu rộng hơn của thị trường và cho thấy
xu thế hội nhập quốc tế; (ii) Chứng khoán phái sinh giúp đa dạng hóa các công
cụ đầu tư hiện có đồng thời cung cấp công cụ giúp NĐT phòng vệ rủi ro; (iii)
Khi TTCK phát triển sau một khoảng thời gian, hiểu biết của NĐT đã được

nâng cao làm phát sinh nhu cầu giao dịch các sản phẩm mới. Hơn nữa, TTCK
Việt Nam hiện mới chỉ có các chứng khoán cơ sở thiếu các công cụ tài chính
phòng ngừa rủi ro và đòn bẩy lợi nhuận là chứng khoán phái sinh, một số chứng
khoán phái sinh đã tự phát ra đời cũng cần được quản lý; (iv) Các điều kiện ban
đầu cho việc hình thành TTCK phái sinh như thành viên tham gia thị trường,
công nghệ thông tin, phương thức thanh toán bù trừ… đã khá đầy đủ. Vì vậy,
việc triển khai TTCK phái sinh là nhu cầu tất yếu, giúp hoàn thiện cấu trúc của
TTCK Việt Nam và nâng cao năng lực cạnh tranh của thị trường trong nước với
các TTCK khu vực và quốc tế.
Thời gian qua, Bộ Tài chính đã có nhiều hoạt động nhằm triển khai và vận hành
TTCK phái sinh. Năm 2015, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị
định số 42/2015/NĐ-CP ngày 5/5/2015 về TTCK phái sinh. Ngoài ra, Bộ Tài
chính cũng ban hành Thông tư số 11/2016/TT-BTC ngày 19/01/2016 hướng dẫn
một số điều của Nghị định số 42/2015/NĐ-CP nhằm tạo cơ sở pháp lý để vận
hành TTCK phái sinh trong thời gian tới. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng đã tổ
chức các Hội thảo về chứng khoán phái sinh và TTCK phái sinh tại TP. Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng, Hà Nội; Triển khai công tác tuyên truyền, đào tạo nhằm giúp
công tác triển khai và vận hành TTCK phái sinh đạt hiệu quả cao, thuận lợi và
an toàn… Tuy nhiên, là một thị trường cao cấp của thị trường tài chính, để
TTCK phái sinh đi vào vận hành và phát triển bền vững trong thời gian tới, việc
học tập các kinh nghiệm của các quốc gia khác là vô cùng quan trọng, trong đó
cần chú trọng một số vấn đề sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến TTCK phái sinh.
Hiện nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 42/2015/NĐ-CP về TTCK phái
sinh, đồng thời Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số 11/2016/TT-BTC
hướng dẫn một số điều của Nghị định định này. Đây là những cơ sở pháp lý
quan trọng để triển khai TTCK phái sinh tại Việt Nam trong thời gian tới. Tuy
nhiên, do TTCK phái sinh là thị trường bậc cao nên việc hoàn thiện các quy
định pháp luật vẫn luôn cần được chú trọng. Bên cạnh đó, cũng xây dựng các
văn bản pháp lý, chế tài kiểm tra, kiểm soát giao dịch chứng khoán phái sinh bởi

khi sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro cho NĐT, nhưng bản chất
các công cụ này dễ bị lợi dụng gây ra những rủi ro khó lường...
Hai là, tranh thủ và tận dụng cơ hội từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tiến


trình cải cách thể chế trong nước để xây dựng và phát triển TTCK phái sinh
theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Để thị trường tài chính trong nước vận
hành theo các thông lệ quốc tế tốt nhất, có khả năng liên kết với các thị trường
khu vực và quốc tế, đồng thời tăng cường thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài thì việc xây dựng TTCK phái sinh là cần thiết, đa dạng hóa hóa kênh đầu
tư, từ đó làm tăng tính cạnh tranh của TTCK Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam
ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, quan hệ hợp tác với các tổ
chức tài chính lớn hàng đầu thế giới cũng đã được thiết lập và duy trì tốt đẹp.
Bên cạnh đó, việc Việt Nam tham gia hầu hết các Hiệp định thương mại các tổ
chức tài chính đã tạo uy tín cho Việt Nam, nhờ đó, TTCK phái sinh cũng sẽ có
cơ hội phát triển, thu hút ngày càng nhiều NĐT ngoại.
Ba là, xây dựng một TTCK đủ lớn để đáp ứng yêu cầu phát triển công cụ phái
sinh vì một yếu tố tiên quyết để đưa TTCK phái sinh thành công là NĐT phải
quen thuộc với tài sản cơ sở. Hiện nay, công tác tái cấu trúc nền kinh tế đã
chuyển sang giai đoạn thiết thực, công tác cổ phần hóa cũng được Chính phủ và
các bộ, ngành, địa phương triển khai quyết liệt. Công tác tái cấu trúc TTCK
ngày càng đạt được thành quả quan trọng và đi vào thực chất. Đặc biệt, gần đây
Chính phủ ban hành Nghị định 60/2015/NĐ-CP sẽ có tác động tích cực trong
thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Những yếu tố nền tảng trên đang tạo cơ
hội to lớn cho sự phát triển TTCK trong thời gian tới, đưa thị trường có bước
phát triển mạnh mẽ hơn, từng bước trở thành kênh huy động vốn trung, dài hạn
chủ đạo của nền kinh tế. Việc đưa TTCK phái sinh vào vận hành trong thời gian
tới sẽ giúp hỗ trợ TTCK cơ sở phát triển, có tác dụng hỗ trợ ngược lại thị trường
cổ phiếu, trái phiếu.
Bốn là, xây dựng được hệ thống các chỉ số đáng tin cậy, phản ánh đúng tình

hình cung cầu của thị trường, để tham chiếu trong các giao dịch phái sinh. Về
lâu dài, các sản phẩm chứng khoán phái sinh không chỉ giúp bảo vệ lợi nhuận
của NĐT trên TTCK, mà còn giúp phòng ngừa rủi ro đối với các sản phẩm khác
như: Hàng hóa, lãi suất như thông lệ của các nước trên thế giới. Dự kiến, đầu
tiên Việt Nam sẽ vận hành TTCK phái sinh với hai sản phẩm ban đầu là hợp
đồng tương lai chỉ số và hợp đồng tương lai trái phiếu. Đây là bước đi thận
trọng nhưng hợp lý trong bối cảnh Việt Nam chưa có kinh nghiệm nhiều đối với
thị trường mới này.



×