Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (824.54 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ LAN ANH

SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ
SINH SẢN VỚI TINH TRÙNG TỪ NGÂN
HÀNG TINH TRÙNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ LAN ANH

SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ
SINH SẢN VỚI TINH TRÙNG TỪ NGÂN
HÀNG TINH TRÙNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ LAN

Hà Nội – 2017
ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực.Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PHAN THỊ LAN ANH

i


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .................................................................. v
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1 ........................................................................................................... 7
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH
SẢN VỚI TINH TRÙNG TỪ NGÂN HÀNG TINH TRÙNG ....................... 7
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT
HỖ TRỢ SINH SẢN VỚI TINH TRÙNG TỪ NGÂN HÀNG TINH TRÙNG

........................................................................................................................... 7
1.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH
SẢN VỚI TINH TRÙNG TỪ NGÂN HÀNG TINH TRÙNG ...................... 12
1.2.1. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh
trùng là kết quả của việc ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực
y học ................................................................................................................ 12
1.2.2. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh
trùng mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp............................................................. 14
1.2.3. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh
trùng giúp đảm bảo khả năng thực hiện chức năng cơ bản của gia đình - chức
năng tái sản xuất con ngƣời............................................................................. 15
1.3. SƠ LƢỢC PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT
HỖ TRỢ SINH SÁN VỚI TINH TRÙNG TỪ NGÂN HÀNG TINH TRÙNG
......................................................................................................................... 16
1.4. QUY ĐỊNH CỦA MỘT SỐ NƢỚC VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT
HỖ TRỢ SINH SẢN VỚI TINH TRÙNG TỪ NGÂN HÀNG TÌNH TRÙNG
......................................................................................................................... 21
1.4.1. Quy định về ngƣời hiến tinh trùng ........................................................ 21

ii


1.4.2. Lấy tinh trùng sau khi chết .................................................................... 23
Chương 2 ......................................................................................................... 25
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT
HỖ TRỢ SINH SẢN VỚI TINH TRÙNG TỪ NGÂN HÀNG TINH TRÙNG
......................................................................................................................... 25
2.1. NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN ............ 25
2.1.1. Quyền đƣợc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ............................. 25
2.1.2. Nguyên tắc tự nguyện ........................................................................... 27

2.1.3. Nguyên tắc bí mật ................................................................................. 28
2.1.4. Thực hiện theo quy định do Bộ Y tế ban hành ..................................... 29
2.2. ĐIỀU KIỆN SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN VỚI
TINH TRÙNG TỪ NGÂN HÀNG TINH TRÙNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM ..................................................................................................... 33
2.2.1. Ngƣời gửi tinh trùng vào ngân hàng tinh trùng .................................... 33
2.2.2. Ngƣời nhận tinh trùng ........................................................................... 40
2.3. HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ
TRỢ SINH SẢN VỚI TINH TRÙNG TỪ NGÂN HÀNG TINH TRÙNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM ................................................................... 46
2.3.1. Xác định cha, mẹ trong trƣờng hợp ngƣời phụ nữ độc thân sinh con bằng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng ..................... 46
2.3.2. Xác định cha, mẹ trong trƣờng hợp vợ chồng vô sinh sinh con bằng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng........................... 48
2.3.3. Xác định cha, mẹ trong trƣờng hợp con sinh ra không trong thời kỳ hôn
nhân ................................................................................................................. 51
Chương 3 ......................................................................................................... 53

iii


NHỮNG VƢỚNG MẮC BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ
TRỢ SINH SẢN VỚI TINH TRÙNG TỪ NGÂN HÀNG TINH TRÙNG.. 53
3.1. NHỮNG VƢỚNG MẮC BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH VỀ NGƢỜI CÓ NGUYỆN VỌNG LƢU GIỮ TINH TRÙNG .......... 53
3.2. NHỮNG VƢỚNG MẮC BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON .............................................. 57
3.2.1. Những vƣớng mắc bất cập và giải pháp hoàn thiện quy định về xác định
cha, mẹ, con trong trƣờng hợp ngƣời chồng chết ........................................... 57

3.2.2. Những vƣớng mắc bất cập và giải pháp hoàn thiện quy định về xác định
cha, mẹ, con trong trƣờng hợp vợ chồng ly hôn ............................................. 62
3.3. NHỮNG VƢỚNG MẮC BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH CẤY TINH TRÙNG GIỮA NHỮNG NGƢỜI CÙNG DÕNG MÁU
VỀ TRỰC HỆ VÀ GIỮA NHỮNG NGƢỜI KHÁC GIỚI CÓ HỌ TRONG
PHẠM VI BA ĐỜI ......................................................................................... 64
3.4. NHỮNG VƢỚNG MẮC, BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH VỀ CHO VÀ NHẬN TINH TRÙNG ........................................ 65
3.5. NHỮNG VƢỚNG MẮC, BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH VỀ LẤY TINH TRÙNG CỦA NGƢỜI CHỒNG SAU KHI
CHẾT .............................................................................................................. 74
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 82

iv


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tắt

Tên viết đầy đủ

1

Luật HN&GĐ

Luật hôn nhân và gia đình

2


BLDS

Bộ luật dân sự

3

BLHS

Bộ luật hình sự

4

UBND

Ủy ban nhân dân

5

NLHVDS

Năng lực hành vi dân sự

6

Nghị định 10/2015/NĐ-

Nghị định 10/2015/NĐ-CP ngày 28

CP


tháng 01 năm 2015 Quy định về kỹ thuật

Số
thứ tự

sinh con trong ống nghiệm và điều kiện
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
7

Nghị định 126/2014/NĐCP

8

Nghị định 67/2015/NĐCP

Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31
tháng 12 năm 2014Quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn
nhân và gia đình.

Nghị định 67/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của nghị định số
110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm
2013 của chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tƣ
pháp, hành chính tƣ pháp, hôn nhân gia
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã

v



9

Quốc hội nƣớc
CHXHCNVN

10

Thông tƣ liên tịch
01/2016/TTLTTANDTC-VKSNDTC-

Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Thông tƣ liên tịch số 01 ngày 06 tháng
01 năm 2016 giữa Tòa án nhân dân tối
cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao Bộ Tƣ pháp

BTP

vi


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều tra mới nhất cho thấy, tại Việt Nam tỉ lệ vô sinh chiếm khoảng
8% các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản. Nhƣ vậy, ở nƣớc ta có đến hàng
triệu cặp vợ chồng có nhu cầu sinh con nhƣng vẫn chƣa thể thực hiện đƣợc
mơ ƣớc của mình. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời, thực sự đã mang lại

hạnh phúc lớn lao cho biết bao cặp vợ chồng. Theo đó, vấn đề sinh con bằng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng đang ngày càng
phổ biến và mang ý nghĩa vô cùng quan trọng, việc xác định cha, mẹ, con
cũng có những nét đặc trƣng riêng.
Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng
tinh trùng đó là việc sử dụng các kỹ thuật y học hiện đại để can thiệp vào quá
trình thụ thai của ngƣời phụ nữ với mục đích giúp những cặp vợ chồng hiếm
muộn, vô sinh hoặc phụ nữ độc thân có thể mang thai và có những đứa con
nhƣ họ ƣớc muốn.
Mặt khác, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân
hàng tinh trùng đã thể hiện sự phát triển vƣợt bậc của khoa học kĩ thuật, giải
quyết đƣợc tình trạng vô sinh của phụ nữ và nam giới do ảnh hƣởng của nhiều
yếu tố nhƣ môi trƣờng, hóa chất, hậu quả chiến tranh đem lại hạnh phúc và hi
vọng cho không ít các gia đình Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung.
Nhƣ vậy, vấn đề về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh
trùng từ ngân hàng tinh trùng đƣợc quy định khá cụ thể, chi tiết trong Luật
cũng nhƣ Nghị định, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện, áp
dụng. Tuy nhiên, những quy định này vẫn còn những hạn chế, bất cập cần
đƣợc điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.

1


Có thể thấy, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ
ngân hàng tinh trùng là vấn đề khá phức tạp, đặc biệt về mặt pháp lí, bởi nó
làm thay đổi những quan niệm truyền thống về mặt huyết thống giữa cha mẹ
và con. Nhƣng phƣơng pháp đã đáp ứng đƣợc nguyện vọng mong mỏi, tha
thiết đƣợc làm cha, là mẹ của những cặp vợ chồng không may bị hiếm muộn
hay vô sinh. Hơn nữa, nó còn thể hiện đƣợc giá trị nhân đạo cao đẹp và sự
tiến bộ vƣợt bậc của khoa học kĩ thuật.

Hiện nay, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân
hàng tinh trùng đƣợc áp dụng ở rất nhiều nƣớc trên thế giới và ở cả Việt Nam.
Thực tế cho thấy sinh con theo phƣơng pháp này có rất nhiều ƣu điểm vƣợt
bậc, nhƣng bên cạnh đó cũng có không ít những khó khăn khi thực hiện. Vì
vậy, cần có những văn bản pháp lý quy định và hƣớng dẫn rõ ràng, cụ thể về
vấn đề này.
Đặc biệt, khi tranh chấp phát sinh trong xác định cha, mẹ, con; quyền
nhân thân và quyền tài sản của đứa trẻ, quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng
tinh trùng sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết; do đó gây ra nhiều thiệt
thòi, ảnh hƣởng đến quyền lợi của đứa trẻ cũng nhƣ của các bên liên quan.
Từ những bất cập của pháp luật và thực tiễn của cuộc sống cần phải
nghiên cứu một cách toàn diện và nghiêm túc về vấn đề này để từ đó xây
dựng hành lang pháp lý vững chắc làm cơ sở giải quyết tranh chấp phát sinh.
Đó chính là lý do để tôi lựa chọn đề tài "Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng theo pháp luật Việt Nam".
Luận văn đã cố gắng phân tích các khía cạnh của vấn đề sinh con bằng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, nhất là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân
hàng tinh trùng nhƣ khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh
trùng từ ngân hàng tình trùng, nhìn dƣới góc độ y học, pháp lý; ý nghĩa của

2


việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh
trùng; các yếu tố ảnh hƣởng tới việc xây dựng pháp luật về nội dung này đồng
thời nêu lên thực trạng của việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với
tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng trong bối cảnh hiện nay. Tác giả cũng hi
vọng với những đóng góp của luận văn, các thông tin trong đây sẽ là nguồn
tài liệu tham khảo hữu ích đối với những ngƣời nghiên cứu luật pháp về vấn

đề tuy không còn mới mẻ nhƣng rất hấp dẫn này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng
tinh trùng không phải là một vấn đề mới. Với sự ra đời của ba em bé thụ tinh
trong ống nghiệm ở Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ năm 1998, pháp luật Việt Nam
lần đầu tiên đề cập đến vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tại
khoản 2 Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 với thuật ngữ sinh con
theo phƣơng pháp khoa học. Kể từ năm 2000 đến nay, sinh con bằng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng đƣợc đề cấp đến trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau: Nghị định số 12/2003/NĐ-CP, Nghị định số
10/2015/NĐ-CP, Thông tƣ số 07/2003/TT-BYT, Thông tƣ số 12/2012/TT-BYT,
Thông tƣ số 57/2015/TT-BYT, Luật Hiến, ghép mô, bộ phận cơ thể ngƣời và
hiến, lấy xác năm 2006, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Tuy nhiên số
lƣợng bài viết, công trình nghiên cứu dƣới góc độ pháp luật có liên quan đến
sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng
là không nhiều. Bài viết "Sinh con theo phương pháp khoa học và một số vấn đề
pháp lí có liên quan", của TS. Nguyễn Thị Lan, đăng trên Tạp chí Luật học,
số 2/2003, là một trong những bài đầu tiên đề cập tới vấn đề này. Bài viết đã
đề cấp tới nhiều khía cạnh pháp lý nhƣ phân tích điều kiện cho và nhận tinh
trùng, quyền làm cha, làm mẹ đối với đứa trẻ đƣợc sinh ra theo phƣơng pháp
khoa học, cũng nhƣ các xác định quan hệ cha, mẹ, con và những bất cập trong

3


quy định này… Có thể thấy đây là bài viết điển hình đầu tiên đề cập đến
những vấn đề có liên quan đến sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh
trùng từ ngân hàng tinh trùng một cách khái quát nhất, toàn diện nhất dƣới
góc độ pháp lý.
Cho đến thời gian gần đây khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

đã quy định chi tiết cụ thể hơn về vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản so với quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Nghị định
số 10/2015/NĐ-CP có hiệu lực bãi bỏ Nghị định số 12/2003/NĐ-CP đã có
nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về những thay đổi, bổ sung trong quy
định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Các bải viết này
chủ yếu tập trung vào vấn đề mang thai hộ, ít đề cập đến sinh con bằng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng. Bài viết "Thụ tinh
trong ống nghiệm và những vấn đề pháp lí phát sinh", của TS. Nguyễn Thị
Lan, đăng trên Tạp chí Luật học, số 2/2016, là bài viết đề cập đến nhiều nhất
những vấn đề pháp lý liên quan đến sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với
tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng. Bài viết đề cập điều kiện để ngƣời phụ nữ
độc thân hoặc cặp vợ chồng vô sinh đƣợc thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm; những vấn đề pháp lí phát sinh từ việc áp dụng các điều kiện
này, đặc biệt là trong vấn đề sử dụng noãn, tinh trùng, phôi khi một bên vợ,
chồng chết hoặc vợ chồng li hôn. Ngoài ra, bài viết còn đƣa ra một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm việc áp dụng pháp luật thống nhất, có hiệu
quả trên thực tế.
3. Đối tƣợng và nội dung nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề là những vấn đề lý
luận về vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân
hàng tinh trùng; là các quy định của pháp luật cũng nhƣ khả năng áp dụng quy
định vào thực tiễn hiện nay từ đó đƣa ra một số kiến nghị.

4


Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng
tinh trùng là một lĩnh vực rất rộng vừa liên quan đến y học vừa liên quan đến
pháp luật. Tuy nhiên, trong luận văn này chỉ nghiên cứu đến khía cạnh pháp
lý liên quan đến vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng

từ ngân hàng tinh trùng, đặc biệt chỉ nghiên cứu đến việc tinh trùng đƣợc gửi
vào ngân hàng tinh trùng vì mục đích sinh sản, không đề cập đến các mục
đích khác khi gửi tinh trùng vào ngân hàng tinh trùng trong luận văn.
Luận văn tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội dung của
đề tài khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng, cũng nhƣ chủ thể trong quan
hệ này, nguyên tắc khi áp dụng và hậu quả pháp lý nảy sinh. Từ đó đánh giá
khả năng áp dụng pháp luật và đƣa ra một số kiến nghị.
4. Mục đích nghiên cứu
* Mục tiêu tổng quát
Luận văn nghiên cứu phân tích và làm rõ nội dung quy định về vấn đề
sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng
theo pháp luật Việt Nam đã cụ thể và sát thực tiễn hay chƣa? Qua đó đánh giá
khả năng áp dụng quy định đã nêu vào thực tiễn.
* Mục tiêu cụ thể
Với mục tiêu nghiên cứu tổng quát nhƣ vậy, mục tiêu cụ thể nghiên
cứu đƣợc xác định những khía cạnh sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận khái quát chung về vấn đề sinh con
bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng
- Phân tích, đánh giá những quy định của Luật về vấn đề về vấn đề
sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng
- Thực trạng ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề có thể phát sinh
trong thực tiễn.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5


Để đạt đƣợc các mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu, luận văn đã sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:

- Phƣơng pháp bình luận đƣợc sử dụng trong chƣơng 1 của luận văn
khi nghiên cứu những vấn đề chung nhƣ khái niệm, ý nghĩa về sinh con bằng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng.
- Phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng ở chƣơng 2 của luận văn khi
nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật về vấn đề sinh con bằng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng.
- Phƣơng pháp tổng hợp khi nghiên cứu quy định quy định của các
nƣớc đánh giá khả năng áp dụng pháp luật và một số kiến nghị về sinh con
bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Khái quát chung về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng.
Chương 2: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ
ngân hàng tinh trùng theo pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Những vƣớng mắc bất cập và giải pháp hoàn thiện quy định
pháp luật Việt Nam về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ
ngân hàng tinh trùng.

6


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ SINH CON
BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN VỚI TINH TRÙNG
TỪ NGÂN HÀNG TINH TRÙNG

1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ SINH CON BẰNG KỸ THUẬT
HỖ TRỢ SINH SẢN VỚI TINH TRÙNG TỪ NGÂN HÀNG TINH

TRÙNG
Từ khi phƣơng pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) thành công năm
1978 ở Anh, khái niệm các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hình thành và phát triển
rất mạnh trên toàn thế giới. Ở các nƣớc phát triển, hiện có khoảng 1-5% số em
bé sinh ra hiện nay là từ các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (không kể thụ tinh nhân
tạo). Ngƣời ta ƣớc tính có trên nửa triệu chu kỳ hỗ trợ sinh sản đƣợc thực hiện
mỗi năm trên toàn thế giới. Trên thế giới đã có hàng triệu em bé ra đời từ các
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Dƣới góc độ y học kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproductive
Technologies) là những kỹ thuật Y Sinh học đƣợc áp dụng để điều trị vô sinh.
Theo phân tích của nhiều trung tâm, thụ tinh nhân tạo (hay IUI) không
xếp vào các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Assisted Reproductive Technologies ART). Ngƣời ta định nghĩa rằng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bao gồm những
kỹ thuật điều trị vô sinh, trong đó, có chọc hút trứng và đem trứng ra bên
ngoài cơ thể. Tuy nhiên, trong điều kiện các kỹ thuật điều trị vô sinh ở Việt
Nam kỹ thuật thụ tinh nhân tạo đƣợc đƣa vào là một trong các kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản.
Thụ tinh nhân tạo - Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intra Uterine
Insemination - IUI) Thụ tinh nhân tạo là một trong những kỹ thuật điều trị vô
sinh phổ biến nhất, đặc biệt trong hoàn cảnh nƣớc ta hiện nay. Hiện nay, hầu

7


hết các trung tâm trên thế giới đều áp dụng kỹ thuật kỹ thuật bơm tinh trùng
sau chuẩn bị vào buồng tử cung để thực hiện thụ tinh nhân tạo. Do đó, khi nói
đến thụ tinh nhân tạo, có thể hiểu là kỹ thuật bơm tinh trùng vào tử cung với
tinh trùng đã chuẩn bị. Một số kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hiện nay không còn
hoặc ít đƣợc sử dụng nhƣ bơm tinh trùng đã chuẩn bị vào cổ tử cung, bơm
môi trƣờng chứa tinh trùng vào đến vòi trứng và ổ bụng.
Thụ tinh trong ống nghiệm và chuyển phôi (In-vitro Fertilization/

embryo transfer - IVF/ET) Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm có nghĩa là cho
trứng và tinh trùng kết hợp với nhau trong phòng thí nghiệm (thay vì trong
vòi trứng ngƣời phụ nữ). Sau đó, phôi hình thành sẽ đƣợc chuyển trở lại vào
buồng tử cung. Quá trình phát triển của phôi và thai sẽ diễn ra bình thƣờng
trong tử cung ngƣời mẹ. Tỉ lệ thành công trung bình trên thế giới hiện nay
khoảng 25%. Tỉ lệ này phụ thuộc vào tuổi bệnh nhân, chỉ định điều trị và phác
đồ điều trị của từng trung tâm.
Một số kỹ thuật phát sinh từ thụ tinh trong ống nghiệm: Chuyển giao
tử vào vòi trứng (GIFT), chuyển hợp tử vào vòi trứng (ZIFT) chuyển phôi vào
vòi trứng (TET). Các kỹ thuật này chỉ có thể thực hiện cho những trƣờng hợp
có ít nhất một vòi trứng hoàn toàn bình thƣờng về mặt giải phẫu và chức
năng. Kỹ thuật chuyển giao tử hoặc phôi vào vòi trứng phải đƣợc thực hiện
qua phẫu thuật nội soi ổ bụng. Tỉ lệ thành công của các kỹ thuật này nói
chung không cao hơn kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, trong khi đó chi phí
cao hơn, cần nhiều trang bị phức tạp hơn, tỉ lệ tai biến cao hơn và tỉ lệ thai
ngoài tử cung cũng cao hơn. Do đó, các kỹ thuật này hiện chỉ đƣợc áp dụng
rất ít, chủ yếu vì lý do tín ngƣỡng.
Tiêm tinh trùng vào bào tƣơng trứng (Intracytoplasmic Sperm Injection ICSI) Kỹ thuật đƣợc ra đời nhằm khắc phục tình trạng tỉ lệ thụ tinh thấp hoặc
không thụ tinh khi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm do bất thƣờng quá trình

8


thụ tinh hay chất lƣợng tinh trùng thấp. Với kỹ thuật này, ngƣời ta có thể tạo
một hợp tử hoàn chỉnh bằng một trứng và một tinh trùng duy nhất. Đây đƣợc
xem là một cuộc cách mạng trong điều trị vô sinh do nguyên nhân ở nam giới.
Kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tƣơng trứng hiện nay đã chiếm
khoảng 50% các chu kỳ thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và là một kỹ thuật
không thể thiếu ở một trung tâm hỗ trợ sinh sản. Kỹ thuật này có thể cho tỉ lệ
thụ tinh cao hơn, làm số phôi có đƣợc nhiều hơn, nhiều khả năng chọn lọc

đƣợc phôi tốt để chuyển vào buồng tử cung. Kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào
tƣơng trứng hiện nay có thể thực hiện với tinh trùng tƣơi hoặc sau trữ lạnh;
tinh trùng trong tinh dịch hoặc tinh trùng sinh thiết từ mào tinh và tinh hoàn.
Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với sự tham gia của "ngƣời thứ ba". Các kỹ
thuật điều trị trên cũng dựa trên cơ sở kỹ thuật của các kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm, chuyển giao tử vào vòi
trứng, chuyển hợp tử vào vòi trứng, chuyển phôi vào vòi trứng, tiêm tinh
trùng vào bào tƣơng trứng. Tuy nhiên, do tính chất của bệnh lý vô sinh, để
điều trị, cần có sự hỗ trợ về sinh học của ngƣời thứ ba. Đây là những kỹ thuật
điều trị có liên quan nhiều đến các vấn đề y học, pháp lý, nhân đạo và quan
niệm đạo đức xã hội.
Các kỹ thuật này bao gồm:
Xin tinh trùng: kỹ thuật này để điều trị cho các trƣờng hợp vô sinh
nam hoàn toàn không có tinh trùng.
Xin noãn: kỹ thuật này áp dụng cho những trƣờng hợp ngƣời vợ bị cắt
buồng trứng, buồng trứng bị suy yếu. Noãn xin từ ngƣời thứ ba có thể để thực
hiện thụ tinh trong ống nghiệm hoặc tiêm tinh trùng vào bào tƣơng trứng với
tinh trùng chồng sau đó chuyển phôi lại vào tử cung ngƣời vợ.

9


Xin phôi: phôi dƣ từ các cặp vợ chồng làm thụ tinh trong ống nghiệm
sau khi đã thành công, có đủ con, đƣợc tự nguyện hiến lại cho ngân hàng
phôi. Phôi đƣợc chuyển vào tử cung ngƣời xin.
Mang thai hộ: kỹ thuật này thƣờng đƣợc áp dụng cho những trƣờng
hợp ngƣời phụ nữ có buồng trứng bình thƣờng nhƣng đã bị cắt tử cung hoặc
bị bệnh lý nội khoa nặng (Ví dụ: bệnh tim) khiến việc mang thai có thể nguy
hiểm đến tính mạng của mẹ và con. Tinh trùng chồng và trứng ngƣời vợ đƣợc
cho thụ tinh trong ống nghiệm. Sau đó phôi đƣợc chuyển vào tử cung ngƣời

mang thai hộ.
Ngoài ra, còn có các kỹ thuật hỗ trợ khác nhƣ: trữ lạnh tinh trùng, rã
đông tinh trùng, trữ lạnh mô tinh hoàn, rã đông mô tinh hoàn, trữ lạnh noãn,
rã đông noãn, trữ lạnh phôi, rã đông phôi, phẫu thuật lấy tinh trùng, hỗ trợ
phôi thoát màng [37].
Trƣớc sự phát triển của các kỹ thật hỗ trợ sinh sản và việc áp dụng
thành công kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm trong việc điều trị vô sinh ở Việt
Nam, đánh dấu sự ra đời của ba em bé lần đầu tiên đƣợc sinh ra nhờ kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm năm 1998. Pháp luật Việt Nam lần đầu tiên đề cập
đến các khái niệm noãn, phôi, thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm trong
Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12 tháng 02 năm 2003 của Chính phủ về
sinh con theo phƣơng pháp khoa học. Trong đó sinh con theo phƣơng pháp khoa
học đƣợc hiểu là việc sinh con đƣợc thực hiện bằng các kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản nhƣ thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong ống nghiệm. Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 không còn sử dụng thuật ngữ sinh con theo phƣơng pháp khoa
học mà thay bằng sử dụng thuật ngữ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Khoản 21 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải thích
"sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm".

10


Tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP giải thích: "Thụ tinh
trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để
tạo thành phôi".
Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Nghị định số
10/2015/NĐ-CP không giải thích thụ tinh nhân tạo nhƣng căn cứ khoản 2
Điều 3 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP thì thụ tinh nhân tạo đƣợc hiểu là: "Thụ
tinh nhân tạo là thủ thuật bơm tinh trùng của chồng hoặc của ngƣời cho tinh

trùng vào tử cung của ngƣời phụ nữ có nhu cầu sinh con để tạo phôi".
Tại khoản 3, 4, 5 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP giải thích: Noãn là
giao tử của nữ; tinh trùng là giao tử của nam; phôi là sản phẩm của quá trình
kết hợp giữa noãn và tinh trùng.
Vậy sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc áp dụng một trong
các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để lấy noãn, tinh trùng ra khỏi cơ thể sau đó tạo
điều kiện thuận lợi cho noãn và tinh trùng kết hợp với nhau và khi tạo thành
phôi thì phôi sẽ đƣợc phát triển trong tử cung của ngƣời mẹ.
Tinh trùng sau khi đƣợc lấy ra khỏi cơ thể ngƣời nam sẽ đƣợc bảo
quản bằng cách làm đông lạnh ở -196 độ C và đƣợc lƣu giữ tại ngân hàng tinh
trùng và khi cần sử dụng tinh trùng sẽ đƣợc rã đông cung ứng cho ngƣời sử
dụng. Vậy ngân hàng tinh trùng là nơi tập hợp các mẫu tinh trùng đƣợc gửi
vào để lƣu giữ, bảo quản tinh trùng phục vụ cho việc thực hiện sinh con bằng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hoặc vì nguyện vọng lƣu giữ cà nhân. Ngoài ra ngân
hàng tinh trùng còn có chức năng cung ứng tinh trùng cho cặp vợ chồng vô
sinh hoặc phụ nữ độc thân muốn sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hoặc
hiến tặng cho các cơ sở làm nghiên cứu khoa học.
Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng
tinh trùng là việc ngân hàng tinh trùng cung ứng tinh trùng cho ngƣời phụ nữ
có nhu cầu để họ thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Vậy

11


đây là trƣờng hợp ngƣời phụ nữ dùng noãn của chính mình kết hợp với tinh
trùng từ ngân hàng tinh trùng tạo thành phôi. Phôi đƣợc phát triển trong tử
cung của ngƣời phụ nữ đó. Đứa trẻ sinh ra có chung huyết thống của ngƣời
phụ nữ sinh ra đứa trẻ đó và huyết thống của ngƣời đã gửi tinh trùng vào ngân
hàng tinh trùng.
1.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ

SINH SẢN VỚI TINH TRÙNG TỪ NGÂN HÀNG TINH TRÙNG
1.2.1. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng
tinh trùng là kết quả của việc ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật trong
lĩnh vực y học
Tại Việt Nam mặc dù thụ tinh trong ống nghiệm đƣợc thực hiện thành
công khá muộn so với các nƣớc trên thế giới và trong khu vực. Tuy nhiên
trong những năm qua, lĩnh vực điều trị vô sinh của nƣớc ta đã có những tiến
bộ vƣợt bậc. Hiện nay, chúng ta đã thực hiện thành công các kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản phổ biến trên thế giới với tỉ lệ thành công khá cao và ổn định.
Nhu cầu điều trị vô sinh ở nƣớc ta ngày một tăng, các cơ sở khám
chữa bệnh phụ khoa và trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản cũng đã thành
lập các đơn vị điều trị vô sinh, đặc biệt vào năm 2011, với sự ra đời của Trung
tâm nghiên cứu về di truyền và sức khỏe sinh sản (Khoa Y Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh), Việt Nam trở thành một trong bốn trung tâm đào
tạo về hỗ trợ sinh sản lớn nhất của Châu Á (cùng với Singapore, Ấn Độ,
Trung Quốc) và hiện mỗi năm tiếp nhận đào tạo, huấn luyện đào tạo cho
nhiều bác sĩ nƣớc ngoài.
Theo Hội nội tiết sinh sản - vô sinh Thành phố Hồ Chí Minh,
cả nƣớc hiện có 15 Trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm và đến
nay, hơn 10.000 trẻ đã ra đời nhờ kỹ thuật này. Ngoài ra, Việt Nam
là nơi thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm nhiều nhất khu vực Đông

12


Nam Á. Kỹ thuật và tỷ lệ thành công của thụ tinh trong ống nghiệm
ở Việt Nam ngang bằng các nƣớc tiên tiến trên thế giới, có thể thực
hiện đƣợc hầu hết các kỹ thuật hiện đại của thế giới [36, tr. 40].
Giáo sƣ - Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phƣợng, Bệnh viện Phụ sản Từ
Dũ, Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, từ năm 2000, Việt Nam bắt đầu nhận

thụ tinh trong ống nghiệm cho ngƣời nƣớc ngoài và ngày càng thu hút họ đến
nƣớc ta. Cũng theo bác sĩ:
Theo thống kê chƣa đầy đủ, chỉ riêng ba trung tâm lớn trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là bệnh viện An Sinh, bệnh viện
Vạn Hạnh, bệnh viện Từ Dũ, mỗi trung tâm tiếp nhận, điều trị, hỗ
trợ sinh sản thụ tinh trong ống nghiệm cho khoảng 200 trƣờng hợp
ngƣời nƣớc ngoài/năm và con số này ngày càng gia tăng. Trong đó,
bệnh viện An Sinh mỗi năm có 100-150 trƣờng hợp điều trị thụ tinh
trong ống nghiệm cho ngƣời nƣớc ngoài [36, tr. 40].
Trong khi đó, theo các chuyên gia y tế, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
của Việt Nam hiện đã phát triển thành công dù đi sau nhờ nhiều yếu tố. Đó là
đƣợc đầu tƣ thiết bị tiên tiến, cán bộ y tế lĩnh vực này đều trẻ, đƣợc đào tạo bài
bản ở nƣớc ngoài, có kinh nghiệm và kiến thức nền tảng tốt, tổ chức đƣợc những
hội thảo nhóm hằng năm có chất lƣợng chuyên môn cao, đi sâu vào học thuật,
đội ngũ bác sĩ, nhân viên hỗ trợ LAB, điều dƣỡng… giao tiếp tiếng Anh tốt.
Một trong những yếu tố góp phần vào thành công này là do chi phí
thấp. Cụ thể, một ca thụ tinh trong ống nghiệm ở Việt Nam chỉ bằng 1/4 hoặc
1/3 với khu vực và 1/6 -1/8 so với Mỹ [36, tr. 40].
Thành tựu gần đây nhất Bệnh viện Từ Dũ đã thành công trong việc
thực hiện kỹ thuật nuôi trƣởng thành noãn trong ống nghiệm. Đây là một kỹ
thuật khó, trên thế giới ít có bệnh viện nào có thể thực hiện đƣợc. Với thành
công này Việt Nam đƣợc xem nhƣ một trong những quốc gia hàng đầu trong

13


kỹ thuật này, nhiều chuyên gia của Việt Nam đƣợc mời sang nƣớc ngoài để
giảng dạy kỹ thuật trên cũng nhƣ thu hút nhiều học viên các nƣớc khác tìm
đến Việt Nam để học tập. Điều này đã từng bƣớc khẳng định đƣợc vị trí của
Việt Nam trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, không chỉ về kinh nghiệm điều trị,

nghiên cứu khoa học mà còn là một trung tâm đào tạo cho khu vực, công nghệ
cao và thực hiện hầu hết các kỹ thuật điều trị vô sinh trên thế giới.
Với những kết quả đã đạt đƣợc, cùng rất nhiều cơ hội mới từ việc
nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật của các nƣớc trên thế giới vào Việt
Nam, trong tƣơng lai chắc chắn các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, trong đó có
những kĩ thuật hỗ trợ sinh sản liên quan đến vấn đề đảm bảo an toàn, hiệu quả
cho hỗ trợ sinh sản với tinh trùng sẽ ngày một phát triển hơn. Chúng ta, với tƣ
cách là những công dân của đất nƣớc, chắc chắn sẽ đƣợc tiếp nhận những
thành tựu, những lợi ích và thành quả mà y học mang lại.
1.2.2. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng
tinh trùng mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp
Tỷ lệ vô sinh ở nƣớc ta khá cao, theo kết quả điều tra dân số
năm 1982, tỷ lệ vô sinh chung là 13%. Nghiên cứu của tác giả Âu
Nhật Luân (1995), tỷ lệ vô sinh ở nƣớc ta vào khoảng 7% đến 10%
dân số. Gần đây hơn, kết quả điều tra của tác giả Phạm Văn Quyền
(2000) và Trần Thị Phƣơng Mai (1999) cho thấy tỷ lệ vô sinh ở
nƣớc ta khoảng từ 10% - 15% dân số [33, tr. 42].
Đây là một vấn đề lớn không chỉ riêng cho ngành y tế mà là chung
cho toàn xã hội. Các quy định pháp luật về vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản ra đời không chỉ mang lại niềm vui cho những ngƣời bị vô sinh
mà còn là hành lang pháp lý quan trọng cho giới chuyên môn và cho những
ngƣời muốn điều trị vô sinh.

14


Thêm nữa, cuộc sống công nghiệp hiện đại cùng nhịp sống hối hả
không những cuốn hút phái nam mà cả phái nữ. Càng ngày càng có nhiều phụ
nữ độc thân lựa chọn biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và
thƣờng nằm ở đối tƣợng phụ nữ thành đạt.

Bên cạnh đó, việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm
phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa ngƣời cho tinh trùng, cho noãn, cho
phôi với ngƣời con đƣợc sinh ra: quy định này phù hợp với nguyên tắc áp
dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là: "việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận
phôi đƣợc thực hiện trên nguyên tắc vô danh giữa ngƣời cho và ngƣời
nhận" [12, khoản 4 Điều 3]. Lý do mà pháp luật quy định nhƣ vậy xuất phát
từ việc chính cặp vợ chồng vô sinh và ngƣời phụ nữ độc thân là ngƣời đem lại
sự sống cho đứa trẻ và họ cũng là ngƣời mong muốn có đứa trẻ chứ không
phải là ngƣời cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi. Quy định trên cũng nhằm
tránh những tranh chấp về quan hệ cha, mẹ, con của các chủ thể liên quan, là cơ
sở đảm bảo ổn định mối quan hệ cha, mẹ, con, giúp cặp vợ chồng, ngƣời phụ
nữ độc thân yên tâm nuôi dạy đứa trẻ trong điều kiện tốt nhất.
Vì thế, hoàn toàn có thể khẳng định rằng, việc tiến hành các biện pháp
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, trong đó có hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân
hàng tinh trùng là hoàn toàn phù hợp thực tế, mang ý nghĩa nhân văn cao cả.
1.2.3. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng
tinh trùng giúp đảm bảo khả năng thực hiện chức năng cơ bản của gia
đình - chức năng tái sản xuất con người
Là một trong những thiết chế cơ bản của xã hội, gia đình đảm nhận
chức năng tái sản xuất con ngƣời; tái tạo, bảo dƣỡng sức lao động cho xã hội.
Tái sản xuất con ngƣời là một chức năng cơ bản và riêng có của gia đình.
Hoạt động sinh con đẻ cái trƣớc hết xuất phát từ nhu cầu tồn tại của chính con
ngƣời, của xã hội. Việc thực hiện chức năng này không chỉ nhằm thỏa mãn

15


nhu cầu, mong ƣớc của ngƣời vợ, ngƣời chồng mà còn là vấn đề xã hội, vấn
đề duy trì tính liên tục của xã hội.
Theo Ph. Ăngghen, "con ngƣời ta thay đổi hàng ngày cuộc sống của

mình, bắt đầu sản xuất ra những con ngƣời khác tức là tự tái sản xuất, đó là
quan hệ giữa đàn ông và đàn bà, giữa cha mẹ và con cái, đó là gia đình" [1].
Nếu không có sản xuất và tái sản xuất, kể cả tái sản xuất con ngƣời thì xã hội
không phát triển, thậm chí không tồn tại đƣợc. Gia đình không chỉ tái sản xuất
con ngƣời về mặt thể chất mà còn tái sản xuất ra đời sống tình cảm, tâm hồn,
văn hóa tức là quá trình xã hội hóa con ngƣời, quá trình biến đứa trẻ từ một
sinh vật ngƣời thành con ngƣời xã hội.
Nhờ có kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng
mà chức năng duy trì nòi giống của các cặp vợ chồng hiếm muộn đƣợc đảm
bảo đồng thời đáp ứng đƣợc nhu cầu sinh con cùng huyết thống, cùng mã gen
với bố mẹ. Yếu tố huyết thống không chỉ là cơ sở để xác định cha, mẹ, con
mà còn là cơ sở xác định nguồn gốc, dòng họ, gia phả với những giá trị văn
hóa tinh thần, đạo đức và truyền thống của dòng họ gắn với mỗi con ngƣời cụ
thể. Đó cũng là lý do để những cặp vợ chồng hiếm muộn vẫn luôn khao khát
có đứa con mang dòng máu của mình và các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản đƣợc tiến hành, trong đó phải kể đến kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh
trùng từ ngân hàng tinh trùng.
Rõ ràng, các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã giúp đảm bảo khả năng
thực hiện chức năng cơ bản của gia đình - chức năng tái sản xuất con ngƣời.
1.3. SƠ LƢỢC PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SINH CON BẰNG KỸ
THUẬT HỖ TRỢ SINH SÁN VỚI TINH TRÙNG TỪ NGÂN HÀNG
TINH TRÙNG
Năm 1978 là một trong những mốc quan trọng trong lịch sử y học thế
giới. Tại Anh, em bé đầu tiên đƣợc sinh ra nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm, đó là sự khởi đầu cho sự phát triển của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trên

16


ngƣời. Sau đó, trong những năm 80, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đã

phát triển rất mạnh và lần lƣợt đƣợc báo cáo thành công tại nhiều nƣớc trên
thế giới, kể cả ở Châu Á. Năm 1983, Singapore thực hiện thành công kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm. Đây cũng là quốc gia Châu Á đầu tiên thực hiện
thành công kỹ thuật này.
Tại Việt Nam, kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đƣợc thực hiện
thành công khá muộn so với các nƣớc trên thế giới và trong khu vực. Năm
1997, Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ bắt đầu triển khai thực hiện kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm, đến ngày 30/4/1998, 03 em bé thụ tinh trong ống nghiệm
đầu tiên ra đời ở Việt Nam. Từ năm 1998 đến năm 2000, sau thành công ban
đầu này, Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ bƣớc đầu đào tạo và chuyển giao công
nghệ cho các Viện: Học viện Quân y, Bệnh viện Hùng Vƣơng, Viện Bảo vệ
bà mẹ và sơ sinh, Bệnh viện Phụ sản Quốc tế và bác sĩ do Sở Y tế Cần Thơ
cử. Việc đào tạo và chuyển giao công nghệ đã có những bƣớc thành công nhất
định. Năm 2001, Viện Bảo vệ bà mẹ và sơ sinh, Bệnh viện Phụ sản Quốc tế
đã thành công trong việc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
Pháp luật lần đầu tiên đề cập vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản tại khoản 2 Điều 63 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đƣợc Quốc hội
nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 09 tháng 06 năm 2000 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2001 quy định: "Việc xác định cha, mẹ cho con đƣợc sinh ra theo phƣơng
pháp khoa học do Chính phủ quy định".
Vậy, sau hai năm kể từ khi đứa trẻ đầu tiên đƣợc sinh ra nhờ kỹ thuật
thụ tinh nhân tạo thì pháp luật mới đề cập đến sinh con theo phƣơng pháp
khoa học chứ chƣa có một quy định cụ thể nào về vấn đề này.
Ngày 12 tháng 02 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số
12/2003/NĐ-CP về sinh con theo phƣơng pháp khoa học (sau nay gọi là sinh

17



×