Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Pháp luật về hết quyền sở hữu trí tuệ trong nhập khẩu song song ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.25 KB, 74 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THU HƢƠNG

PHÁP LUẬT VỀ HẾT QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TRONG NHẬP KHẨU SONG SONG Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THU HƢƠNG

PHÁP LUẬT VỀ HẾT QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TRONG NHẬP KHẨU SONG SONG Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học:PGS.TS NGUYỄN THỊ QUẾ ANH

Hà Nội – 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong khóa luận bảo đảm độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của khóa
luận chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
HỌC VIÊN

Đỗ Thu Hƣơng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Thuật ngữ

Viết tắt

Sở hữu trí tuệ

SHTT

Tổ chức Thƣơng mại thế giới

WTO

Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới

WIPO


Liên minh châu Âu

EU

Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại

GATT

Hiệp ƣớc của WIPO về Quyền tác giả

WCT

Hiệp ƣớc của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm

WPPT

Công ƣớc quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới

UPOV

Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến

TRIPS

thƣơng mại


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. 3

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT................................................................... 4
MỤC LỤC ......................................................................................................... 5
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ HẾT QUYỀN SỞ
HỮU TRÍ TUỆ TRONG NHẬP KHẨU SONG SONG ................................... 5
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG Về BảO Hộ QUYềN SHTT .................................................... 5
1.1.1 Khái niệm bảo hộ quyền SHTT................................................................... 6
1.1.2 Đặc điểm của bảo hộ quyền SHTT ............................................................. 9
1.1.3 Nguyên tắc cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền SHTT .......................... 11
1.2. KHÁI QUÁT CHUNG Về HếT QUYềN SHTT ..................................................... 17
1.2.1 Khái niệm hết quyền SHTT ....................................................................... 19
1.2.2 Các cơ chế hết quyền SHTT ..................................................................... 21
1.3 KHÁI QUÁT CHUNG Về NHậP KHẩU SONG SONG ............................................... 23
1.3.1 Khái niệm nhập khẩu song song ............................................................... 24
1.3.2 Đặc điểm của nhập khẩu song song ......................................................... 27
1.4 MốI LIÊN Hệ GIữA HếT QUYềN SHTT VÀ NHậP KHẩU SONG SONG ..................... 28
1.5 QUY ĐịNH Về NHậP KHẩU SONG SONG THEO CÁC ĐIềU ƢớC QUốC Tế ................. 30
KếT LUậN CHƢƠNG 1 ........................................................................................... 36
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH VỀ HẾT QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG
NHẬP KHẨU SONG SONG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM .................... 37
2.1 KHÁI QUÁT NHữNG QUY ĐịNH CHUNG CủA PHÁP LUậT VIệT NAM Về HếT QUYềN
SHTT VÀ NHậP KHẩU SONG SONG ........................................................................ 37
2.2 NHữNG QUY ĐịNH CủA PHÁP LUậT VIệT NAM HIệN HÀNH Về HếT QUYềN SHTT
TRONG NHậP KHẩU SONG SONG ............................................................................ 39
2.2.1 Những quy định của pháp luật Việt Nam về hết quyền sở hữu công nghiệp
trong nhập khẩu song song ................................................................................ 39
2.2.2 Những quy định của pháp luật Việt Nam về hết quyền tác giả, quyền liên
quan trong nhập khẩu song song ....................................................................... 42
2.2.3 Những quy định của pháp luật Việt Nam về hết quyền đối với giống cây
trồng trong nhập khẩu song song ...................................................................... 44

KếT LUậN CHƢƠNG 2 ........................................................................................... 46


CHƢƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HẾT QUYỀN .. 47
SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG NHẬP KHẨU SONG SONG ............................ 47
3.1 ĐÁNH GIÁ CHUNG Về THựC TRạNG Xử LÍ CÁC Vụ VIệC Về NHậP KHẩU SONG SONG
ở VIệT NAM HIệN NAY ......................................................................................... 47
3.2 MộT Số Vụ VIệC LIÊN QUAN ĐếN NHậP KHẩU SONG SONG ở VIệT NAM HIệN NAY 50
3.3. ĐịNH HƢớNG HOÀN THIệN PHÁP LUậT Về HếT QUYềN SHTT TRONG NHậP KHẩU
SONG SONG ......................................................................................................... 55
3.4 NHữNG KIếN NGHị HOÀN THIệN PHÁP LUậT ..................................................... 59
3.4.1. Đề xuất quy định về định nghĩa hết quyền SHTT .................................... 59
3.4.2 Đề xuất sửa đổi điểm b khoản 2 Điều 125 Luật SHTT............................. 59
3.4.3 Đề xuất sửa đổi quy định về nghĩa vụ chứng minh trong các vụ việc nhập
khẩu song song .................................................................................................. 60
3.4.4 Đề xuất sửa đổi một số quy định về nhập khẩu song song đối với các mặt
hàng quan trọng................................................................................................. 61
KếT LUậN CHƢƠNG 3 ........................................................................................... 63
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 66


PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiện nay vấn đề quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đang dành đƣợc sự quan
tâm rất lớn của xã hội, từ các chủ thể nắm giữ quyền SHTT đến các doanh
nghiệp và cả ngƣời tiêu dùng. Cụ thể đối với việc nhập khẩu song song các mặt
hàng mang đối tƣợng SHTT ảnh hƣởng trực tiếp đến lợi ích của các doanh
nghiệp và ngƣời tiêu dùng rất nhiều. Hết quyền SHTT và nhập khẩu song song
đƣợc công nhận là những vấn đề quan trọng trong chính sách và pháp luật

SHTT cũng nhƣ thƣơng mại của mỗi quốc gia. Do những giá trị lý luận và thực
tiễn của chúng, những vẫn đề này thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu cũng nhƣ những ngƣời làm thực tiễn trong cả lĩnh vực pháp luật và kinh tế.
Cho đến nay, nhiều tranh cãi còn tồn tại xoanh quanh hết quyền SHTT và nhập
khẩu song song. Đề tài này tập trung vào phân tích các quy định pháp lí trong
hệ thống pháp luật Việt Nam về hết quyền SHTT và các quy định liên quan đến
nhập khẩu song song nhằm tìm ra những điểm còn bất cập để kiến nghị những
giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
1.2 Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề hết quyền SHTT trong nhập khẩu song song là chế định pháp luật
không chỉ liên quan đến chuyên ngành luật SHTT mà còn liên quan đến pháp
luật về kinh tế, về cạnh tranh… Chính vì thế đề tài này đƣợc nghiên cứu dƣới
rất nhiều góc độ và hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu ra đời.
Trên phạm vi quốc tế, có rất nhiều tài liệu có thể kể đến từ những năm
đầu thế kỉ XXI, nhƣ cuốn sách “Vertical Price Control and Parallel Imports:
Theory and Evidence” xuất bản năm 2000 của tác giả Keith Eugene Maskus và
Yongmin Chen; hay cùng tác giả giả này còn có “Parallel Imports in a Model of
Vertical Distribution: Theory, Evidence, and Policy”. Những tài liệu này đã có
những đóng góp lớn trong việc làm rõ lí thuyết về phân biệt giá trong mối quan
1


hệ với hết quyền SHTT và nhập khẩu song song. Ngoài ra có thể kể đến một số
công trình nghiên cứu dƣới dạng luận án tiến sĩ, nhƣ luận án “Phân tích so sánh
các quy định về nhập khẩu song song trong luật nhãn hiệu hàng hóa của Mỹ,
Nhật và Châu Âu - Ý nghĩa pháp lí đối với các nước đang phát triển” đƣợc TS.
Nguyễn Hồ Bích Hằng thực hiện năm 2011 tại Đại học Nagoya, Nhật Bản.
Những nghiên cứu này đã mang đến góc nhìn toàn diện dƣới lăng kính lí thuyết
về hết quyền SHTT và tập trung nghiên cứu các đối tƣợng SHTT cụ thể, mà ở
đây chủ yếu là nhãn hiệu.

Các nghiên cứu trong nƣớc, có thể kể đến rất nhiều sách chuyên khảo và
các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về chủ đề này dƣới nhiều góc độ
khác nhau. Tiêu biểu nhƣ sách chuyên khảo “Hết quyền đối với nhãn hiệu
trong pháp luật, thực tiễn quốc tế và Việt Nam” của tác giả Nguyễn Nhƣ Quỳnh
xuất bản năm 2012, “Nhập khẩu song song dưới góc độ pháp luật SHTT, hợp
đồng và cạnh tranh” của tác giả Nguyễn Thanh Tú và Lê Thị Thu Hiền xuất
bản năm 2014. Các công trình nghiên cứu này đã chỉ ra những quy định pháp lí
cụ thể đối với từng đối tƣợng của quyền SHTT và đề ra những định hƣớng
hoàn thiện pháp luật đối với từng lĩnh vực cụ thể bao gồm cả chế định luật hợp
đồng và luật cạnh tranh. Đây là những công trình nghiên cứu dƣới góc độ kinh
tế và chỉ ra đƣợc mối liên hệ giữa các chế định luật dùng để điều chỉnh một vấn
đề phát sinh trên thực tế.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu và tính mới của đề tài
1.3.1 Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của đề tài này là nghiên cứu, đánh giá quy định của
pháp luật Việt Nam về vấn đề hết quyền SHTT và nhập khẩu song song.
Cùng với đó đề tài sẽ đƣa ra các định hƣớng về hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực này.
1.3.2 Mục tiêu cụ thể

2


Mục tiêu cụ thể của đề tài này là phân tích về mặt lý luận để nhận thức
rõ vấn đề hết quyền SHTT cũng nhƣ nhập khẩu song song là vấn đề liên quan
đến cả khía cạnh pháp luật và kinh tế; từ đó đƣa ra những kiến nghị cụ thể về
việc hoàn thiện các quy định pháp luật chuyên ngành nhằm thực thi tốt hơn
cơ chế hết quyền SHTT mà Việt Nam công nhận cũng nhƣ tạo điều kiện cho
hành vi nhập khẩu song song theo cơ chế hết quyền không bị cản trở, các
mục tiêu chính sách trong quy định pháp luật sẽ đƣợc đảm bảo.

1.3.3 Tính mới và những đóng góp của đề tài
So với một số đề tài đã đƣợc tham khảo từ trƣớc, đề tài này đƣợc thực
hiện trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành đàm phán, thỏa thuận rất nhiều
các hiệp định thƣơng mại tự do, bao gồm cả các hiệp định thƣơng mại tự do thế
hệ mới. Những thỏa thuận quốc tế này, khi có hiệu lực, sẽ có sức ảnh hƣởng
không nhỏ đến hệ thống pháp luật nội địa. Vì vậy, trên cơ sở lý luận và thực
tiễn, đề tài sẽ đƣa ra những đánh giá về sự phù hợp của pháp luật Việt Nam với
các cam kết quốc tế và đƣa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định
pháp luật nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của để tài nhƣ đã dẫn giải trên đây sẽ tập trung
làm rõ khái niệm hết quyền SHTT và nhập khẩu song song. Cùng với đó đề tài
sẽ phân tích các quy định pháp luật cụ thể về hết quyền SHTT đối với các đối
tƣợng của quyền SHTT tại Việt Nam cũng nhƣ các quy định về nhập khẩu song
song. Cuối cùng đề tài sẽ đặt ra những hƣớng hoàn thiện các quy định pháp luật
nhằm phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã thỏa thuận.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các mô hình lí thuyết về hết quyền
SHTT và hệ thống phát luật thực định, bao gồm cả quy định trong các điều ƣớc
quốc tế và các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu

3


Đề tài nghiên cứu dựa trên phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, trong
đó vận dụng quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử khi xem xét, đáng giá
từng vấn đề cụ thế. Đồng thời, đề tài cũng dựa trên quan điểm, đƣờng lối của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc về các vấn đề có liên quan.
Ngoài ra, để đảm bảo tính khách quan và thực tế, đề tài đã sử dụng
phƣơng pháp thông kê, so sánh, phân tích và tổng hợp trên cơ sở các số liệu

gốc và số liệu liên quan, các văn bản luật và các văn bản quy phạm pháp luật,
có khảo sát, đối chiếu và kết luận việc thực thi.

1.6 Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Lời cam kết, Lời cảm ơn, Phần mở đầu, Kết luận, luận
văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Những vấn đề lí luận chung về hết quyền SHTT trong nhập
khẩu song song
Chƣơng 2. Quy định về hết quyền SHTT trong nhập khẩu song song
theo pháp luật Việt Nam
Chƣơng 3. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hết quyền SHTT trong
nhập khẩu song song

4


Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ HẾT QUYỀN SỞ
HỮU TRÍ TUỆ TRONG NHẬP KHẨU SONG SONG

1.1 Khái quát chung về bảo hộ quyền SHTT
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, cùng với sự phát triển
không ngừng của khoa học và công nghiệp, vấn đề quyền sở hữu đối với tài sản
trí tuệ (sau đây gọi là quyền SHTT) ngày càng khẳng định vị trí và tầm quan
trọng của mình trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Mặc dù thuật ngữ quyền SHTT vẫn còn là một khái niệm pháp lí mơ hồ đối với
nhiều ngƣời, song mức độ sử dụng thuật ngữ này đang ngày càng gia tăng,
cùng với sự lan tỏa nhanh chóng của các vấn đề liên quan đến quyền SHTT.
Tài sản trí tuệ là yếu tố cơ bản hình thành quyền SHTT. Tài sản trí tuệ
đƣợc hiểu là những thành quả do trí tuệ con ngƣời tạo ra thông qua hoạt động
sáng tạo đƣợc thừa nhận là tài sản. Giống nhƣ các loại tài sản vật chất khác, tài

sản trí tuệ có thể đƣợc mua, bán, cho phép sử dụng, trao đổi… Song, điểm khác
biệt cơ bản nhất giữa tài sản trí tuệ với các loại tài sản vật chất đó chính là tính
vô hình của tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ là vô hình bởi vì nó chính là những
thông tin đƣợc kết hợp chặt chẽ với nhau trong những vật thể hữu hình. Quyền
sở hữu trong trƣờng hợp này không phải là quyền đối với bản thân các vật thể
hữu hình này, mà chính là những thông tin chứa đựng trong đó.
Khác với với quyền sở hữu tài sản vật chất, nội dung quyền SHTT không
bao gồm quyền chiếm hữu. Trước hết, quyền chiếm hữu đối với tài sản là
không có ý nghĩa, do đó không cần thiết. Đặc tính vô hình và bản chất thông tin
– tri thức của tài sản trí tuệ khiến cho loại đối tƣợng này có khả năng lan truyền
(từ ngƣời này sang ngƣời khác, từ nơi này đến nơi khác) một cách vô giới hạn
và có thể hiện diện đồng thời ở nhiều nơi mà không duy nhất nhƣ tài sản hữu
hình. Việc một ngƣời nắm bắt (chiếm hữu) tài sản trí tuệ không cản trở, không
làm phƣơng hại đến việc chiếm hữu của chủ sở hữu.
5


Thứ hai, các tài sản trí tuệ còn có đặc tính sáng tạo – đổi mới. Mỗi tài
sản trí tuệ đều là một đối tƣợng mới hoặc đƣợc bổ sung cái mới (đƣợc cải tiến).
Để tạo ra cái mới đó, con ngƣời phải nắm đƣợc thông tin và tri thức liên quan.
Vì thế, chiếm hữu tri thức, thông tin là nhu cầu đồng thời là quyền của tất cả
mọi ngƣời, là nền tảng bảo đảm cho hoạt động sáng tạo. Độc quyền chiếm hữu
tài sản trí tuệ đi ngƣợc nhu cầu phát triển của xã hội.
Mặt khác, việc thực hiện quyền chiếm hữu tài sản trí tuệ nói chung là khó
khăn và không thể. Cách duy nhất để kiểm soát quyền chiếm hữu loại tài sản này
là giữnó trong vòng bí mật. Điều này không những mâu thuẫn với quyền sử dụng
mà còn mâu thuẫn với ý nghĩa, mục đích sở hữu tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ chỉ
mang lại giá trị (thu nhập) nếu đƣợc khai thác, sử dụng, chuyển giao, nhƣng
chính các hoạt động đó lại bộc lộ bản chất của tài sản trí tuệ.
Giữ bí mật bản chất tài sản trí tuệ nghĩa là không thể sử dụng tài sản trí

tuệ đó. Với những lý do nói trên, nội dung quyền SHTT chỉ bao gồm quyền sử
dụng và quyền định đoạt. Quyền sử dụng thuộc nội dung quyền SHTT lại bao
gồm nhiều nội dung cụ thể tuỳ theo loại tài sản trí tuệ (đối tƣợng SHTT) và
đƣợc phân chia cho các chủ thể khác nhau một cách thích hợp. Một số trong
các nội dung quyền nói trên có thể đƣợc chuyển giao, để thừa kế nhƣng có nội
dung thì chỉ thuộc về một chủ thể mà không thể chuyển giao hoặc thừa kế. Các
quyền nhƣ vậy lại đƣợc chia thành quyền nhân thân và quyền tài sản nhƣ các
quyền dân sự khác. Trong các nội dung đó, có một nội dung đặc biệt đáng chú
ý là quyền ngăn cấm ngƣời khác sử dụng quyền của chủ thể. Chính sự đặc biệt
khi chủ thể có quyền ngăn cấm ngƣời khác sử dụng tài sản trí tuệ của mình đã
hình thành nên chế định pháp luật về bảo hộ quyền SHTT.
1.1.1 Khái niệm bảo hộ quyền SHTT
Bảo hộ tại sản trí tuệ và bảo hộ quyền SHTT (gọi chung là bảo hộ SHTT)
là việc Nhà nƣớc sử dụng công cụ pháp lí và quyền lực bảo đảm cho các chủ sở

6


hữu tài sản trí tuệ thực thi các quyền đối với tài sản trí tuệ của họ, ngăn chặn và
xử lí các hành vi xâm phạm tài sản/quyền do ngƣời thứ ba thực hiện.
Sự cần thiết phải có cơ chế bảo hộ quyền SHTT đƣợc lí giải bởi những lí
do sau:
Thứ nhất, tài sản trí tuệ đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với sự
phát triển của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Tỉ trọng giá trị của tài
sản trí tuệ và tài sản vô hình nói chung trong tổng số giá trị tài sản của doanh
nghiệp/nền kinh tế ngày càng cao. Tại một số doanh nghiệp và một số nƣớc, tỉ
lệ đó đã vƣợt quá 50%. Phát triển tài sản trí tuệ đã và đang là hƣớng dầu tƣ phát
triển ƣu tiên; tài sản trí tuệ trở thành yếu tố cạnh tranh quan trọng nhất và là
động lực của sự phát triển. Có thể lấy một ví dụ nhỏ để minh chứng cho điều
này. Từ cách đây 20 năm, tức là vào năm 1997, nhãn hiệu Coca – Cola đƣợc

ƣớc tính giá trị 65,7 tỉ đô la; trong khi đó dựa theo báo cáo tài chính của tập
đoàn này thì giá trị tài sản vô hình (tức là nhãn hiệu Coca - Cola) chỉ chiếm 3,7
tỉ đô la. Sự khác biệt rất lớn này cho thấy, giá trị của một doanh nghiệp trên thị
trƣờng đƣợc quyết định phần nhiều bởi tài sản vô hình mà doanh nghiệp đó
nắm giữ. Xu thế này đã khác so với nhiều thập niên trƣớc, khi mà máy móc và
công cụ sản xuất mới là tài sản chính của doanh nghiệp.
Thứ hai, đầu tƣ để tạo ra và phát triển tài sản trí tuệ là dạng đầu tƣ tốn
kém, mất nhiều thời gian và chứa đựng rủi ro. Trong khi đó, nguy cơ tài sản trí
tuệ bị chiếm đoạt/khai thác bất hợp lí là nguy cơ thƣờng xuyên và rất hay xảy
ra. Bản chất của tài sản trí tuệ là vô hình nhƣng lại có đặc điểm là khả năng lan
truyền không giới hạn, rất dễ bị sao chép, bắt chƣớc, sử dụng… nhất là trong
điều kiện công nghệ, kĩ thuật để thực hiện việc sao chép ngày càng cao. Những
mối lợi khổng lồ do việc khai thai bất hợp pháp các tài sản trí tuệ mang lại là
động lực thúc đẩy các hành vi phạm pháp. Việc khai thác trái phép trên thực tế
lại rất khó để phát hiện và xử lí. Số lƣợng các vụ xâm phạm về nhãn hiệu, về
tên thƣơng mại, về tên miền… là rất phổ biến. Tuy nhiên việc điều tra và xử lí

7


những vụ việc này thì chƣa đƣợc chú trọng nhƣ những lĩnh vực dân sự khác.
Thêm vào đó, cơ chế xử lí đối với những vụ việc xâm phạm quyền SHTT cũng
chỉ mang tính chất cảnh cáo chứ chƣa thực sự tƣơng xứng với những lợi ích mà
chủ thể vi phạm đã đạt đƣợc.
Thứ ba, bản thân các chủ sở hữu tài sản trí tuệ không có khả năng tự
mình bảo vệ tài sản trí tuệ của họ trƣớc nguy cơ xâm phạm. Kết quả dẫn đến
nếu không có biện pháp hữu hiệu chống lại các hành vi vi phạm tài sản/quyền
SHTT thì động lực sáng tạo và phát triển bị thủ tiêu, cạnh trạnh trở thành không
lành mạnh. Mục tiêu của việc bảo hộ SHTT là bảo vệ các kết quả đầu tƣ sáng
tạo, thúc đẩy các hoạt động đổi mới, bảo đảm cạnh tranh công bằng, trung thực,

từ đó tạo ra động lực cho phát triển. Hiện nay ở các quốc gia trên thế giới cũng
nhƣ Việt Nam, các biện pháp xử lí vi phạm về SHTT có thể chia thành 5 nhóm
biện pháp chính:
(1) Biện pháp tự bảo vệ
(2) Biện pháp dân sự
(3) Biện pháp hành chính
(4) Biện pháp hình sự
(5) Kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu
Trong các biện pháp nói trên, kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu và biện
pháp hành chính là đƣợc sử dụng phổ biến hơn. Tuy nhiên có thể thấy
rằng, để có thể bảo vệ đƣợc quyền SHTT, chủ thể nắm giữ quyền cần bỏ
ra những chi phí không hề nhỏ. Kể từ khâu đăng kí cho đến việc duy trì
hiệu lực của các văn bằng bảo hộ; sau đó đến các biện pháp mang tính
“phòng vệ” nhƣ kiểm soát tại cửa khẩu… Tất cả những giai đoạn này
đều đỏi hỏi chủ thể nắm giữ quyền bỏ ra chi phí. Đây cũng là một điều
khó khăn đặc thù trong lĩnh vực này.

8


Nội dung quyền SHTT, khác với quyền sở hữu tài sản vật chất, không
bao gồm đầy đủ quyền chiếm hữu. Điều này đƣợc lí giải bởi những nguyên
nhân sau: quyền chiếm hữu đối với tài sản là không có ý nghĩa, do đó không
cần thiết. Đặc tính vô hình và bản chất thông tin – tri thức của tài sản trí tuệ
khiến cho loại đối tƣợng này có khả năng lan truyền (từ ngƣời này sang ngƣời
khác, từ nơi này đến nơi khác) một cách vô giới hạn và có thể hiện diện đồng
thời ở nhiều nơi mà không duy nhất nhƣ tài sản hữu hình. Việc một ngƣời nắm
bắt (chiếm hữu) tài sản trí tuệ không cản trở, không làm phƣơng hại đến việc
chiếm hữu của chủ sở hữu.
Chính vì những lẽ trên, bảo hộ quyền SHTT là bảo hộ quyền sử dụng và

quyền định đoạt của chủ thể nắm giữ tài sản trí tuệ đó. Việc bảo hộ này đồng
thời cũng làm hạn chế khả năng tiếp cận và khai thác tài sản trí tuệ của các chủ
thể khác.
Pháp luật điều chỉnh về quyền SHTT xuất hiện từ rất sớm, quyền tác giả
đƣợc đề cập đến lần đầu vào thế kỉ XV, và đã trải qua quá trình phát triển lâu
dài song song với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội thế giới. Hầu hết các
đạo luật đều không tiếp cận khái niệm quyền SHTT theo cách định nghĩa mà sử
dụng phạm vi đối tƣợng điều chỉnh. Quá trình hình thành các chế định điều
chỉnh luật SHTT đã cho thấy một phạm vi điều chỉnh tƣơng đối hoàn chỉnh của
quyền SHTT gồm ba nhánh cơ bản, gồm: quyền tác giả, quyền sở hữu công
nghiệp, quyền đối với giống cây trồng.
1.1.2 Đặc điểm của bảo hộ quyền SHTT
Với tính chất là một loại tài sản vô hình, việc bảo hộ quyền SHTT có một
số đặc điểm cần lƣu ý sau đây:
Thứ nhất, bảo hộ quyền SHTT bị giới hạn về không gian (lãnh thổ).
Quyền SHTT chỉ tồn tại trong lãnh thổ mà nó đƣợc thừa nhận (các quyền
SHTT phát sinh trên cơ sở đăng kí thì chỉ tồn tại ở nơi mà nó đƣợc đăng kí, ở
nơi khác sẽ không tồn tại quyền đó).
9


Thứ hai, bảo hộ quyền SHTT bị giới hạn về thời gian (thời hạn): đa số
các loại quyền SHTT – nhất là với các nội dung tài sản – chỉ tồn tại trong một
thời hạn nhất định. Ngoài thời hạn đó, các quyền tự động mất đi, đối tƣợng
SHTT trở thành vô chủ hoặc của tất cả mọi ngƣời (bất kì ai cũng có thể sử dụng
mà không bị cấm đoán, ràng buộc). Thời hạn nhƣ vậy do pháp luật ấn định
khác nhau cho từng loại tài sản trí tuệ.
Thứ ba, bảo hộ quyền SHTT bị hạn chế bởi quyền của ngƣời khác hoặc
vì lợi ích của cộng đồng: với một số loại tài sản trí tuệ và ứng với một số nội
dung cụ thể, quyền SHTT có thể bị hạn chế bởi:

(i) Quyền hợp pháp và chính đáng của ngƣời khác đã tồn tại từ
trƣớc; ví dụ quyền sử dụng trƣớc sáng chế/kiểu dáng công nghiệp;
Trong trƣờng hợp này việc thực hiện quyền nói trên trong phạm vi
thích hợp sẽ không bị coi là xâm phạm quyền của chủ SHTT và chủ
SHTT không đƣợc ngăn cấm việc thực hiện đó;
(ii) Vì lợi ích chính đáng của ngƣời khác, ví dụ quyền trích dẫn
tác phẩm, quyền sao chép có giới hạn tác phẩm để nghiên cứu khoa
học hoặc học tập, quyền sử dụng tác phẩm đã công bố mà không cần
xin phép chủ sở hữu (nhƣng phải trả tiền)…
(iii) Vì lợi ích cộng đồng – xã hội, ví dụ chủ sáng chế phải trao
quyền sử dụng sáng chế (lixăng không tự nguyện/bắt buộc) để đáp
ứng các nhu cầu chăm sóc sức khoẻ nhân dân, ví dụ chủ sáng chế
không đƣợc sử dụng tài sản trí tuệ gây hại cho lợi ích xã hội.
Ngoài ra, bảo hộ quyền SHTT cũng bị hạn chế bởi nghĩa vụ của chủ
SHTT: Với một số loại tài sản trí tuệ, ứng với một số nội dung cụ thể, chủ
SHTT phải thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ; nếu không thì quyền SHTT có
thể bị trở thành vô hiệu hoặc bị thu hẹp. Ví dụ, với quyền sở hữu sáng chế, chủ
sở hữu phải nộp lệ phí duy trì hiệu lực của “bằng độc quyền” (phải nộp hàng

10


năm, trong suốt thời hạn hiệu lực của Bằng độc quyền); nếu không thì bằng độc
quyền bị mất hiệu lực (quyền đối với sáng chế bị chấm dứt).
1.1.3 Nguyên tắc cân bằng lợi ích trong bảo hộ quyền SHTT
Vấn đề bảo hộ quyền SHTT đã đƣợc đặt ra từ lâu đời trong rất nhiều các
hệ thống pháp luật trên thế giới. Điển hình nhƣ quyền tác giả trên thế giới phát
sinh cùng với sự phát triển của công nghệ in ấn. Trƣớc khi công nghệ in ấn ra
đời, các quyển sách thƣờng đƣợc chép tay, vì thế khả năng ngƣời khác sao chép
tác phẩm gốc không nhiều. Khi công nghệ in ra đời, một quyển sách có thể

đƣợc nhân thành nhiều bản. Tác giả không thể kiểm soát hay quản lí đƣợc bao
nhiêu ngƣời đang đọc quyển sách của mình, và trong số đó bao nhiêu ngƣời bỏ
tiền ra mua sách do mình in, còn bao nhiêu ngƣời đã mua sách từ những nhà in
lậu. Chính vì vậy, vấn đề bảo hộ quyền tác giả đã đƣợc hình thành. Nƣớc đầu
tiên ban hành luật về quyền tác giả là Anh, nơi khởi đầu cuộc cách mạng công
nghiệp (theo luật của Nữ hoàng Anne năm 1709). Sau đó đến Hoa Kì (1790) và
Pháp (1791), Đức. Nhƣ vậy, quyền tác giả phát sinh trong hệ thống pháp luật
Anh – Mỹ trƣớc, rồi mới đến các nƣớc theo hệ thống luật lục địa.
Đối với vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, luật đầu tiên đƣợc ban
hành là vào năm 1640 tại Anh (Đạo luật Elizabeth I về sáng chế). Nhãn hiệu
hàng hóa đầu tiên trên thế giới cũng đƣợc cấp tại Anh. Điều này xuất phát từ
việc nƣớc Anh là quốc gia đi đầu trong cuộc cách mạng công nghiệp thời đó.
Có thể kể đến bằng độc quyền công nghệ cao su lƣu hóa đƣợc cấp cho
Goodyear, là nhà sản xuất vỏ xe lớn nhất hiện nay Bằng độc quyền sản xuất
bóng đèn điện đƣợc cấp cho nhà bác học Edison, ngƣời sáng lập ra công ti
General Electric. Bằng độc quyền sản xuất điện thoại đƣợc cấp cho Alexander
G. Bell, ngƣời sáng lập công ti AT&T, một trong những công ti viễn thông lớn
nhất thế giới hiện nay.
Hầu hết các sản phẩm mang giá trị sở hữu trí tuệ đều nhằm phục vụ cho
các lợi ích của xã hội, Vì vậy một trong những nguyên tắc cơ bản của hệ thống
11


SHTT là nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ sở hữu trí tuệ và lợi ích của xã
hội. Nguyên tắc này đƣợc thể hiện xuyên suốt toàn bộ quá trình bảo hộ từ xác
lập quyền, duy trì quyền cho đến việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.Việc thực
hiện đúng nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn cho quá trình bảo vệ và khai thác
quyền SHTT, đặc biệt đối với các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam.
Nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ sở hữu trí tuệ và lợi ích của xã hội
đã có một lịch sử phát triển lâu dài. Tại hầu hết các quốc gia, nguyên tắc này ra

đời cùng với sự ra đời của các quy định về bảo hộ quyền SHTT. Ngay trong
đạo luật đầu tiên trên thế giới về quyền tác giả: đạo luật Anne 1710 bên cạnh
quy định “tác giả có độc quyền trên tác phẩm của mình” các nhà lập pháp đã
khẳng định “độc quyền của tác giả được bảo hộ trong một thời gian nhất
định”. Điều này cho thấy các nhà lập pháp thời đó đã xác định yếu tố “cân
bằng về lợi ích giữa tác giả và công chúng” đóng vai trò quan trọng trong việc
bảo hộ quyền của tác giả. Chính vì vậy mà độc quyền của tác giả chỉ đƣợc bảo
hộ trong một thời gian nhất định, sau thời gian đó tác phẩm sẽ thuộc quyền khai
thác tự do của công chúng. Các đối tƣợng sở hữu công nghiệp cũng bị giới hạn
về thời hạn bảo hộ. Tuy nhiên, nội dung cơ bản của nguyên tắc này khi mới
hình thành chỉ tập trung vào quy định về giới hạn về thời hạn bảo hộ các đối
tƣợng SHTT. Chỉ đến khi những quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã trở
nên phổ biến và tác động trực tiếp đến quyền lợi của đông đảo công chúng thì
các quốc gia càng nỗ lực trong việc tìm kiếm những giải pháp nhằm hài hoà lợi
ích giữa các chủ thể có liên quan nhƣ lợi ích giữa tác giả và chủ sở hữu trí tuệ,
giữa các chủ thể này với quốc gia, với công chúng, trong đó quan trọng nhất là
sự cân bằng lợi ích giữa chủ SHTT và lợi ích của xã hội. Các quốc gia tìm giải
pháp cho vấn đề này từ việc quy định rõ ràng hơn, mở rộng hơn trong pháp luật
các giới hạn của chủ sở hữu trí tuệ, đặc biệt trong lĩnh vực quyền tác giả. Điển
hình là học thuyết “sử dụng hợp lý” (fair use doctrine) trong pháp luật quyền
tác giả tại Hoa Kỳ. Bên cạnh giải pháp pháp lý, tại một số nƣớc còn tìm đến các
giải pháp kinh tế, xã hội. Điển hình là tại Đức, “phong trào khai sáng” của các
12


nhà quý tộc vào khoảng thế kỷ XV đã thực hiện chính sách giúp đỡ các nhà
xuất bản về kinh tế để xuất bản và mang vào lãnh thổ của mình các tác phẩm
văn học đang đƣợc ƣa chuộng và có giá trị nhân văn. Mục đích của những nhà
quý tộc này là “khai sáng” các tầng lớp nhân dân vì điều kiện kinh tế hạn chế
nên đã không thể tiếp cận và mở mang sự hiểu biết của mình vì. Những ngƣời

thực hiện “phong trào khai sánh” cho rằng để một xã hội tồn tại và phát triển
bền vững thì yếu tố quan trọng nhất là nguồn nhân lực có tri thức, vì vậy họ đã
tìm mọi cách kể cả hỗ trợ về tài chính để các tác phẩm có thể đƣợc phân phối
rộng rãi đến công chúng với hy vọng đông đảo quần chúng nhân dân sẽ có
nhiều cơ hội để tiếp cận tri thức và các nền văn hoá khác nhau, nâng cao trình
độ của mình, từ đó nâng cao mức sống của chính bản thân và góp phần cải tạo
xã hội.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, các tài sản
SHTT ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế và trong đời sống xã
hội. Điều này đòi hỏi các nƣớc một mặt phải xây dựng và hoàn thiện các quy
chế pháp lý nhằm bảo vệ và thực thi có hiệu quả các quyền, lợi ích hợp pháp
của tác giả, chủ SHTT, mặt khác cũng phải quy định và tìm các giải pháp nhằm
đảm bảo cho công chúng tiếp cận và khai thác các đối tƣợng SHTT, đặc biệt ở
các quốc gia kém hoặc đang phát triển, tránh sự lạm dụng quyền của các chủ
SHTT. Đây thực sự là thách thức lớn đối với hệ thống SHTT, đặc biệt là các
nƣớc đang và kém phát triển.
Bản chất của nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa chủ SHTT và lợi ích xã
hội là sự dung hoà quyền lợi giữa các bên nhằm tạo ra điều kiện tồn tại và phát
triển cho chính các bên, cao hơn nữa là thúc đẩy sự phát triển của văn học,
khoa học và kỹ thuật. Mỗi bên sẽ phải hi sinh một phần quyền lợi của mình để

13


hƣớng tới lợi ích chung lớn hơn mà sâu xa hơn chính là tạo ra một xã hội phát
triển bền vững, công bằng và bình đẳng.1
Các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, các sáng chế hay bất kỳ đối
tƣợng nào của quyền SHTT đƣợc các tác giả sáng tạo nên bằng trí tuệ và sự lao
động miệt mài hoặc phải bỏ ra một chi phí thích đáng để đƣợc nắm giữ quyền
sở hữu, do vậy quyền sở hữu các thành quả lao động này phải thuộc về họ. Nếu

nhà nƣớc không có một cơ chế bảo hộ thích hợp quyền của chủ SHTT thì
không thể khuyến khích sự sáng tạo từ đó là sự phát triển của văn hoá, khoa
học, kỹ thuật. Tuy nhiên việc sở hữu tài sản vô hình là đối tƣợng SHTT lại có
những điểm khác biệt so với việc sở hữu tài sản hữu hình. Chủ thể nắm giữ
quyền SHTT có quyền cho phép hoặc ngăn cấm các chủ thể khác sử dụng đối
tƣợng SHTT thuộc quyền sở hữu của mình mà không cần phải chiếm hữu
quyền đó trên thực tế. Việc định đoạt loại tài sản vô hình này đƣợc thực hiện
thông qua sự cho phép hay cấm bất kỳ chủ thể nào khác khai thác các đối tƣợng
SHTT. Chính vì đặc điểm này mà quyền SHTT rất dễ bị xâm phạm. Điều này
đòi hỏi quyền SHTT phải đƣợc pháp luật bảo hộ bằng một cơ chế thích hợp,
việc bảo hộ SHTT chính là tạo ra môi trƣờng pháp lý để bảo vệ quyền nhân
thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu SHTT, thúc đẩy sự sáng tạo để
phát triển nền kinh tế tri thức. Và việc bảo hộ hiệu quả quyền SHTT chịu sự
ảnh hƣởng rất lớn từ chính sách của nhà nƣớc đến hệ thống pháp luật và cơ chế
thực thi quyền cũng nhƣ nhận thức và ý thức của xã hội. Tuy nhiên, nếu chỉ
hƣớng tới mục đích bảo vệ các tác giả, các chủ SHTT thì có thể dẫn đến sự lạm
dụng độc quyền của chủ SHTT và ảnh hƣởng đến việc tiếp cận tri thức, tiếp cận
thành quả khoa học kỹ thuật của đông đảo công chúng chƣa kể đến nếu bảo hộ
quá lâu, quá rộng sẽ dẫn đến sự cản trở giao lƣu văn hoá, khoa học giữa các
quốc gia lẫn nhau. Đối với công chúng, ngoài các quyền cơ bản nhƣ: quyền
đƣợc sống, quyền đƣợc mƣu cầu hạnh phúc, tự do ngôn luận… họ còn có một
1

Nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ sở hữu trí tuệ và lợi ích của xã hội, Th.S Lê Thị Nam
Giang, Tạp chí Khoa học pháp lí số 2/2009

14


quyền hết sức quan trọng và chính đáng là quyền đƣợc tiếp cận, kế thừa tri thức

của nhân loại. Trong trƣờng hợp này lợi ích của tác giả và công chúng là mâu
thuẫn nhau. Nếu tác giả, chủ sở hữu các đối tƣợng SHTT chỉ quan tâm đến việc
thiết lập, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu tuyệt đối của mình đối với đối
tƣợng SHTT mà không nghĩ tới lợi ích của công chúng thì điều này sẽ trở thành
rào cản ngăn cản sự khai thác các đối tƣợng này và tạo nên sự lạm dụng độc
quyền của chủ sở hữu. Điều này cũng sẽ ảnh hƣởng đến sự phát triển kinh tếvăn hóa của xã hội. Ngƣợc lại, nếu công chúng chỉ chú ý đến nhu cầu thƣởng
thức tác phẩm văn học hay khai thác các lợi ích kinh tế từ các đối tƣợng SHTT
mà không bù đắp chi phí một cách thỏa đáng cho tác giả, các chủ SHTT thì
điều này sẽ không khuyến khích đƣợc sự sáng tạo và nhƣ vậy sẽ không thúc
đẩy đƣợc sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên sự mâu thuẫn lợi ích này không
triệt tiêu lẫn nhau vì mục đích cuối cùng của hai chủ thể này là đều hƣớng đến
các sản phẩm sáng tạo. Một bên muốn phổ biến, cung cấp thông tin và các
thành tựu sáng tạo cho đông đảo công chúng và muốn đƣợc khai thác giá trị
thƣơng mại từ chính các sản phẩm đó. Một bên muốn đƣợc khai thác các sản
phẩm đó với chi phí hợp lý nhất. Bởi lẽ, điều cản trở không ít cá nhân đến với
tri thức ở đây chính là rào cản kinh tế, điều kiện của mỗi quốc gia. Điều kiện
sống khó khăn tại các nƣớc đang và kém phát triển đã không cho phép một số
không nhỏ công chúng bỏ ra một chi phí quá lớn để có đƣợc tri thức. Trong vấn
đề này Nhà Nƣớc với tƣ cách là một bên trong “khế ƣớc xã hội” có trách nhiệm
tạo ra điều kiện tốt nhất để công dân của mình đƣợc tiếp cận tri thức ở mức sâu
rộng nhất với chi phí hợp lý nhất. Điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia phải có chiến
lƣợc, chính sách, pháp luật về SHTT đáp ứng đồng thời hai yêu cầu: Thứ nhất,
đảm bảo một cơ chế bảo hộc quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối
với các sản phẩm trí tuệ. Thứ hai, đảm bảo cho công chúng đƣợc tiếp cận tri
thức rộng rãi. Đáp ứng đƣợc hai yêu cầu này tức là quốc gia đã giải quyết tốt
mối quan hệ về lợi ích giữa tác giả, chủ SHTT và công chúng. Do đó, cân bằng
lợi ích giữa các chủ thể này bằng nhiều giải pháp từ những góc độ khác nhau
15



chính là nhằm mục đích bảo vệ lợi ích cho cả hai bên để hƣớng tới một xã hội
tri thức. Với mục đích tạo cơ hội để đông đảo công chúng đƣợc nắm giữ nguồn
tri thức từ sự sáng tạo của tác giả cũng nhƣ khuyến khích phát huy sự sáng tạo
của mỗi cá nhân, nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa tác giả, chủ SHTT và công
chúng ra đời mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là với các nƣớc đang phát
triển nhƣ Việt Nam. Thực hiện tốt nguyên tắc này trên thực tế sẽ không chỉ góp
phần thúc đẩy sự sáng tạo mà còn hạn chế tình trạng vi phạm quyền SHTT.
Nhƣ trên đã đề cập, nguyên tắc cân bằng lợi ích của chủ SHTT và lợi ích
của xã hội đƣợc thể hiện xuyên suốt từ quá trình xác lập quyền, thực thi quyền
và bảo vệ quyền SHTT. Điều 7 Luật SHTT Việt Nam quy định: “Việc thực hiện
quyền SHTT không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm
các quy định khác của pháp luật có liên quan” và “trong trường hợp nhằm bảo
đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và các lợi ích khác của Nhà nước,
xã hội quy định tại Luật này, Nhà nước có quyền cấm hoặc hạn chế chủ thể
quyền SHTT thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ thể quyền SHTT phải
cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền của mình với
những điều kiện phù hợp”.
Nguyên tắc này cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản đƣợc ghi
nhận trong Bộ luật dân sự 2005: “Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân
sự không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác.”2
Nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa chủ SHTT và lợi ích của xã hội là một
trong những nguyên tắc quan trọng của hệ thống SHTT, có lịch sử hình thành
và phát triển lâu đời. Thực hiện tốt nguyên tắc này một mặt sẽ khuyến khích sự
sáng tạo và đầu tƣ cho hoạt động sáng tạo, mặt khác hạn chế sự lạm dụng độc
quyền của chủ SHTT và tạo điều kiện cho công chúng đƣợc tiếp cận và khai
2

Điều 10 Bộ luật Dân sự 2005


16


thác các tài sản SHTT với các điều kiện hợp lý, từ đó nâng cao hiệu quả của cơ
chế bảo hộ quyền SHTT. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi các tài sản
SHTT trở thành tài sản có giá trị rất lớn của doanh nghiệp, khi mà phần lớn các
bằng sáng chế có giá trị công nghệ và thƣơng mại cao tập trung tại các nƣớc
phát triển và lạm dụng độc quyền của chủ SHTT đã trở thành nguy cơ thì việc
thực hiện nguyên tắc này càng có ý nghĩa lớn, đặc biệt đối với các nƣớc đang
và kém phát triển.
1.2. Khái quát chung về hết quyền SHTT
Thuyết hết quyền là một học thuyết pháp lí phát sinh trong lĩnh vực
SHTT, đƣợc tạo ra nhằm xác định giới hạn cho quyền SHTT. Mục tiêu của
thuyết này là cân bằng giữa: (1) bảo hộ quyền SHTT với bảo đảm sự lƣu thông
bình thƣờng của hàng hóa, dịch vụ trên thị trƣờng và cạnh tranh lành mạnh; (2)
lợi ích của chủ thể nắm giữ quyền SHTT với lợi ích của ngƣời tiêu dùng. Theo
thuyết hết quyền, chủ sở hữu quyền SHTT không còn quyền kiểm soát, phân
phối, hay lƣu thông sản phẩm mang đối tƣợng SHTT đƣợc bảo hộ quyền SHTT
sau khi sản phẩm này đƣợc chính chủ sở hữu quyền SHTT, hoặc cá nhân, tổ
chức đƣợc chủ sở hữu quyền SHTT cho phép đƣa ra thị trƣờng.
Là một học thuyết pháp lí, thuyết hết quyền đƣợc hình thành thông qua
các án lệ và đƣợc các học giả phát triển. Thuyết hết quyền đóng vai trò quan
trọng trong giải thích pháp luật, hiểu những chính sách liên quan đến pháp luật,
hƣớng dẫn tòa án trong quá trình xét xử, xây dựng chính sách, pháp luật SHTT
và cạnh tranh. Đối với hệ thống Thông luật (common law) thì thuyết hết quyền
có thể đƣợc áp dụng trực tiếp với vai trò của một loại nguồn luật. Đối với hệ
thống Dân luật (civil law) thì các học thuyết nhƣ thế này không đƣợc thừa nhận
là nguồn của luật tuy nhiên vẫn có sức ảnh hƣởng lớn đối với sự phát triển của
pháp luật và để có thể áp dụng đƣợc thì nội dung học thuyết này cần phải đƣợc

đƣa vào các quy định pháp luật cụ thể.
Nhƣ đã trình bày, học thuyết hết quyền đƣợc hình thành để đảm bảo hai
mục tiêu. Thứ nhất là đảm bảo việc bảo hộ quyền SHTT. Nhƣ chúng ta đều
17


biết, thành quả sáng tạo trong lao động của con ngƣời đóng vai trò quan trọng
đối với khoa học, công nghệ, kinh tế… của mỗi quốc gia. Nếu nhƣ trƣớc đây,
tài sản hữu hình nhƣ đất đai, vốn… đƣợc coi là tiêu chuẩn để đánh giá nền kinh
tế thì hiện nay còn xuất hiện thêm những tiêu chuẩn mới, đó chính là tài sản
dựa trên tri thức. Vì vậy, việc bảo vệ tài sản trí tuệ là cần thiết, điều này nhằm
khuyến khích sáng tạo, phân chia và sự dủng hiệu quả nguồn tài sản trí tuệ, hài
hòa lợi ích của chủ thể sáng tạo và các chủ thể khác trong xã hội. Cho đến nay
các lập luận công nhận việc bảo vệ quyền SHTT đều cho rằng cần trao cho chủ
sở hữu quyền SHTT độc quyền trong một khoảng thời gian nhất định. Thứ hai
là đảm bảo sự lƣu thông của hàng hóa, chính là đảm bảo quyền lợi của ngƣời
tiêu dùng. Pháp luật SHTT trao cho chủ thể nắm giữ quyền SHTT những quyền
nhằm mục đích khuyến khích sáng tạo, bởi vì chi phí đầu tƣ và nỗ lực của chủ
thể sáng tạo có thể đƣợc bù đắp. Đƣợc cấp văn bằng bảo hộ sáng chế đồng
nghĩa với việc chủ sở hữu sáng chế đƣợc trao độc quyền ngăn chặn chủ thể
khác tạo ra, sử dụng… sản phẩm mang đối tƣợng SHTT đƣợc bảo hộ sáng chế.
Quyền tác giả trao cho chủ sở hữu quyền tác giả quyền ngăn chặn ngƣời khác
sao chép hoặc phân phối tác phẩm. Đƣợc trao quyền đối với nhãn hiệu, chủ sở
hữu nhãn hiệu đƣợc gắn nhãn hiệu lên hàng hóa và ngăn chặn chủ thể khác sử
dụng những dấu hiệu trùng hoặc dấu hiệu tƣơng tự cho những hàng hóa, dịch
vụ trùng hoặc tƣơng tự với những hàng hóa, dịch vụ trong danh mục đăng kí
cũng với nhãn hiệu đƣợc bảo hộ nếu nhƣ việc sử dụng này gây nhầm lẫn về
nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ. Sự tồn tại của những độc quyền không gây
tổn hại cho thị trƣờng và ngƣời tiêu dùng. Tuy nhiên thực hiện những độc
quyền này lại gây ra những tác động tiêu cực đến khả năng tiếp cận hàng hóa

của ngƣời tiêu dùng, sự lƣu chuyển bình thƣờng của hàng hóa và dịch vụ trên
thị trƣờng, và cạnh tranh. Có những ý kiến cho rằng: “Nếu chủ sở hữu quyền
SHTT dựa vào những quyền này để tiếp tục kiểm soát hàng hóa mà họ đã đƣa
ra thị trƣờng, những chủ thể này có một công cụ đặc biệt để chi cắt thị trƣờng,
phân biệt giá, kiềm chế cạnh tranh với cùng một nhãn hiệu và thƣờng gắn liền
với hành động chống cạnh tranh”. Thêm nữa, tự do lƣu chuyển hàng hóa đƣợc
18


hiểu theo nghĩa rộng là hàng hóa có thể đƣợc lƣu thông trên thị trƣờng quốc tế
cũng nhƣ lƣu thông trên thị trƣờng quốc gia mà không gặp phải rào cản nào.
Quyền SHTT mang đặc điểm lãnh thổ và trƣớc hết dựa trên pháp luật quốc gia,
còn việc hàng hóa đƣợc lƣu chuyển tự do thì dựa vào pháp luật quốc tế và
nhằm mục đích giảm bớt tiến tới xóa bỏ những rào cản trong thƣơng mại hàng
hóa, thƣơng mại dịch vụ xuyên quốc gia. Chính vì thế, thuyết hết quyền đƣợc
hình thành để tạo ra thế cân bằng giữa bảo hộ quyền SHTT và việc hàng hóa,
dịch vụ đƣợc tự do lƣu thông, nói cách khác chính là cân bằng giữa lợi ích của
chủ thể nắm giữ quyền SHTT và ngƣời tiêu dùng.
1.2.1 Khái niệm hết quyền SHTT
Hết quyền SHTT là sự giới hạn đối với quyền SHTT, đây là trạng thái
chủ sở hữu quyền SHTT không còn quyền phân phối đối với một sản phẩm cụ
thể, khi sản phẩm đã đƣợc đƣa ra thị trƣờng bởi chính chủ sở hữu quyền SHTT,
hoặc với sự đồng ý của chủ thể này.3
Nhƣ vậy hết quyền SHTT có những đặc điểm sau:
(i)

Hết quyền SHTT xảy ra khi thỏa mãn hai điều

kiện là sản phẩm đã đƣợc đƣa ra thị trƣờng và hành động
đƣa sản phẩm ra thị trƣờng đƣợc thực hiện bởi chủ thể nắm

giữ quyền SHTT, hoặc với sự đồng ý của chủ thể này;
(ii)

Khi hết quyền SHTT xảy ra, chỉ có quyền phân

phối sản phẩm không còn nhƣng không ảnh hƣởng gì đến
quyền sản xuất;
(iii)

Khi hết quyền SHTT xảy ra, chỉ quyền phân

phối đối với sản phẩm cụ thể đã đƣợc đƣa ra thị trƣờng
không còn và những sản phẩm chƣa đƣợc đƣa ra thị trƣờng
thì không bị ảnh hƣởng.

3

Hết quyền đối với nhãn hiệu trong pháp luật, thực tiễn quốc tế và Việt Nam, TS. Nguyễn
Nhƣ Quỳnh, NXB. Chính trị quốc gia, tr.53

19


×