Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

hoạt động bảo hiểm rủi ro chứng khoán tại một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.35 MB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHUYÊN NGÀNH KINH DOANH QUỐC TÊ
***
KHÓA
LUẬN
TỐT
NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM RỦI RO CHỨNG KHOÁN
TẠI
MỘT SỐ
Nưởc
TRẼN THÊ
GIỚI
VÀ BÀI HỌC
KINH
NGHIỆM
CHO
VIỆT
NAM
LU Girjz
I
zcc
y '
Sinh viên thực hiện
:
Nguyễn
Thị Minh


Li
Lớp
:
Anh 5
Khóa
:
44B
Giáo viên hướng
dẫn
:
ThS.
Nguyễn
Thị
Tuyết
Nhung

Nội,
05/2009
Bảo hiểm
rủi
ro chứng khoán
tai
mót số nước
trên
thế
giới
và bài học cho
Việt
Nam
MỤC

LỤC
LỜI
NÓI ĐẦU
Ì
CHƯƠNG
ì:

LUẬN
CHUNG
VỀ THỊ
TRƯỜNG
CHÚNG KHOÁN VÀ
HOẠT
ĐỘNG
BẢO
HIỂM
RI
ì
RO
CHÚNG KHOÁN
3
ì.
Tổng
quan
về
thị
trường chứng khoán
3
1.
Chứng

khoán
3
2.
Thị trường chứng khoán
12
n
Hoạt động bảo hiỚm
rủi
ro
chứng khoán
15
1.
Rủi ro
chứng khoán
15
2.
Bảo hiỚm
rủi
ro
chứng khoán
22
CHƯƠNG
li:
HOẠT
ĐỘNG
BẢO
HIỂM
RỦI
RO
CHÚNG KHOÁN TẠI

MỘT
SỐ
NƯỚC
TRÊN THÊ
GIỚI
29
ì.
Hoạt động bảo hiỚm
rủi
ro
chứng khoán
tại
Mỹ 29
l.Thị
trường chứng khoán
Mỹ
- Một chặng đường phát
triỚn
29
2.
Thực
trạng
bảo hiỚm
rủi
ro
chứng khoán
tại
Mỹ 36
n. Hoạt động bảo hiỚm
rủi

ro
chứng khoán
tại
Nhật Bản
44
1.
Tổng
quan
về
thị
trường chứng khoán Nhật Bản
44
2.
Thực
trạng
hoạt
động bảo hiỚm
rủi
ro
chứng khoán
tại
Nhật Bản 47
CHƯƠNG
III:
BÀI
HỌC
KÊNH
NGHIỆM RỨT RA TỪ HOẠT
ĐỘNG
BẢO

HIỂM
RỦI
RO
CHÚNG KHOÁN

CÁC
NƯỚC
ĐI
TRƯỚC

MỘT số
KIẾN
NGHỊ
ĐỐI
VỚI
HOẠT
ĐỘNG
BẢO
HIỂM
SI
RỦI
RO
CHÚNG KHOÁN
TẠI
VỆT NAM.
51
ì.
Một
số bài
học

kinh
nghiệm
trong
hoạt
động bảo hiỚm chứng khoán
tại
các nước
đi
trước
51
n. Một
số
kiến
nghị
đối
với
hoạt
động bảo hiỚm chứng khoán
tại
Việt
Nam 54
Bảo
hiểm rủi ro chứng khoán tại
một số
nước trên
thế
giới và bài học
cho
Việt
Nam

1. Thực trạng hoạt động chứng khoán tại Việt Nam và các rủi ro thường
gặp
54
2.
Hoạt động bảo
hiểm
rủi
ro chứng khoán
tại
Việt
Nam 67
3.
Một sô
kiến
nghị về
hoạt
động bảo
hiểm
chúng khoán
tại
Việt
Nam
hiện
nay
73
KẾT
LUẬN
78
TÀI
LIỆU

THAM KHẢO 80
Bảo
hiểm
rủi
ro
chứng khoán
tai
mót

nước trên
thế
giới

bài
học
cho
Việt
Nam
LỜI
NÓI ĐẦU
Kể từ sau
Đại hội
Đảng
toàn
quốc lần thứ
VI,
Việt
Nam bước
sang
một

thời
kỳ phát
triển
mới.
Sự
chuyển đổi sang
nền
kinh
tế
thị
trường đã
đem
lại
nhiều
thành
tựu
kinh
tế -

hội
to
lớn
cho
đất
nước.
Nhiều
lĩnh
vực
kinh
tế đưỉc đẩy

mạnh,
đời
sống
nhân dân
cũng
ngày càng đưỉc
nâng cao.
Trong
quá trình phát
triển
đó, bảo
hiểm
đã và đang
chứng
minh
đưỉc
vai
trò tích cực của mình
đối với
hoạt
động sản
xuất
-
kinh
doanh
nói riêng
cũng
như
với
cuộc sống

nói
chung.
Nói đến bảo
hiểm
không
chỉ
nói đến
đời
sống

hội
mà còn bao gồm cả
vai
trò của

trong lĩnh
vực
kinh tế
như
bảo hiểm
hàng hoa
xuất
nhập
khẩu
.Và
mới
đây là bảo
hiểm chứng
khoán - một
lĩnh

vực
rất
mới trên
thị
trường
Việt
Nam. Bảo
hiểm

chứng
khoán là
hai
lĩnh
vực không mấy liên
quan
tới
nhau
nhưng chính
sự
phát
triển
của chứng
khoán
Việt
Nam đã
tạo
tiền
đề cho sự
ra
đời

cũng
như phát
triển
của
nghiệp
vụ bảo
hiểm này.
Mặc dù
vậy,
bảo
hiểm chứng
khoán
tại
Việt
Nam vẫn còn có
những
vấn đề đáng
nói, những
khó khăn
cũng
như
thuận
lọi
để có
thể
phát
triển.
Nhận
thấy
vai

trò của
hoạt
động này
trong
nền
kinh
tế
hiện
nay,
em đã
chọn
đề
tài
nghiên cứu là "Hoạt động bảo hiểm
rủi
ro chứng khoán
tại
một số
nước
trên
thế
giới
và bài học kinh nghiệm cho
Việt
Nam". Thông qua đó,
chúng
ta
sẽ có
những
cái nhìn sơ lưỉc về

hoạt
động bảo
hiểm
này
tại
các nước
phát
triển
để
từ
đó có đưỉc
những
bài học
kinh
nghiệm
giúp cho
hoạt
động này
đi đúng
hướng

thực
hiện
đúng
vai
trò của
nó,
giúp cho nền
kinh tế
nói

chung

thị
trường
chứng
khoán nói
riêng
phát
triển
hơn,
thu
hút các nhà đầu tư hơn.
Đối
tưỉng
nghiên cứu
của
bài
khoa
luận

hoạt
động bảo
hiểm
rủi
ro chứng
khoán.
Đây là
hoạt
động đã
xuất hiện

tại
một số nước trên
thế
giới
nhung
với
Việt
Nam,
hoạt
động này
vẫn
còn khá mới mẻ. Nhận
thấy
sự cần
thiết
của
lĩnh
vực
này đề
tài của
em
sẽ phần
nào giúp chúng
ta

những cái
nhìn
sâu
hơn
về

các
loại
hình
cũng
như
thực
trạng
của
hoạt
động
bảo hiểm
rủi
ro
chứng
khoán
hiện
nay.
Do
giới
hạn về
thời
gian
cũng
như
tài
liệu,
nội
dung
bài
khoa

luận
của
em
chỉ
giới
hạn
trong
phạm
vi
các nước
là Nhật
Bản và Mỹ. Đây là các
quốc
gia
rất
Ì
Bảo
hiểm
rủi
ro
chứng khoán
tai
mót số
nước trên
thế
giới

bài
học
cho

Việt
Nam
phát
triển
trên
thị
trường
chứng
khoán.
Khi
nghiên cứu
hoạt
động bảo
hiểm
rủi
ro
chứng
khoán
tại
hai thị
trường
này,
chúng
ta
sẽ rút
ra
các
bài học
kinh
nghiệm

cho
hoạt
động
bảo
hiểm
trong
nước.
Phương pháp nghiên
cứu
mà em
sử
dụng
để
viết
bài khoa
luận
này

thu thập
thông
tin
thứ
cấp

sách,
báo,
tạp chí,
các báo
cáo,
luận

văn,
trang
web
.sau
đó tiên
hành phân
tích,
so
sánh,
tổng
hựp để có đưực thông
túi
khái quát
nhất.
Bài
khoa
luận
của
em gồm 3 chương:
Chương
ì:

luận
chung về
thị
trường
chứng khoán và hoạt động bảo
hiểm
rủi
ro

chứng khoán
Trong
chương
này,
em đưa
ra
một số các khái
niệm
liên
quan
đến
chứng
khoán,
thị
trường
chứng
khoán,

hoạt
động bảo
hiểm
rủi
ro chứng
khoán.
Chương
li:
Hoạt động bảo hiểm
rủi
ro chứng khoán
tại

một số nước
trên
thế giới.
Nội
dung
chính
của
chương này

nói về
thực trạng
hoạt
động
bảo
hiểm
rủi
ro
chứng
khoán
tại
Mỹ và
Nhật
Bản -
hai
nước có
thị
trường chúng khoán phát
triển
nhất
thế

giới.
Chương IU: Bài học
kinh
nghiệm
rút
ra từ
hoạt
động bảo hiểm
rủi
ro
chứng khoán ở
các
nước
đi
trước
và một số
kiến nghị
đối với
hoạt
động bảo hiểm
rủi
ro chứng khoán
tại
Việt
Nam.
Dựa trên các bài học của các nước đi
trước,
cũng
như
thực trạng

hoạt
động
chứng
khoán và bảo
hiểm
chứng
khoán
của
nước
ta hiện nay,
em
xin
đưa
ra
một số
các
biện
pháp nhằm nâng
cao
hiệu
quả
hoạt
động
của
lĩnh
vực
này
tại
Việt
Nam.

Do
những
hạn
chế
về
kiến thức thực tế
cũng
như
nguồn
tài
liệu,
bài
khoa
luận
không
thể
tránh
khỏi
những
thiếu
sót.
Em
rất
mong
sẽ
nhận
đưực ý
kiến
chỉ
bảo,

đóng góp
từ
phía các
thầy
cô và các bạn để hoàn
thiện
hơn nữa đề
tài
nghiên
cứu
của
mình.
Em
xin
đưực chân thành cảm ơn các
thầy
cô giáo trường
Đại
học
Ngoại
Thương, đặc
biệt
là cô giáo ThS.
Nguyễn
Thị
Tuyết
Nhung đã
tận
tình
giúp đỡ em hoàn thành

bài khoa
luận
tốt
nghiệp
này.
Em
xin
chân thành cảm ơn.
2
Bảo hiểm rủi ro chứng khoán tại một
số
nước trên
thế
giới và bài học cho Việt
Nam

Nội,
tháng
04/2009
CHƯƠNG ì

LUẬN
CHUNG
VỀ
THỊ
TRƯỜNG
CHỨNG
KHOÁN

HOẠT

ĐỘNG
BẢO
HIỂM
RỦI
RO CHỨNG
KHOÁN
ì. Tổng quan về thị trường chứng khoán
1.
Chứng
khoán
1.1
Khái niệm
Nghị
định
48/1998/NĐ-CP ngày
11-7-1998
đã
dành nguyên cả
Điều
2,
Chương
ì
để
giải
thích
thuật
ngữ về
chứng
khoán


thị
trường
chứng
khoán.
Trong
Nghị
định
này,
chứng
khoán
được
định
nghĩa
như
sau:
"Chứng khoán là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích
hợp pháp của người sỏ hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn
của
tổ chức
phát hành"
Đến
nay,
khi
Luật
chứng
khoán
ra
đời
vào
29-06-2006,

khái
niệm
này
vẫn
còn
được
sử
dụng,
và có
thể
coi
đây
là khái
niệm
phổ
biến
nhất.
" Chứng
khoán
là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sỏ hữu đối với tài
sản hạc phẩn vốn của tổ chức phát hành.
Chứng
khoán được thể hiện dưới hình
thức chứng chỉ , bút toán ghi sổ hoặc
dữ
liệu điện tử dưới các hình thức như:
cổ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền
mua
cổ phiếu, trái phiếu, quyền

chọn
mua, quyền chọn bán "
Ngoài
ra,
chứng
khoán còn
được
định
nghĩa

" Chứng
khoán là loại giát
tờ có giá và cố
thể mua
bân trên thị trường, gọi lã thị trường chứng khoán, khi
đó
chứng khoán là hàng hoa trên thị trường đó. Chứng khoán bao
gồm
cổ
phiếu trái
phiếu và một số loại khác như quyên
mua
cổ
phiếu mới, hợp đồng tương lai,
hợp
đồng quyền chọn,
chứng chỉ
quỹ đấu tu." [lị
1.2
Phân

loại
3
Bảo
hiểm
rủi
ro
chứng khoán
tại
một số
nước trên
thế
giới

bài
học
cho
Việt
Nam
Theo như các định nghĩa trên, chứng khoán được thể hiện dưới hình thức
chứng
chỉ,
bút toán
ghi
sổ
hoặc
dữ
liệu
điện
tử,
bao gồm các

loại
sau:
a. Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ:
Theo
Luật
Chứng khoán
* Cổ
phiếu:

loại
chứng
khoán xác
nhận quyền

lợi
ích hợp pháp của
người
sầ hữu
đối với
một
phần vốn
cổ
phần của
tổ
chức
phát hành.
Cụ
thể

khi

một công
ty
cổ
phần tự
huy động vốn thì số vốn cần huy
động
đó được
chia
thành
nhiều
phần
nhỏ
bằng
nhau
gọi
là cổ
phần.
Người
mua
cổ
phẩn
gọi
là cổ
đông.
cổ đông được cấp một
giấy
chứng nhận
sầ hữu cầ
phần
gọi

là cổ
phiếu.
Chỉ có công
ty
cổ
phần
mới phát hành cổ
phiếu.
Như
vậy,
cổ
phiếu
chính là một
chứng
thư
chứng minh quyền sầ
hữu
của
một cổ đông
đối với
một
công
ty
cổ
phần
và cổ đông có cổ
phẩn
thể hiện
bằng
cổ

phiếu.
Các cổ đông
sầ
hữu cổ
phiếu

quyền
hạn và trách
nhiệm
đối với
công
ty
như:
được
chia
cổ
tức
theo
kết
quả
kinh
doanh,
được
quyền
bầu
cử,
ứng cử vào
bộ
máy
quản

trị

kiểm
soát công
ty,

phải
chịu
trách
nhiệm
về sự
thua lỗ
của
hoặc
phá
sản
tương ứng vói
phẩn vốn
góp
của
mình.
Cổ
phiếu

thể
được
chia ra
làm 2
loại
chính như

sau:
• Cổ
phiếu
phẩm
chất
cao -
blue chips:
từ
lóng
blue chips
để ám
chỉ
những
cổ phiếu
của
các công
ty
lớn,
có ảnh
hưầng
trong
nền
kinh
tế,

mệnh
giá
tương
đối
cao từ

100.000
- 2
triệu
đồng và giá cả không bị
giao
động
mạnh.
Số
lượng
mua bán cổ
phiếu
này
chiếm
một
tỷ
trọng
khá
lớn trong
các phiên
giao
dịch,
có đặc tính
chuyển
thành
tiền
nhanh
chóng. Mức độ
rủi
ro
tương

đối thấp

trung
bình.
• Cổ
phiếu
phẩm
chất thấp
-penny
stocks:
penny
stocks

ám
chỉ
những
cổ
phiếu
của các công
ty nhỏ,
chưa có
tiềm
năng phát
triển
lớn hoặc
mới
thành
lập
đang tìm chỗ đứng
trong

thị
trường,
hoặc
thuộc
loại
khá
tốt
nhưng
bị
sự cố đưa đến hậu quả xấu
hoặc
gần như phá
sản.
Thông thường
mệnh
giá mỗi cổ
phần
rất thấp
9.000 đồng
hoặc
cao hơn từ
10.000
-
30.000
đồng.
Mức độ
rủi
ro
tương
đối

cao.
4
(ly.

Bảo
hiểm
rủi
ro
chứng khoán
tai
mót số
nước trên
thế
giới

bài
học
cho
Việt
Nam
*Trái
phiếu:

loại
chứng
khoán xác
nhận quyền

lọi
ích hợp pháp của

người
sở hữu
đối với
một
phần vốn
nợ
của
tổ
chức
phát hành.
Do
đó,
trái
phiếu
xác định
nghĩa
vụ
trặ
nợ
(bao
gồm
vốn
gốc và
lãi) của tổ
chức
phát hành trái
phiếu
đối
với
người

sở hữu trái
phiếu.
Khi mua trái
phiếu,
bạn
trở
thành chủ nợ
của
của
tổ chức
phát hành - còn
gọi
là bên vay (có
thể

Chính
phủ,
chính
quyền địa
phương
hoặc
các công
ty).
Với
tư cách

người
sở hữu
trái
phiếu

-
hay
còn
gọi

các
trái
chủ,
bạn sẽ
được
ưu tiên
thanh
toán tài sặn
khi
còng
ty
bị phá sặn trước các cổ đông. Tuy
nhiên,
bạn không được
tham
gia
vào các
quyết
định của
tổ chức
phát hành và
cũng
không được
chia


thêm ngoài
những
khoặn
tổ
chức
phát hành đã cam
kết.
Hiện
nay có
rất nhiều
các
loại
trái
phiếu
như T-
bonds
- trái
phiếu
kho
bạc; corporate
bonds
-
trái
phiếu
công
ty,
banhk
bonds
-
trái

phiếu
ngân hàng

Trái phiếu chính
phủ:

loại
trái
phiếu

theo
đó,
chính phủ
trung
ương
sẽ
thông qua ngân
khố hoặc
chính
quyển
các thành phố
lớn
phát hành trái
phiêu để tài
trợ
cho ngàn sách
hoặc
cho một dự án công ích nào
đó.
Với

chứng
khoán
loại
này
rủi
ro
rất
thấp

người
đầu tư thường được
huống
ưu đãi về
thuế.
Mệnh
giá mỗi trái
phiếu
thường là 10
triệu
đồng.
Giá cặ
giao
động và gắn
chặt
theo
chỉ
số
lãi
suất
trên

thị
trường.
Trái
phiếu
loại
này thường được
gọi

fix
income
bond-trái
phiếu

lọi
nhuận
cố
định.

Trái phiếu
công
ty
:

loại
trái
phiếu
mà các công
ty
phát hành
trái

phiếu
tài
trợ
các dự án phát
triển
hoặc
các chương trình
lớn.
Tuy
bối
cặnh,
các
công
ty
chọn
trái
phiếu
để ứng phó
với
tình hình
bất
lợi
cho sự
sống
còn
của
công
ty,
đôi
khi

còn được
gọi

junk
bonds-trái
phiếu

rủi
ro
cao.
So
với
trái
phiếu
chính
phủ,
loại
trái
phiếu
này cò mức lãi
suất
cao hơn
nhưng
lại
có mức
rủi
ro
tương
đối
cao.

Các
loại
stock,
bond
gọi
chung
bằng
từ
securities-chứng
khoán.
Các công
ty
cổ
phần
muốn
tham gia
vào
thị
trường
chứng
khoán
phặi
đăng kí để được
niêm
yết gọi

listing.
Cho nên một công
ty
đã được niêm

yết
(listed
company)
là công
ty
có tên trên
thị
trường
chứng
khoán.
Người
dân
muốn
mua cổ
phiếu
5
Bảo
hiếm
rủi
ro
chứng khoán
tai
mót

nước trên
thê
giới

bài
hoe

cho
Việt
Nam
của
các công
ty
này
phải
thông qua các công
ty giao
dịch chứng
khoán
gọi

securities
companies,
có một
đội
ngũ
những
người
môi
giới
chứng
khoán
gọi

stockbroker.
* Chứng
chỉ quỹ:


loại
chứng
khoán xác
nhận quyền
sở hữu của nhà
đẩu tư
đối
với
một
phằn vốn
góp
của
quỹ
đại
chúng,
do công
ty
quản lý
quỹ
đại
diện
cho một quỹ đằu

chứng
khoán
phát
hành.
b.
Quyền mua cổ phẩn, chứng

quyển,
chứng khoán phái
sinh (quyến
chọn
bán,
quyên chọn mua, hợp đồng
tương
lai,
hợp đồng
kì hạn),
nhóm chứng khoán
hoặc
chỉ
số chứng
khoán.
* Quyền mua cổ
phằn là
loại
chứng
khoán do công
ty
cổ
phằn
phát hành
kèm
theo đạt
phát hành cổ
phiếu
bổ
sung

nhằm đảm bảo
cho
cổ đông
hiện
hữu
quyền
mua
cổ
phiếu
mới
theo
những
điều
kiện
đã
được
xác
định.
* Chứng
quyền

loại
chứng
khoán được phát hành cùng
với
việc
phát
hành
trái
phiếu

hoặc
cổ
phiếu
ưu
đãi,
cho
phép
người
sở hữu chứng
khoán được
quyền
mua một
sổ cổ
phiếu
phổ
thông
nhất
định
theo
mức giá đã được xác định
trước
trong
thời
kỳ
nhất
định.
* Quyền
chọn
mua,
quyền chọn

bán là
quyền
được
ghi
trong
hợp đồng
cho
phép
người
mua
lựa
chọn quyền
mua
hoặc quyền
bán một
số
lượng
chứng
khoán được xác định
trước
trong
khoảng
thời
gian
nhất
định
với
mức giá được
xác
định

trước.
Hợp
đồng
tương
lai

cam
kết
mua
hoặc
bán các
loại
chứng
khoán,
nhóm
chứng
khoán
hoặc chỉ số chứng
khoán
nhất
định vói một số
lượng
và mức giá
nhất
đinh
vào
ngày xác
định
trước
trong

tương
lai.
1.3
Chứng
khoán phái sinh
ã.
Khái niệm
Nhắc đến
chứng
khoán,
mọi
người
thường
chỉ nghĩ
đến
những
cổ
phiếu
trái
phiếu
như
những
công cụ đằu

hiệu
quả,
trong
khi
thị
trường

chứng
khoán
còn
rất
nhiều
các công cụ
khác,
trái
phiếu
và cổ
phiếu
chỉ
là một
trong
số đó
Trong
đó,
chứng
khoán
phái
sinh

yếu
tố
quan
trọng
đằu
tiên
không
thể

bỏ
qua.
6
Bảo
hiểm
rủi
ro
chứng khoán
tai
mốt số
nước trẽn
thế
giới

bài
học
cho
Việt
Nam
Hiện
nay có
rất nhiều
cách định
nghĩa
về
chứng
khoán phái
sinh.
Theo
Ingersoll,

tác
giả cuốn
sách Lý
thuyết
ra
quyết
định tài chính -
Theory
of
Financial
Decision
Making
(1987)
thì "Một hợp đồng được
gọi
là chứng khoán
phái
sinh ịderivative security),
hoặc một
tài
sản
tài
chính
có giá
trị
phụ thuộc
nếu
giá
trị
của hợp đồng

tài
chính
đố
tại
thời
điểm đáo hạn T có
thề
được xác
định hoàn
toàn
bi giá
trị
thị
trưng
(thị giá)
của công cụ
tiên
mặt
(hay
tài
sản

bản)".
Theo
cách nhìn
này,
tại thời
điểm
đáo hạn
của

hợp đồng
chứng
khoán
phái
sinh
(kí
hiệu

T) thì
giá
của tài sản
phái
sinh
được xác định hoàn toàn
bởi
giá
thị
trường
của tài sản

bản.
Sau
thời
điểm
đáo hạn
này,
hợp đồng phái
sinh
cũng
chấm

dứt.
Nói cách
khác,
chứng
khoán phái
sinh
(derivatives)

những
công cụ được
phát hành trên cơ sở
những
công cụ đã có như
trái
phiếu,
cổ
phiếu
nhẩm
nhiều
mục tiêu khác
nhau
như phân tán
rủi
ro,
bảo vệ
lợi
nhuận
hoặc
tạo
ra

lợi
nhuận.
Các
chứng
khoán phái
sinh
sẽ là đòn bẩy làm tăng
nhiều lần
giá
trị
của các
đối
tượng
đầu tư như cổ
phiếu,
trái
phiếu;
đảm bảo
rẩng
giá của chúng có
thay
đổi
bao
nhiêu
thì
giá
của
các còng cụ phái
sinh
sẽ vẫn

duy
trì
ở mức ban đầu.
Do
đó,

thể
nói trước
khi
các công
ty
bảo
hiểm
chứng
khoán
ra đời
thì
các nhà đầu tư
chứng
khoán đã có cho mình các cách bảo
hiểm,
nhẩm hạn chế
phẩn
nào các
rủi
ro khi
đầu tư
chứng
khoán.
b.

Phân
loại
Thị
trường
chứng
khoán phái
sinh

thị
trường phát hành và mua đi bán
lại
các
chứng từ
tài chính, như
quyền
mua cổ
phiếu,
chứng
quyền,
hợp đồng
quyền
chọn.
Các công cụ phái
sinh rất
phong
phú đa
dạng,
nhưng nhìn
chung


bốn
công cụ chính là Hợp đồng kì hạn
(Forwads),
Hợp đồng tương
lai
(Futures),
Quyền
chọn
(Options)
và Hợp đồng hoán
đổi
(Swaps).
* Hợp đồng
tương lai(Futures):

việc thoa
thuận
giữa
các bên về
những
nghĩa
vụ mua bán
phải
thực
hiện
theo
mức giá đã xác định cho tương
lai

không phụ

thuộc
vào giá
thị
trường
tại
thời
điểm
đó.
7
Bảo
hiếm
rủi
ro
chứng khoán
tai
mót số
nước trên
thế
giới

bài
học
cho
Việt
Nam

dụ:
Vào đầu năm
2002,
công

ty
A kí hợp đồng tương
lai
với
công
ty
B
mua 100
tấn
gạo
với
giá 2USD/kg
với
thời
điểm
mua vào
cuối
năm
2003.
Như
vậy,
vào
thời
điểm
mua, công
ty
B
phải
bán cho công
ty

A 100
tấn
gạo
với
giá
2USD/kg và công
ty
A
phải
mua
với
giá đó cho dù giá gạo
tại thời
điểm
đó có
cao
hơn hay
thấp
hơn mức giá
thoa thuận
ban đầu.
Lúc
đầu, đối
tượng của cá hợp đồng tương
lai
trên
thị
trường là các mặt
hàng lúa
mì,

gạo hay cà
phê.
Các nhà đầu tư mua và bán các hợp đồng này
với
mục đích là
giảm bớt
sằ
lo ngại
xảy
ra
trước
nhũng
biến
cố
khiến
giá bị đẩy lên
cao
hay
xuống
thấp trong
khoảng
thời
gian
sau đó. Do đó hợp đồng tương
lai
thường
được các nhà đầu tư xem là một phương
thức
tốt
nhằm hạn chế

rủi
ro
trong
kinh
doanh.
Đến
thập
niên
80,
các hợp đồng tương
lai
bắt
đầu nở
rộ
và phổ
biến
trong
các
giao
dịch
thương
mại,
bao gồm
nhiều
loại
khác
nhau
như: Hợp
đồng
tương

lai
chỉ số
chứng
khoán
(index
íutures),
Hợp đồng tương
lai
lãi
suất
(interest
íutures),
Hợp đồng tương
lai
ngoại hối (currency
íutures)
* Hợp đồng

hạn
(Forward):
là một
thoa thuận

trong
đó mà một
người
mua và một
người
bán
chấp nhận

thằc hiện
một
giao
dịch
hàng hoa
với
số
lượng
xác
định,
tại
một
thời
điểm
xác định
trong
tương
lai
với
một mức giá được
ấn
định vào ngày hôm
nay.
Hàng hoa ở đây có
thể

bất
cứ
loại
hàng hoa nào

từ
nông
sản,
tiền
tệ
cho tói
chứng
khoán.
Điểm
khác
biệt
giữa
hợp đồng tương
lai
và hợp đồng kì hạn đó
là, trong
hợp đồng kì
hạn,
giá cả do
hai
bên
tằ thoa thuận
với
nhau
dằa
theo
những
ước lượng mang tính cá nhân và giá này vào
thời
điểm

giao
nhận
hàng hoa có
thể thay
đổi,
tăng lên
hoặc giảm xuống
so
với
mức giá đã

kết trong
hợp
đồng,
còn
với
hợp đồng tương
lai
thì
mức giá luôn là cố định
với
mức
giá ban đầu.
* Hợp đồng
quyền chọn
(Options):
Quyền
chọn

quyền

của các nhà đầu tư được mua hay bán một số lượng
cổ phiếu
xác định
trước
theo
một giá đã xác định
trước

thấp
hơn giá
hiện
hành
của
cổ
phiếu
đó trên
thị
trường.

hai
loại
quyền chọn
là Quyền
chọn
bán và Quyền
chọn
mua.
8
Bảo
hiểm

rủi
ro
chứng khoán
tai
mót số
nước trên
thế
giới

bài
học
cho
Việt
Nam
• Quyền
chọn bán: người
mua
option
sẽ
trả
cho
người
bán
quyền
một
khoản
tiền
gọi
là giá
tri

quyền chọn
hay phí
quyền chọn
(option
premium)

người
mua
quyền chọn
sẽ có
quyền
được mua (nhưng không
bắt buộc
phải
mua) một
lượng
tài
sản
nhất
định
(chứng
khoán,
ngoại
tệ,
hàng
hoa )
theo
một mức giá
đã được
thoa thuận

trước
tại thời
điểm đã xác định
trong
tương
lai.
Người
bán
quyền chọn
nhận
được
tiền
từ
người
mua
quyền chọn
nên họ có trách
nhiệm
phải
bán một lượng
chứng
khoán
nhất
định
theo
một giá cả đã được
thoa thuận
trước
vào một ngày xác định
trong

tương
lai
(hoặc

thể thổc hiện
trước ngày
đó)
khi
người
mua
quyển chọn
muốn
thổc hiện
quyền
được mua.

dụ:
Giá cổ
phiếu
của
IBM
trong
thời
điểm
hiện
tại
là 80
USD/cổ
phiếu,
sau

khi
phân
tích,
bạn dổ báo
rằng
giá sẽ tăng lên
trong
thời
gian
tới.
Vậy nếu
bạn
đầu tư 1000 cổ
phiếu
của IBM, bạn
phải chi
80.000
USD. Nhưng nếu một
thời
gian,
cổ
phiếu
IBM
giảm xuống
chỉ còn 40USD/cổ
phiếu
thì bạn sẽ mất
trắng
40.000
USD.

Trong
trường hợp
này,
để hạn
chế
rủi
ro

vẫn
thổ hiện theo
dổ báo,
bạn nên
thổc hiện
một hợp đồng
quyền chọn.
Cụ
thể
là bạn đi mua
quyền chọn
mua cổ
phiếu
IBM, giá
thoa thuận
trước là 80
USD/cổ
phiếu,
thời
gian
là 2 tháng, số lượng 1000 cổ
phiếu

vói mức phí
quyền chọn
là 2USD/cổ
phiếu.
Trong
thời
gian
này,
nếu giá cổ
phiếu
tăng lên 80USD/cổ
phiếu theo
đúng
như dổ đoán bạn có
thể
thổc hiện
quyền
được mua
chứng
khoán của mình
với
giá
thoa thuận
trước là 80USD/cổ
phiếu
và đem ra
thị
trường bán
với
giá

lOOUSD/cổ
phiếu
chẳng hạn. Khi đó,
bạn
sẽ

lợi
nhuận
là 2000USD và
sau
khi
trừ
đi
phí mua
quyền chọn
bạn vẫn có được 1800USD. Nhưng nếu giá cổ
phiếu
thay
vì tăng mà
lại
giảm
liên
tục
cho
tới
ngày đến hạn trên hợp đồng thì bạn có
quyền
không
thổc hiện
quyền chọn

mua
của
mình và bạn
chỉ bị
lỗ
2000USD
tiền
phí
thany
vì bị
lỗ
40.000USD nêu như bạn không
thổc hiện
họp đồng
quyền
chọn này.
Qua đây có
thể thấy,
người
mua
quyền chọn chỉ
bị
lỗ
ở một mức
giới
hạn

lợi
nhuận
nhận

được
thì
rất lớn.
Đây có
thể coi
là một cách
tổ
bảo
hiểm
cho
mình
khỏi
các
rủi
ro chứng
khoán mà
rủi
ro
về giá

rủi
ro
lớn nhất.
9
Bảo
hiểm
rủi
ro
chứng khoán
tại

một
số
nước trên
thế
giới

bài
học
cho
Việt
Nam
• Quyền chọn bán: Khi một nhà đầu tư lo lắng về giá chứng khoán có thể
sụt
giảm
họ có
thể
sử
dụng
quyền chọn
bán để
tự
bảo
vệ.
Cũng
với
ví dụ
trên,
với
100 cổ
phiếu

IBM
trị
giá 80USD/cổ
phiếu
trong
tay,
bạn có
thể
mua
quyền chọn
bán
với
mức phí
nhất
định để đảm bảo
rởng
trong
3 tháng
tới
bất
kì,
lúc nào bạn
cũng

thể
bán 100 cổ
phiếu
đó
với
mức

giá 80USD/CỔ
phiếu.
Do đó
nếu số
cổ
phần
bị
mất giá bạn
cũng
không
lo lắng

mình đã có
người cung
cấp
quyền chọn
bán bảo đảm mức giá cho mình. Và
người
cung cấp quyền chọn
được hưởng
lợi
từ
mức
phí quyền chọn.
Quyền
chọn
được phát
minh
dựa trên yếu
tố

các nhà đẩu tư ưa thích cảm
giác an toàn
khi
họ
chắc chắn
sẽ mua được và bán
với
giá ấn
định,
họ
thu
lợi
nhuận
không cao nhưng bù
lại
sẽ
rất
ổn
định.
Đối
tượng của
quyền chọn

thể

cổ
phiếu,
chỉ số
cổ
phiếu,

trái
phiếu,
lãi
suất
*
Hợp đổng hoán đổi
(Swaps):
Đây
cũng
là một công cụ phái
sinh
dựa
trên sự
trao
đổi

thực hiện
hợp đồng
trong
lĩnh
vực lãi
suất

tiền tệ.
Nhiều
công
ty,
ngân hàng muốn có hợp đồng hoán
đổi
để ấn định

tỷ
lệ
lãi
suất
nhởm
giảm
thiểu
bất
ổn
trong
kinh
doanh.
Ngoài
ra
hợp đồng hoán
đổi
cũng

vai
trò
lớn

hiệu
quả
trong
việc
huy động
vốn.
Một
ví dụ điển hình là vào đẩu

thập
niên
90,
Citi
Bank, Ngân hàng
lớn
nhất
tại
Mỹ đã mở
rộng
một số
hoạt
động đầu tư
sang Nhật
nên cần một lượng
Yên
Nhật
rất
lớn
trong
thời
gian
ngắn,
trong
khi
vốn của ngân hàng này
lại
không đủ đồng Yên. Các chuyên
gia
của

Nhật
đã
nghĩ
đến ngân hàng Chiíòn
Bank
của
Nhật.

Citi
Bank đã
thoa thuận
một hợp đồng hoán
đổi
với
Chiíon
Bank,

theo
đó,
Citi
Bank
chuyển
cho Chiíon Bank một lượng USD
nhất
định,
đổi lại
Chiíon Bank
sẽ cung cấp
đồng Yên
cho

hoạt
động đầu tư
của
Citi
Bank
tại
Nhật.
Nhờ
vậy,
chỉ
trong
vòng
24h,
Citi
Bank đã có đủ vốn cần
thiết
cho
hoạt
động
đầu tư
tại
đây.
Như
vậy,
hợp đồng hoán
đổi
là một hợp đồng
song
phương,
theo

đó,
các
nhà đầu tư
sẽ
trao
cho
nhau
vào một ngày
nhất
định một
số
lượng
nhất
định đồng
tiền
của một
quốc
gia
để
đổi
lấy
một số lượng
nhất
định đồng
tiền
của
quốc gia
10
Bảo
hiểm

rủi
ro
chứng khoán
tại
một số
nước trên
thế
giới
và bài hoe
cho
Việt
Nam
thứ
hai
đã được quy
đổi theo tỷ
giá
ngoại tệ hiện
tại
trong
một
thời
gian
xác định
với
điều
kiện
hoàn
lại
vốn khi

thời
gian
đáo
hạn.

thể nói,
các công cụ phái
sinh
đang ngày càng phổ
biến
và được áp
dụng
nhiều
hem bao
giờ hết đối với
tất
cả các
loại
hàng hoa chính trên
thị
trường
chứng
khoán,
từ
cổ
phiếu,
trái
phiếu
cho
tới tiền

tệ
và các hàng hoa như các sản
phẻm nông
nghiệp Sự
phổ
biến
của các công cụ phái
sinh
trên
thị
trường
xuất
phát
từ
tính
linh
hoạt
và mềm dẻo
của
các công cụ này so
với
các công cụ khác.
Lợi
nhuận
của các công cụ này được hình thành từ chính giá của
những
sản
phẻm mà nó
điều
chỉnh.

Và đây có
thể
được
coi
là một
điểm
mạnh
về tính mềm
dẻo

linh
hoạt
của công cụ này
bởi lẽ
nó giúp cho các Ngân hàng
cũng
như
các
doanh
nghiệp
không
phải tranh
cãi về giá
trị
thực tế của tài sản
và cùng đầu
cơ dựa vào sự
biến
động giá
của

chúng.
Cũng
từ đó,
để tránh
những
rủi
ro
về giá
cả,
các công cụ phái
sinh
này luôn được
khai
thác một cách
triệt
để
bằng
cách
từ
việc
mua các
chứng
khoán phái
sinh,
các nhà đầu tư đang mạo
hiểm
rằng
thị
trường
sẽ

biến
động
theo chiều
hướng
ngược
lại
với
mong
muốn
của
mình,
từ
đó
các nhà đầu tư có
thể
vừa có
thể thu
lợi
nhuận
nếu giá cổ
phiếu
lên vừa đảm bảo
sẽ
không
thua lỗ trong
trường hợp cổ
phiếu
mất
giá.
Nói cách

khác,
khi
đầu tư
chứng
khoán,
tức là
họ đang đứng
trước
rất
nhiều
các
rủi ro,
và đây chính

cách
họ

thể
bảo
hiểm
cho chính đồng
vốn của
mình.
Trên
thực
tế,
việc
đầu tư vào các công cụ phái
sinh
vẫn chưa được

nhiều
các nhà đầu tư chú
ý, bởi
nếu các nhà đầu tư mạo
hiểm
mua
thật
nhiều
cổ
phiếu
mà không băn khoăn về khả năng
thua lỗ
của
loại
cổ
phiếu
đó thì họ có
thể
sẽ
thu
về hàng
triệu
USD
lợi
nhuận,
trong khi
đầu tư vào các công cụ phái
sinh,
tuy
đảm bảo sẽ không bị

thua lỗ
nhưng các bên
cung
cấp công cụ phái
sinh
trên
thị
trường
thường bị
giới
hạn một
lượng
cung
cấp
nhất
định đồng thòi yêu cầu mức
phí khá
cao,
nên các nhà đầu tư
chỉ thu
về một
lượng
lợi
nhuận
nhỏ hơn
rất
nhiều.
Thông
thường,
thị

trường sẽ không
biến
dộng
nhiều
như dự đoán của các
nhà đầu tư
khi
áp
dụng
công cụ phái
sinh,
nên đa
phần
các nhà đầu tư thường
li
Bảo
hiểm
rủi
ro
chứng khoán
tại
một số
nước trên
thế
giới

bài
học
cho
Việt

Nam
tiếc
nuối
vì đã bỏ qua một
khoản
lợi
nhuận
hơn là
mừng
cho
việc
bảo
hiểm
khoản
đầu
tư của
mình.
Tuy
nhiên, tính tích cực của
những cộng
cụ
chứng
khoán phái
sinh
vẫn
ngày càng hờp dẫn các nhà đầu tư đặc
biệt

trong bối
cảnh

kinh tế thị
trường
nhiều
biến
động như
hiện
nay
.và một sự
thật
nữa đó
là,
không
ai
phủ
nhận
rằng
các công cụ phái
sinh
này
cũng
giúp
nhiều
nhà đầu tư bảo vệ được các
khoản
đầu

của
mình
trước
những

rủi
ro
không
lường
trước.
2.
Thị
trường
chứng
khoán
2.1.
Lịch
sử
hình thành

phát triển
của
thị
trường chứng khoán trên
thế giới
Thị
trường
chứng
khoán là yếu
tố
cơ bản của nền
kinh tế thị
trường
hiện
đại.

Đến
nay,
hầu
hết
các
quốc
gia
có nền
kinh tế
phát
triển
đều có
thị
trường
chứng
khoán.
Thị trường
chứng
khoán đã
trở
thành một định
chế tài
chính không
thể
thiếu
được
trong đời
sống
kinh tế
của những

nước
theo

chế
thị
trường.
Vào
khoảng
giữa
thế
kỷ 15 ở
tại
những
thành phố
trung
tâm buôn bán của
phương Tây, các thương
gia
thường
tụ
tập
tại
các quán cà phê để thương
lượng
việc
mua
bán,
trao đổi
các
loại

hàng hoa
như:
nông
sản,
khoáng
sản,
ngoại
tệ

giá khoán động sản

Điểm
đặc
biệt

trong
những cuộc
thương
lượng
này các
thương
gia
chỉ
dùng
lời
nói để
trao
đổi
với
nhau,

không có hàng
hoa,
ngoại
tệ,
giá khoán động sản hay
bờt
cứ một
loại
giờy
tờ nào.
Những
cuộc
thương
lượng
này nhằm
thống
nhờt
vói
nhau
các "Hợp
đồng"
mua
bán,
trao đổi
thực
hiện
ngay,
kể
cả
những

hợp đồng cho tương
lai
3
tháng,
6 tháng
hoặc
một năm
sau
mới
thực
hiện.
Những
cuộc
trao đổi
này lúc đầu
chỉ
có một nhóm
nhỏ,
dần dần số
người
tăng
lên.
Đến
cuối thế
kỷ 15
"khu
chợ
riêng"
này
trở

thành một
"thị
trường"

thời
gian
họp chợ rút
xuống
hàng
tuần

sau
đó là hàng ngày.
Trong
các phiên
chợ
này họ
thống
nhờt
với
nhau những
quy ước cho các
cuộc
thương
lượng.
Dẫn
dần những
quy ước đó được
tu
bổ hoàn

chỉnh
thành
những
quy
tắc
có giá
trị
bắt
buộc
đối với
những
người
tham
gia.
Từ đó
thị
trường
chứng
khoán
bắt
đầu hình
thành.
12
Bảo
hiếm
rủi
ro
chứng khoán
tai
mót


nước trên
thế
giới

bài
hoe cho
Việt
Nam
Phiên chợ đầu tiên năm 1453
tại
Vanber
của Bỉ sau đó được
xuất
hiện

Anh
năm
1773,
ở Đức
1778,
ở Mỹ
1792,

Thụy

1876,

Nhật 1878,
ở Pháp

1801,
ở Hương
cảng 1946,
ở Inđônêxia
1925,
ở Hàn Quốc
1956,
ở Thái Lan
1962,

Malaysia

Philipin
1963.
Quá trình hình thành và phát
triển
của
các
thị
trưỳng
chứng
khoán
thế
giới
đã
trải
qua
những
bước thăng
trầm. Thỳi

kỳ huy hoàng vào
những
năm 1975 -
1913
cùng
với
sự phát
triển
thịnh
vượng của nền
kinh
tế.
Cũng có lúc
thị
trưỳng
chứng
khoán
rơi
vào đêm đen như ngày
thứ
năm đen
tối
tức
ngày
29/10/1929
rồi
ngày
thứ hai
đen
tối

năm
1987, vừa
qua tháng 7/97
thị
trưỳng
chứng
khoán ở các
nước
Châu á
sụt
giá,
mất lòng
tin
bắt
đầu
từ
Thái
Lan.
Đến nay
thị
trưỳng
chứng
khoán các nước đang phát
triển
mạnh
mẽ về
số
lượng
thị
trưỳng

chứng
khoán lên
đến
160 sở
giao
dịch,
chất
lượng
hoạt
động
thị
trưỳng ngày càng đáp ứng cho số
đông
những
nhà đầu tư
trong
và ngoài
nước,
tiến tới
một
thị
trưỳng
chứng
khoán
hội
nhập khu vực

quốc
tế.
Hiện

nay
thị
trưỳng
chứng
khoán đã phát
triển
mạnh
mẽ ở hầu
hết
các
nước
công
nghiệp
hàng đầu Mỹ,
Nhật,
Anh,
Đức,
Pháp
Bên
cạnh
đó hơn 40
nước
phát
triển
đã
thiết
lập
thị
trưỳng
chứng

khoán
cũng
đã hình thành ở các
nước
láng
giềng
Việt
Nam như
Singapore, Malaysia,
Thái Lan,
Philipin

Inđônêxia và
Việt
Nam
cũng
đã có
Trung
tâm
giao
dịch chứng
khoán Hà Nội
được
thành
lập
vào ngày
11/7/1998
và nay là Sở
Giao dịch chứng
khoán Hà Nội


Trung
tâm
giao
dịch
thị
trưỳng
chứng
khoán thành phố Hồ Chí
Minh
được
thành
lập
vào
7/2000.
2.2
Khái niệm
Hiện
nay khái
niệm
thị
trưỳng
chứng
khoán đã
trở
nên khá
quen
thuộc
đối
với

hầu
hết
tất
cả mọi
ngưỳi
đặc
biệt
là những
ngưỳi
hoạt
động
trong
môi trưỳng
kinh
doanh
tài chính. Tuy vậy
cũng
có khá
nhiều
các định
nghĩa
về
thị
trưỳng
chứng
khoán
(TTCK).
Theo
nghiên cứu của các nhà chuyên môn thì
thị

trưỳng
chứng
khoán có
tiếng
Latinh

Btursa,

nghĩa là "cái ví
đựng
tiền!
Còn
gọi

"Sở
giao
dịch chứng
13
Bảo
hiểm
rủi
ro
chứng khoán
tại
một số
nước trên
thế
giới

bài

học
cho
Việt
Nam
khoán". Đó là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều khiển (The Stock
Exchange- dịch ra
tiếng
Việt

thị
trường
chứng
khoán,
theo
chữ
Hán là
chứng
khoán
giao
dịch
sở,
Sở
là nơi
chốn,
còn
giao
dịch là
hoạt
động
mua

bán
trao
đổi).
Theo
"Longman
Dictionary
of
Business
English-1985" (
Từ
điển
kinh tế-
Nhà
xuất
bản Longman
năm
1985)
thì
TTCK
được định
nghĩa
như
sau:
"An
organized
market
Where
Securities
are Bought
Sold

undiel
fixed
rule".
Dịch ra
tiếng
Việt
đó

một
thị
trường có
tổ
chức là
nơi
chứng
khoán được
mua
bán tuân
theo
những
qui tắc
đã ấn định.
Giờ
đây, chứng
ta

thể hiểu
TTCK
là một
thị

trường
mà ở
nơi
đó
người
ta
giao
dịch
mua
bán
chuyển
nhượng,
trao
đổi
chứng
khoán nhớm
mục
đích
tìm
kiếm
lợi
nhuận.
2.3
Phân
loại

rất
nhiều
cách phân
loại

thị
trường
chứng
khoán.
Dưới
đây,
chúng
ta

thể
xem
xét các
loại
thị
trường
chứng
khoán
theo
các
góc độ
về pháp
lý,
phương
thức giao
dịch
và qua trình
vận
động
của
TTCK

để có
thể hiểu
rõ hơn về các
hoạt
động
trên
thị
trường này.
a. Xét
về phương
diện
pháp
lý,
TTCK được
chia thành
thị
trường
tập
chung

thị
trưởng
phi tập
trung

Thị
trường
chứng
khoán
tập

trung

thị
trường
hoạt
động
theo
đúng
các
qui
định
của
pháp
luật,
là nơi
mua
bán các
loại
chứng
khoán
đã
được niêm yết-là
loại
chứng
khoán
đã
được

quan


thẩm quyền
cho phép bảo đảm, phân
phối

mua bán
qua
trung gian,
tức

đã
hội
đủ
các tiêu
chuẩn
quy
định.
Hình thái
điển
hình
của
TTCK
tập
chung là
Sở
giao
dịch chứng
khoán.

Thị
trường

chứng
khoán
phi tập
trung
(OTC-Over
The
Counter):

thị
trường
mua bán
chứng
khoán ngoài sở
giao
dịch,
không

địa
điểm
tập
trang
các nhà môi
giới,
những
người
kinh
doanh chứng
khoán như
tại
sở

giao
dịch.
Các
giao
dịch

đây chủ yếu là dựa vào sự
thoa thuận giữa
người
mua và
người
bán,
không

sự
kiểm
soát của
Uy
ban
chứng
khoán.
Các
loại
chứng
khoán thường
được
mua
bán đầu
tiên


thị
trường này
trước
khi ra thị
trường
tập
trang.
14
Bảo
hiểm
rủi
ro
chứng khoán
tai
mót số
nước trên
thế
giới

bài
học cho
Việt
Nam
b. ỵẻt
về
quá
trình
vận
chuyển chứng
khoán,

TTCK được chia thành
thị
trường

cấp

thị
trường
thứ cấp.

Thị
trường

cấp:
còn
gọi

thị
trường
cấp
một hay
thị
trường phát hành,

thị
trường
diễn ra
các
hoạt
động

mua
bán
chứng
khoán mới phát hành
lần
đầu.
Thị
trường sơ
cấp là
thị
trường
tạo
vốn cho
đơn
vị
phát hành.
• Thị trường
thứ cấp:
còn
gọi

thị
trường
cấp
hai
hay
thị
trường lưu thông,
là nơi
diễn ra

các
giao
dịch
mua
bán
chứng
khoán
sau
khi
đã
phát hành
lần
đầu.
Nói cách khác,
thị
trường
thứ
cấp

thị
trường
mua đi bán
lại
các
loại
chứng
khoán đã phát hành
qua
thị
trường sơ

cấp.
c.
ỵẻt
về phương
thức giao dịch,
TTCK được
chia thành
thị
trường giao
ngay

thị
trường giao
sau

Thị
trường
giao
ngay

thị
trường
mua
bán
chứng
khoán
theo
giá
tại thời
điểm

giao
dịch
nhưng
việc
thực hiện thanh
toán

giao
hàng

thể diễn
ra
sau
đó một vài ngày
theo thoa thuận.

Thị
trường
giao sau:

thị
trường
mua
bán
chứng
khoán
theo
một
loại
hợp

đặng
định
sẵn,
giá cả
được
thoa thuận trong
ngày
giao
dịch,
nhưng
việc
thanh
toán và
giao
hàng
xảy
ra trong
một
thời
hạn
trong
tương
lai.
Ngoài
ra,
nếu căn cứ vào đặc
điểm
hàng hoa lưu hành trên
TTCK
thì

chúng
ta
còn có
thể
chia
TTCK
thành
thị
trường
cổ
phiếu,
thị
trường trái
phiếu,
thị
trường
các công cụ phái
sinh
li
Hoạt
động
bảo
hiểm
rủi
ro
chứng
khoán
1.
Rủi
ro

chứng
khoán
1.1
Khái niệm
Trong
nền
kinh tế
thị
trường,
không

hoạt
động đầu tư
kinh
doanh
nào
lại
không

rủi
ro.
Lợi
nhuận
càng cao thì
rủi
ro
càng
lớn,
nói
cách

khác,
lợi
nhuận
luôn
đi kèm
với
rủi
ro.

đầu

chứng
khoán
cũng
chịu
tác động
của
quy
luật
này,
hơn
thế

lại
ở mức
sâu
đậm
hơn,

rệt

hơn.
15
Bảo
hiểm
rủi ro
chứng khoán
tại
một số
nước trên
thế
giới

bài
học
cho
Việt
Nam
Rủi ro
trong
đầu tư chúng khoán được
hiểu
là khả năng xảy ra
nhiều
kết
quả
ngoài dự
kiến,
hay nói cách khác, mức
sinh lời
thực

tế nhận
đựoc
trong
tương
lai

thể
khác so vói dự tính ban
đầu.
Mức
giao
động của
lợi
suất
đầu tư
càng cao
thì
rủi
ro
càng cao và ngược
lai.
Theo các lý
thuyết
trước
đây, người
ta
chỉ
quan niệm
rủi
ro


những
yếu
tố
làm cho mức
sinh
lợi
giảm
đi nhưng
hiện
nay,
quan
điểm
này đã
thay đại.
Người ta
cho
rằng
tất
cả mọi yếu
tố
làm cho
mức
sinh
lợi
thay đại
so
với
dự
tính,

dù làm tăng hay
giảm cũng
đều được
coi

rủi
ro.
1.2
Các
loại
rủi ro
chứng khoán
Hoạt
động
chứng
khoán là một
hoạt
động
phức
tạp
gắn
với nhiều
chủ
thể,
nhiều đối
tượng tác động qua
lại
lẫn
nhau.
Do

đó,
trong
mỗi mối
quan
hệ
lại
nảy
sinh
các
vấn
đề
trong
đó có cả
những
rủi ro.
Một
số
rủi
ro
phát
sinh từ nội
tại
của
công
ty
phát hành và có
thể
kiểm
soát được ở mức tương
đối.

Những
rủi
ro
loại
này được
gọi
là các
rủi
ro
phi
hệ
thống.
Ngoài
ra
còn có các
rủi
ro
không
kiểm
soát được và có ảnh hưởng sâu
rộng
tói toàn
thị
trường và được
gọi
là các
rủi
ro
hệ
thống.

Trong
rủi
ro hệ
thống

rủi
ro
phi
hệ
thống
còn có các
loại
rủi
ro
khác.
a.
Rủi ro hệ
thống
Rủi
ro hệ
thống

rủi
ro tác động đến toàn bộ hay hầu
hết
các
chứng
khoán.
Sự
bấp

bênh
của
môi trường
kinh tế
nói chung
như sự
sụt
giảm
GDP,
biến
động
lãi
suất,
tốc
độ lạm phát
thay đại

những minh chứng
cho
rủi
ro hệ
thống.
Những
biến
động này tác động đến giá cả của các
chứng
khoán trên
thị
trường
.

Rủi
ro
hệ
thống
bao gồm
rất
nhiều
các
rủi
ro.

Rủi
ro thị
trường
Trong
rủi
ro hệ
thống
trước
hết
phải
kể đến
rủi
ro
thị
trường.
Rủi ro
thị
trường
xuất

phát do
phản
ứng của các nhà đẩu tư
đối với
các
hiện
tượng trên
thị
trường.
Những sự
sụt
giảm
đầu tiên trên
thị
trường

nguyên nhân gây sợ
hãi đối
với
các nhà đầu tư và họ sẽ cố
gắng
rút vốn về càng
nhanh
càng
tốt.
Phản ứng
dây
truyền
này làm tăng số lượng
bán,

kéo giá
chứng
khoán rơi
xuống
thấp
hơn
giá
tri

sở
của
nó.
16
Bảo
hiểm
rủi
ro
chứng khoán
tại
một số
nước trên
thế
giới

bài
học
cho
Việt
Nam


Rủi ro lãi
suất
Giá cả
chứng
khoán
thay đổi
do lãi
suất thị
trường
giao
động
thất
thường
gọi

rủi
ro lãi
suất.
Giữa lãi
suất thị
trường và giá cả
chứng
khoán có mối
quan
hệ tỷ
lệ
nghịch.
Khi lãi
suất thị
trường

tăng,
người
đầu tư có xu
hướng
bán
chứng
khoán để
lấy
tiền
gại
vào Ngân hàng dẫn đến giá
chứng
khoán
giảm
và ngược
lại.
Ngoài hệ quả
trực
tiếp
đối với
giá
chứng
khoán,
lãi
suất
cũng
ảnh
hưởng
gián
tiếp

đến giá cổ
phiếu
thường.
Khi lãi
suất
tăng làm giá cổ
phiếu
giảm.
Nhiều
công
ty
kinh
doanh chứng
khoán
hoạt
động chủ
yếu bằng vốn
đi
vay thì
với
mức
lãi
suất
giảm cũng
làm
cho
chi
phí
vốn
tăng.

Theo
cách khác,
rủi
ro lãi
suất
nói đến sự không ổn định
trong
giá
thị
trường

số
tiền
thu
nhập
trong
tương
lai.
Nguyên nhân
cốt
lõi của
rủi
ro lãi
suất

sự lên xuống của lãi
suất
chuẩn (lãi
suất
của

trái
phiêu chính
phủ) khi
đó
sẽ

sự thay đổi
trong
mức
sinh
lời

vọng của
các
chứng
khoán
khác,
đó là các
loại
cổ phiếu
trái
phiếu
công
ty.
Các nhà đầu tư thường
coi
túi
phiếu
Kho bạc là không
rủi ro.

Các
loại
trái
phiếu
chính phủ kỳ hạn dài
thì
không có
rủi
ro thanh
toán(nhưng
vẫn

rủi
ro
về
giá).
Các mức
lãi
suất
trái
phiếu
kỳ hạn khác
nhau
được dùng làm
chuẩn
để xác
đinh lãi
suất
của các
loại

trái
phiếu
khác có
thời
hạn đáo hạn tương
tự.
Do
vậy,
những
thay đổi
trong
lãi
suất
trái
phiếu
Chính phủ sẽ ảnh
hưởng
tới
toàn bộ hệ
thống
chứng
khoán,
từ
trái
phiếu
cho
tới
các
loại
cổ

phiếu
rủi
ro
nhất.
Như
vậy,
ta
thấy
có sự ảnh
hưởng
của
việc
thay đổi
lãi
suất
do các
loại
công cụ liên hệ
với
nhau.
Sự tăng lên hay
giảm
đi của lãi
suất
chuẩn
đều ảnh
hưởng
tới
toàn bộ hệ
thống.

Hệ quả
trực
tiếp
của
việc
tăng,
giảm
lãi
suất
chuẩn
đó là giá cả của các
loại
chứng
khoán khác
sẽ
biến
động gây hậu quả cho các nhà đầu tư.

Rủi ro
sức
mua
Một
yếu
tố
rủi
ro
hệ
thống
khác không kém
phần quan

trọng

rủi
ro
sức
mua.
Rủi ro
sức mua là tác động
của
lạm phát
tới
các
khoản
đầu
tư. Lợi tức thực
tế
của chứng
khoán đem
lại

kết
quả
giữa
lợi
tức
danh nghĩa sau
khi
khấu
trừ
đi

lạm
phát.
Như
vậy, khi
có tình
trạng
lạm phát thì
lợi
tức thực tế
giảm.
Hay
giải
LY
-0ìn
z

gogg
17
Bảo
hiểm
rủi
ro
chứng khoán
tai
mót số
nước trên
thế
giới

bài

học cho
Việt
Nam
thích
theo

thuyết hiện
tại
hoa giá
trị
một đồng
lợi
tức
của hôm nay thì
trong
tương
lai
không còn giá
trị
một đồng nữa do tác động
của
lạm phát.
• Bên
cạnh
các
rủi
ro
trên,
trên
thị

trường
chứng
khoán còn có các
rủi
ro
hệ
thống
khác.
- Rủi ro do
tính thanh
khoản
thấp:
đây là một
trong
các
rủi
ro
mà các nhà
đầu

chứng
khoán có
thể
gặp
phải.
Tính
thanh
khoản
thấp
của chứng

khoán mà
các nhà đầu tư đang
sọ
hữu có
thể
do
chứng
khoán đó khó
hoặc thậm
chí không
thể
bán
được,
hoặc
không được phép bán hay
chuyển
nhượng nhằm
thu hồi
vốn
đầu tư.
Đó là do
chứng
khoán đã mua là
chứng
khoán của một công
ty
có tình
trạng
tài
chính

thiếu
lành
mạnh

triển
vọng cung
cấp các yếu
tố
đầu vào
cũng
như
khả
năng
tiêu
thụ
sản
phẩm
thiếu
hiệu
quả.
Thậm
chí,
chỉ cần một sự
thay
đổi
nhân sự cấp cao
trong
công
ty cũng
khiến

cho giá
chứng
khoán đó
sụt
giảm hoặc
biến
động mạnh. Và
rủi
ro
đối với
các nhà đầu tư
chứng
khoán là
tối
đa
khi
công
ty
phát hành
chứng
khoán bị phá
sản

biến
mất trên thương
trường.
Với
thuật
ngữ "bỏ
hết

trứng
vào một
giỏ",
hẳn
cũng
không còn
nhiều
người
xa
lạ
với
tính
rủi
ro
này.
Và nhà đàu tư
chứng
khoán
cũng

thể
phải
chịu
rủi
ro đó.
Thậm
chí,
việc
sọ
hữu

thuần tuy
các cổ
phiếu
ưu đãi mà không
chuyển
nhượng
trong
thời
gian
nhất
định
(3-5
năm
theo
như
Luật
Doanh
nghiệp
Việt
Nam quy
định)
thì
cũng

thể
khiến
các nhà đầu tư gặp
rủi
ro,
nhất


khi
cần
tiền
trả
lãi vay
Ngân hàng
hoặc
muốn
rút vốn
về để đầu tư vào
chỗ
khác.
Ngay
cả
với
những
chứng
khoán
tốt
nhất
cũng
không
thể
giữ
vững
được
những
vị
thế

lâu dài trước
những
biến
động của
thị
trường.
Điều
này
cũng
đồng
nghĩa
với
việc
các nhà đầu tư
phải
chịu
cả
hai
dạng
thiệt
hại

"khấu
hao vô
hình"

"khấu
hao hữu hình"
với
giá

trị
và tính
thanh
khoản
của các
khoản
đầu
tư mà họ đang nắm
giữ.
- Rủi ro
từ
thông
tin:
trên
thị
trường
hiện
nay,
thật
hiếm

hoạt
động
kinh
doanh
nào mà sự thành
bại
của
nhà đầu tư
lại

đòi
hỏi
và gắn
liền
với
yêu cầu về
tính đa
dạng,
tính hệ
thống,
toàn
diện,
cập
nhật,
và chính xác của các thông
tin
liên
quan
trực
tiếp
và gián
tiếp
như
hoạt
động đầu tư
chứng
khoán.
18
Bảo
hiểm

rủi
ro
chứng khoán
tai
mót số
nước trên
thế
giới

bài
học
cho
Việt
Nam

thể
nói,
một nhà đầu tư
chứng
khoán
điển
hình là một nhà đầu tư luôn
nhạy
cảm trước mọi thông
tin
từ
thị
trường,
luôn
cảnh

giác đề phòng
với
các
thông
tin
đó, quan
hệ
rộng
.Và
trong
số
họ, ai
nắm được thông
tin tốt
hơn
thì
sẽ
giành
chiến
thắng

giảm
thiểu
nhiều
rủi
ro
hơn.
Nói cách
khác,
rủi

ro
trong kinh
doanh chứng
khoán có
nguẩn
gốc
rất
sâu
đậm
từ
số
lượng

chất
lượng
thông
tin
mà nhà đẩu tư
cần
để làm cơ sở đưa
ra
các
quyết
định đầu
tư. Rủi ro
luôn rình
rập
ở mọi
nơi.
Và nếu không nắm được

chính xác các thông
tin
thì có
thể
nhà đầu tư sẽ
phải trả
giá cho các
quyết
định
sai
lầm
của
mình.
Ví dụ
như:
một báo cáo
tài
chính
hoặc
một cáo
bạch
chưa được
kiểm
toán,
thẩm
định
bởi
các
tổ
chức tài

chính chuyên
nghiệp
và có uy
tín,
trình độ chuyên
môn
cao;
hay một thông
tin
đến chậm không chính xác đều có
thể
ảnh
hưởng
đến
các
quyết
định và gây
thiệt
hại
khôn
lường
cho các nhà đầu tư.
- Rủi ro
từ các
quy
định

chất lượng dịch
vụ sàn
giao dịch:

như chúng
ta
đã
biết,
một đặc
điểm
của
hoạt
động
kinh
doanh chứng
khoán đó là
phải
thông
qua
các
tổ chức
trung gian,
môi
giới
nên các nhà đầu tư
cũng

thể phải
chịu
nhiều
rủi
ro
liên
quan

đến các quy
định,
quy trình
nghiệp
vụ và
chất
lượng
dịch
vụ
của các
tổ
chức
trung gian.
Trong
đó,
chúng
ta

thể thấy

nhất
đó là các
rủi
ro liên
quan
đến
việc
tổ chức khớp
lệnh
và phân

lô,
giao
cổ
phiếu
trên
thị
trường
chứng
khoán có
tổ
chức.
Việc
khớp
lệnh
định kỳ có
thể
gây
rủi
ro
cho các nhà đầu tư

họ không
thể
huy
ngang
lệnh
đã
đặt
trước
khi kết

thúc phiên
khớp
lệnh,
bất chấp
những
biến
động mới
bất
lợi
trên
thị
trường lúc
đó,
nếu họ không
muốn
chịu
phạt
về sự
thay đổi
của
quyết
định
này.
Khớp
lệnh
định kì có
thể
gây
rủi
ro

cho các nhà đầu


dễ gây tình
trạng
cung
cầu ảo trên
thị
trường và cả tình
trạng
nghẽn
mạch
quá
tải
hoặc
phân
biệt
đối
xử
theo kiểu
bỏ
rơi
nhà đầu tư
nhỏ
ở sàn
giao
dịch.
Tuy
vậy, việc
khớp

lệnh
định kỳ này
cũng

thể tạo

hội
để các nhà đầu

giảm bớt
thiệt
hại khi
huy
lệnh
đã
đặt
sau
khi
khớp
lệnh
đối
với
các
chứng
khoán còn dư chưa xử lý
hết trong
phiên
giao
dịch
mà họ

tham
dự gần
nhất.
Mặt
khác,
mặc dù
với việc
khớp
lệnh
liên
tục,
các nhà đầu tư có
thể đặt
lệnh thận
Bảo
hiểm
rủi
ro
chứng khoán
tai
mót số
nước trẽn
thế
giới

bài
học
cho
Việt
Nam

trọng,
chính xác
hơn,
nhu cầu mua bán được
giải
quyết nhiều
hơn, nhanh
chóng,
bình
đẳng,
giảm
thiểu
tình
trạng
cung
cầu ảo trên
thị
trường
song
lại

thể
gây
rủi
ro
cho họ ở
chỗ:
khớp
lệnh
liên

tục

giao
dịch
trên cơ sở
khớp
lệnh
liên
tục
các
lệnh
mua và bán
ngay
khi lệnh
được
nhập
vào hệ
thấng
giao
dịch,
không
phải
chờ đến
thời
điểm
định kỳ như
kiểu
khớp
lệnh
định

kỳ.
Trên cơ sở này,
quyền
ưu tiên luôn dành cho các
lệnh
mua có mức giá cao hơn và
lệnh
bán có
mức giá
thấp
hơn.
Trường hợp các mức giá
bằng nhau thì quyền
ưu tiên cho
lệnh
nào
nhập
vào hệ
thấng
trước.
Đến
đây,
rủi
ro của
nhà đầu tư có
thể
gặp đó
là:

thể

lệnh
mua, bán của họ bị
nhập
vào hệ
thấng
chậm hơn so
với
các nhà đầu tư
khác có
lệnh
tương
tự,
hoặc
do họ
phải
mua, bán
bằng
hết
các
chứng
khoán đã
đặt lệnh với
mức giá làm
giảm
lợi
nhuận
đầu tư
của
mình.
- Rủi ro

từ các
chấn động
thị
trường:
một
trong
các
rủi
ro
dễ
thấy
nhất
đó

rủi
ro
có liên
quan
đến các
chấn
động
thị
trường
trong
nước
hoặc
nước ngoài
mà các nhà đầu tư
chứng
khoán,

nhất
là các nhà đầu tư nhỏ có
thể
phải
gánh
chịu.
Các
rủi
ro
này không
chỉ
xảy
ra
đấi với
các nhà
kinh
doanh chứng
khoán

với
hầu
hết
các
hoạt
động
kinh
doanh
khác.
Nguyên nhân


bởi:
* Thứ
nhất,
các trào lưu mua, bán
chứng
khoán
theo
tâm lý làm phá vỡ
các quy
luật
vận
động bình thường
của
thị
trường.
Đó là
điều
dễ
thấy
nhất
bởi lẽ
thị
trường
chứng
khoán là
thị
trường mà
hoạt
động của nó
diễn

ra có tính xu
hướng
theo
đám đông.
* Thứ
hai
là do các
hoạt
động đầu
cơ,
tung
tin
đồn
thất
thiệt,
gây
nhiều
thông
tin

tự
đánh bóng thông
tin
thậm
chí là thông đồng
với
các nhà đầu tư
gây
biến
động

thị
trường nhằm
trục
lợi.
Ngoài
ta
còn có các
chấn
động
thị
trường khác
từ
nước ngoài như
cuộc
khủng hoảng tài
chính
tiền
tệ
châu Á năm 1997 là một

dụ
điển
hình.
- Rủi ro
liên
quan đến các
chính
sách của
chính
phủ:

các
rủi
ro
liên
quan
đến
các chính sách của chính phủ có thê kể
ra
như chính sách
hai
giá
khi
phát
hành cổ
phiếu
(bên
cạnh
giá gấc còn có mức giá
giảm
từ
20 - 40 % cho các nhà
đầu

chiến
lược
hoặc
cán
bộ,
công nhân viên
của

công
ty
cổ
phần
hoa
lần
đầu);
20
Bảo
hiểm
rủi
ro
chứng khoán
tại
một
số
nước trên
thế
giới

bài
học
cho
Việt
Nam
những
thay
đổi
trong
chính sách tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ nắm giữ cổ

phần
của các
nhà đầu tư
chiến
lược,
các nhà đầu tư nước
ngoài;
chính sách
tài
chính
xuất
nhập
khẩu
độc
quyền hoặc
các
quan
hệ
quốc
tế
song
phương đa phương Trong đó
rủi
ro
về
lãi
suất

rủi
ro

mà các nhà đầu tư
quan
tàm
nhất.
b.
Rủi
ro phi
hệ
thống
Rủi
ro
phi
hệ
thống

rủi
ro chụ
tác động đến một
loại
tài sản
hoặc
một
nhóm
tài
sản,
nghĩa

rủi
ro
này

chụ
liên
quan
tới
một
loại
chứng
khoán cụ
thể
nào
đó.
Những
yếu
tố
này có
thể
là khả
năng
quản
lý, thị hiếu
tiêu
dùng,
thay đổi
bộ
máy
quản

trong
công
ty đều

là các nguyên nhân làm ảnh
hưởng
tới
cổ
phiếu
của công
ty.
Do
những
yếu
tố
này
chụ
ảnh
hưởng
tới
một ngành hay một
công
ty
cụ
thể
nên các công
ty
và các ngành đó cần xem
xét, bởi
nó còn ảnh
hưởng
tới
vị
thế

của
công
ty
trên
thị
trường.
Rủi ro
không hệ
thống
bao gồm
rủi
ro kinh
doanh

rủi
ro
tài
chính.

Rủi
ro kinh
doanh
Trong
quá trình
kinh
doanh lãi
suất
thực
tế
không

đạt
được như kế
hoạch
gọi

rủi
ro
kinh
doanh, chẳng
hạn
lợi
nhuận
trong
năm
tài
chính
thấp
hơn mức dự
kiến.
Rủi ro
kinh
doanh
được cấu thành
bởi
yếu
tố
bên ngoài và
nội
tại
trong

công
ty.
Rủi ro
nội
tại
phát
sinh trong
quá trình
hoạt
động
của
công
ty
còn
rủi
ro
bên ngoài gồm
những
tác động nằm ngoài
kiểm
soát
của
công
ty
làm ảnh
hưởng
đến
tình
trạng
hoạt

động của công
ty
như:
chi
phí
tiền
vay,
thuế,
chu kỳ
kinh
doanh

Rủi
ro
tài
chính
Là một
loại
rủi
ro
phi
hệ
thống,
rủi
ro
tài chính liên
quan
đến đòn bẩy tài
chính hay nói cách khác


liên
quan
đến cơ
cấu
nợ
của
công
ty.
Sự
xuất hiện
các
khoản
nợ
trong
cấu
trúc vốn sẽ
tạo ra
nghĩa
vụ
trả
nợ
trả
lãi của
công
ty,
công
ty
phải
thực
hiện

nghĩa
vụ
trả
nợ (gồm
trả
lãi
Ngân hàng và
trả
nợ cổ
phiếu)
trước
khi
thanh
toán cổ
tức
cho cổ đông.
Điều
này ảnh
hưởng
không nhỏ
tới
giá
trị
cổ
phiếu
của
công
ty.
Rủi
ro

tài
chính có
thể
tránh được nếu công
ty
không
vay
chút
nợ nào.
Nhưng chúng
ta

thể thấy
trên
thực
tế
thì
loại rủi
ro
này là không bao
giờ
tránh
khỏi.
21

×