Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

So sánh chế độ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật việt nam và pháp luật trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN CHÍ VIỆT

SO SÁNH CHẾ ĐỊNH BỒI THƢỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN CHÍ VIỆT

SO SÁNH CHẾ ĐỊNH BỒI THƢỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC
Chuyên ngành
Mã số

: Luật Dân sự và TTDS
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thị Huệ



Hà Nội – 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Chí Việt


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................................................................1
Chƣơng I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BTTHNHĐ THEO PHÁP LUẬT
TRUNG QUỐC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM .............................................................................5
1.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng .. 5
1.2. Điểm khác nhau giữa trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng và trách
nhiệm bồi thƣờng thiệt hại theongoài hợp đồng ..................................................................... 7
1.3. Khái lƣợc quy định pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng ..................... 9
1.3.1. Nguồn pháp luật điều chỉnh theo pháp luật Việt Nam ................................................................. 9
1.3.2. Nguồn luật điều chỉnh theo pháp luật Trung Quốc ....................................................................10
Chƣơng II: QUY ĐỊNH VỀ BỒI THỜI THƢỜNG HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

THEO PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM .......................... 11
2.1. Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng.................... 11
2.1.1. Có hành vi trái pháp luật......................................................................................................................11
2.1.2. Có thiệt hại thực tế..................................................................................................................................13
2.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại....................................................................20
2.1.4. Có lỗi của người thực hiện hành vi...................................................................................................22
2.2. Nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng........................................................... 25
2.2.1. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại theo pháp luật Trung Quốc ...................................................25
2.2.2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại theo pháp luật Việt Nam.........................................................28
2.3. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng .............................. 31
2.3.1. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo pháp luật Trung Quốc.....................31
2.3.2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo pháp luật Việt Nam...........................37
2.4. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng ............................ 42
2.4.1. Thời hiệu khởi kiện theo pháp luật Trung Quốc..........................................................................42
2.4.2. Thời hiệu khởi kiện theo pháp luật Việt Nam................................................................................44
2.5. Cách xác định thiệt hại ngoài hợp đồng .......................................................................... 45
2.5.1. Cách xác định thiệt hại theo pháp luật Trung Quốc ...................................................................45
2.5.2. Cách xác định thiệt hại theo pháp luật Việt Nam ........................................................................55


2.6. Thời hạn hƣởng bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng ................................................. 63
2.6.1. Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm theo pháp
luật Trung Quốc.................................................................................................................................................63
2.6.2. Thời hạn hưởng bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm theo pháp
luật Việt Nam ......................................................................................................................................................67
2.7. Một số khía cạnh pháp lý về bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng hợp cụ thể ............ 69
2.7.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng .......69
2.7.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường................................71
2.7.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả ...........................................................73
2.7.4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tai nạn giao thông............................................................74

2.8. Những điểm giống và khác nhau cơ bản quy định pháp luật Việt Nam và Trung
Quốc về bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng........................................................................ 77
2.8.1. Điểm giống nhau cơ bản......................................................................................................................77
2.8.2. Điểm khác nhau cơ bản .......................................................................................................................81
Chƣơng III. ƢU ĐIỂM CỦA CHẾ ĐỊNH BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI
HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC. HẠN CHẾ VÀ PHƢƠNG
HƢỚNG HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH BỒI THƢỜNG THIỆT H ẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM. ................................................................................. 90
3.1. Ƣu điểm của chế định bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp luật Trung
Quốc................................................................................................................................................ 91
3.2. Hạn chế của chế định bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồngtheo pháp luật Việt Nam
.......................................................................................................................................................... 96
3.3. Phƣơng hƣớng hoàn thiện chế định bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng theo pháp
luật Việt Nam.............................................................................................................................. 106
3.3.1. Định hƣớng chung hoàn thiện chế định bồi thƣờng thiệt hại ngoài hộp đồng....106
3.3.2. Một số giải pháp hoàn thiện chế định bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng..................107
KẾT LUẬN.............................................................................................................................................. 119
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................................. 121


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. BLDS

: Bộ luật dân sự

2. BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

3. BTTHNHĐ : Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

4. BTTH

: Bồi thường thiệt hại

5. TAND

: Tòa án nhân dân

6. HĐXX

: Hội đồng xét xử

7. TNDS

: Trách nhiệm dân sự


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mỗi một lĩnh vực pháp luật đều có chức năng và phạm vi điều chỉnh riêng.
Pháp luật dân sự có chức năng quan trọng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ thể dân sự. Các quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật dân sự thừa nhận và
bảo vệ là nhân thân và tài sản như quyền về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản.v.v..Đây là những quyền lợi cơ bản của các chủ thể dân sự.Mọi
người đều phải tôn trọng và bất khả xâm phạm tới quyền và lợi ích của người khác.
Trong xã hội ngày nay, các hành vi xâm phạm quyền, đối tượng bị xâm phạm, các
dạng thiệt hại ngày càng đa dạng và phong phú. Hệ thống các quy định hiện hành về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự, các văn bản hướng dẫn
thi hành chưa đáp ứng được nhu cầu giải quyết tranh chấp trong thực tế.
BLDS năm 2015 mới được Quốc hội ban hành và có hiệu lực từ ngày

01/7/2015.Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLDS 2015 có nhiều
điểm mới tích cực.Tuy nhiên, chế định chỉ có thể nêu được những vấn đề khái quát
về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bên cạnh đó, cần phải có hệ thống các văn
bản hướng dẫn thi hành kèm theo để giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại ở những
lĩnh vực cụ thể. Về mặt tổng quan, các văn bản hướng dẫn về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng của chúng ta hiện nay còn thiếu nhiều. Vì vậy trong thời gian tới,
chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng, bổ sung các quy định về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. So sánh pháp luật là phương pháp hữu ích trong nghiên
cứu pháp luật.
Trung Quốc và Việt Nam là hai quốc gia theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Lịch
sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, cũng như pháp luật của hai quốc gia có nhiều điểm
tương đồng. Hiện nay, Trung Quốc đã xây dựng luật riêng về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, bên cạnh những quy định chung trong BLDS Trung quốc (hay còn
gọi là Quy tắc chung Luật dân sự Trung Quốc). Hệ thống văn bản hướng dẫn về bồi
thường thiệt ngoài hợp đồng của Trung Quốc khá đầy đủ và hoàn thiện. Thiết nghĩ,
Việt Nam hoàn toàn có thể đi sâu nghiên cứu, so sánh, đánh giá các quy định về bồi

1


thường thiệt hại theo pháp luật Trung Quốc để học hỏi, xây dựng chế định bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng của pháp luật Việt Nam trở lên hoàn thiện hơn.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài là “So sánh chế định BTTHNHĐ
theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc” làm đề tài luận văn Thạc sĩ,
chuyên ngành Luật dân sự và tố tụng dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, như: Luận văn thạc sỹ của Lê Mai Anh “Những
vấn đề cơ bản về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”; Luận văn thạc sỹ của Lê Thị
Bích Lan “Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm pahmj tính

mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín”; Luận văn thạc sỹ của Nguyễn
Minh Châu “Bồi thường thiệt hại trong trường hợp tính mạng, sức khỏe bị xâm
phạm, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”; Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Quỳnh
Anh “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật
gây ra theo Bộ luật dân sự năm 2005”… Ngoài ra, đã có nhiều cuốn sách chuyên
khảo, bài viết khoa học liên quan đến chế định này.Ở những công trình trên, các tác
giả tiếp cận ở các góc độ khác nhau, tập trung đi sâu nghiên cứu ở những vấn đề
khác nhau trong chế định BTTHNHĐ, với những phương thức nghiên cứu khác
nhau. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào so sánh một cách tương đối toàn diện
các quy định chung của chế định theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc.
Phương pháp so sánh là phương pháp hữu ích trong nghiên cứu khoa học. Việc so sánh
chế định theo pháp luật Việt Nam và Trung Quốc được xem là hướng tiếp cận mới mẻ.
Từ việc so sánh chế định, tác giả mong muốn chỉ ra những điểm tích cực của chế định
theo pháp luật Trung Quốc, thấy được hạn chế của chế định theo pháp luật Việt Nam
và đề xuất phương hướng hoàn thiện chế định theo pháp luật Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
3.1. Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu toàn diện, sâu sắc, có hệ thống một số
vấn đề lý luận chung của chế định BTTHNHĐ của Pháp luật Trung Quốc và Việt
Nam. So sánh những điểm giống và khác nhau căn bản giữa các quy định chung về

2


BTTHNHĐ theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc. Sau khi so sánh,
luận văn sẽ chỉ ra những điểm hạn chế của các quy định của pháp luật Việt Nam về
BTTHNHĐ.Từ đó, đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hiện hành.
3.2. Mục tiêu cụ thể:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm BTTHNHĐ theo pháp luật Việt
Nam và Trung Quốc.

- Làm rõ căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ theo pháp luật Việt Nam và
Trung Quốc.
- Làm rõ yếu tố lỗi trong BTTHNHĐ theo pháp luật Việt Nam và Trung Quốc.
- Làm rõ nguyên tắc, phương thức BTTHNHĐ theo pháp luật Việt Nam và
Trung Quốc.
- Làm rõ năng lực BTTHNHĐ theo pháp luật Việt Nam và Trung Quốc.
- So sánh chế định BTTHNHĐ theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc.
- Chỉ ra một số hạn chế của chế định BTTHNHĐ theo pháp luật Việt Nam và đưa
ra định hướng, giải pháp hoàn thiện chế định BTTHNHĐ theo pháp luật Việt Nam.
4. Tính mới và đóng góp của đề tài.
Là công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện các quy định
chung của pháp luật Việt Nam và Trung Quốc về chế định BTTHNHĐ, luận văn có
một số tính mới và đóng góp sau đây:
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện các quy định chung của chế
định BTTHNHĐ theo pháp luật Trung Quốc.
- Luận văn đưa ra góc nhìn toàn cảnh các quy định chung của pháp luật Việt Nam
và pháp luật Trung Quốc về chế định BTTHNHĐ.
- Luận văn phân tích tính hợp lý, nguồn gốc lý luận của một số quy định chung
trong chế định BTTHNHĐ theo pháp luật Trung Quốc.
- Luận văn chỉ ra những điểm hạn chế mang tính khái quát và cụ thể của chế định
BTTHNHĐ theo pháp luật Việt Nam. Đồng thời, đưa ra phương hướng và giải pháp
hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành.

3


5. Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
nghiên cứu trong luận văn đƣợc kết cấu gồm 03 chƣơng:
- Chương 1: Lý luận chung về trách nhiệm BTTHNHĐ theo quy định của
pháp luật Trung Quốc và pháp luật Việt Nam.

- Chương 2: Những quy định chung về BTTHNHĐ theo pháp luật Trung
Quốc và pháp luật Việt Nam.
- Chương 3: Ưu điểm của Luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo
pháp luật Trung Quốc. Hạn chế và phương hướng hoàn thiện chế định bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng theo pháp luật Việt Nam.
Với thời gian nghiên cứu không dài, bản thân tác giả còn nhiều hạn chế về
kiến thức và kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học, do đó luận văn
không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong các thầy, cô giáo và
các bạn góp ý để luận văn được hoàn chỉnh hơn.

4


Chƣơng I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BTTHNHĐ THEO PHÁP
LUẬT TRUNG QUỐC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm dân sự có nguồn gốc phát sinh từ ý chí thỏa thuận giữa các bên
(hợp đồng) hoặc nằm ngoài ý chí của các bên (ngoài hợp đồng). Trách nhiệm ngoài
hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự khi người nào đó có hành vi vi phạm nghĩa vụ
ngoài hợp đồng và được pháp luật quy định. Trách nhiệm BTTHNHĐ là một trong
những loại trách nhiệm ngoài hợp đồng. Trách nhiệm BTTHNHĐ được hiểu là một
loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật
quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Nếu trách nhiệm BTTH theo hợp đồng
bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối
với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ chức khác [12].

Điều 2 Luật trách nhiệm xâm phạm quyền Trung Quốc quy định về trách
nhiệm BTTHNHĐ như sau: “Xâm phạm quyền lợi dân sự phải chịu trách nhiệm
dân sự theo quy định của luật này. Quyền lợi dân sự được nêu trong luật này, bao
gồm các quyền nhân thân và tài sản như quyền tính mạng, quyền sức khỏe, quyền
danh tính, quyền danh dự, quyền vinh dự, quyền hình ảnh, quyền riêng tư, quyền tự
chủ hôn nhân, quyền giám hộ, quyền sở hữu, quyền dụng ích, quyền đảm bảo,
quyền tác giả, quyền phát minh sáng chế, quyền sử dụng thương hiệu, quyền phát
hiện, quyền cổ phần, quyền thừa kế.v.v..”.
Luật sư Bùi Văn Thấm có nêu khái niệm trách nhiệm BTTHNHĐ như sau:
“Trách nhiệm BTTHNHĐ là trách nhiệm hình thành từ việc thực hiện một hành vi
(cố ý hoặc vô ý), gây thiệt hại cho một người và hành vi đó không liên quan đến bất
kỳ một hợp đồng nào có thể xảy ra giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại”.

5


Trách nhiệm BTTHNHĐ ngoài những đặc điểm chung của trách nhiệm dân
sự, còn có một số đặc điểm riêng như sau:
- Về cơ sở phát sinh trách nhiệm: Trách nhiệm BTTHNHĐ là một loại trách
nhiệm dân sự phát sinh nằm ngoài ý chí của bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại.
Trách nhiệm BTTHNHD phát sinh trên cơ sở do pháp luật quy định.
- Về điều kiện phát sinh: Trách nhiệm BTTHNHĐ phát sinh khi có đủ các
điều kiện do pháp luật quy định. Liên quan đến yếu tố lỗi có là một trong những
điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ hay không? Hiện nay có hai quan điểm
trái chiều.Quan điểm thứ nhất cho rằng lỗi không phải là yếu tố bắt buộc. Căn cứ
pháp lý cho quan điểm này là Điều 584, BLDS 2015. Theo học thuyết rủi ro, điều
kiện về lỗi bị phủ nhận. Học thuyết này cho rằng, khi một người vì hoạt động của
mình tạo ra một rủi ro gây tai nạn cho một người khác, thì nạn nhân có thể đòi bồi
thường mà không phải chứng minh lỗi của bị đơn [8]. Trong BLDS tồn tại nhiều
quy định mà người gây thiệt hại phải bồi thường cho dù không có lỗi. Đó là một

quy định về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Có lẽ xuất phát từ lý do này mà
BLDS năm 2015 đã mạnh dạn bỏ đi yếu tố lỗi làm căn cứ phát sinh trách nhiệm
BTTHNHĐ. Quan điểm thứ hai cho rằng yếu tố lỗi là yếu tố bắt buộc cấu thành
trách nhiệm BTTHNHĐ. Mặc dù khoản 1, Điều 584 BLDS 2015 không ghi nhận
yếu tố lỗi là yếu tố bắt buộc cấu thành trách nhiệm BTTHNHĐ nhưng theo quy
định chung ở phần nghĩa vụ dân sự khi xác định nghĩa vụ vẫn xem xét yếu tố lỗi.
Hơn nữa, trong các điều luật cụ thể về các trường hợp BTTHNHĐ vẫn xét đến yếu
tố lỗi. Người viết tán thành quan điểm thứ nhất, bởi chính hành vi xâm phạm quyền
đã gây ra thiệt hại thì người thực hiện hành vi phải bồi thường để bù đắp cho người
bị thiệt hại. Lỗi chỉ được xem xét để xác định mức độ BTTH của người gây thiệt
hại.Ví dụ người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi
thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh
tế của mình (khoản 2, Điều 585 BLDS 2015).Trong trường hợp nhiều người cùng
gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng

6


với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi
thường thiệt hại theo phần bằng nhau (Điều 587 BLDS 2015).
- Về chủ thể chịu trách nhiệm: Trách nhiệm BTTH theo hợp đồng do các bên
tham gia hợp đồng gánh chịu. Trách nhiệm BTTHNHĐ ngoài việc áp dụng đối với
chủ thể thực hiện hành vi gây thiệt hại, còn áp dụng đối với chủ thể khác. Tức người
thực hiện trách nhiệm có thể không phải là người gây thiệt hại mà là người thứ ba
như cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ,
trường học đối với học viên, bệnh viện đối với bệnh nhân…
- Về mức độ bồi thường: Mức độ BTTH theo hợp đồng được xác định theo
thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Nếu các bên không thỏa thuận thì mức độ
bồi thường được xác định căn cứ vào thiệt hại thực tế trên cơ sở quy định của pháp

luật. Còn đối với BTTHNHĐ thì về nguyên tắc các bên có quyền thỏa thuận về mức
độ bồi thường, nếu không thỏa thuận được thì người gây thiệt hại phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại.
1.2. Điểm khác nhau giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại theongoài hợp đồng
Trách nhiệm BTTHNHĐ và trách nhiệm BTTH theo hợp đồng là hai hình
thức của trách nhiệm dân sự. Vì vậy, cả hai loại trách nhiệm này đều có những đặc
điểm chung của trách nhiệm dân sự. Ngoài ra, trách nhiệm BTTHNHĐ và BTTH
theo hợp đồng có những điểm khác biệt quan trọng như sau:
Thứ nhất, trách nhiệm BTTH theo hợp đồng phát sinh trên cơ sở quan hệ hợp
đồng. Hình thức có thể được giao kết bằng lời nói, tài liệu, văn bản hoặc bằng hành
vi cụ thể. Trách nhiệm BTTHNHĐ phát sinh không dựa trên bất kỳ hợp đồng nào.
Trách nhiệm BTTHNHĐ phát sinh khi người nào có hành vi xâm phạm đến quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác. Khi bàn đến trách nhiệm BTTH thì trước tiên
phải xem giữa các đương sự có quan hệ hợp đồng hay không. Nếu có quan hệ hợp
đồng thì luật điều chỉnh là luật về hợp đồng, nếu không thì luật điều chỉnh là luật về
BTTHNHĐ. Đây là hai chế định khác nhau, có cách thức điều chỉnh khác nhau.

7


Thứ hai, trách nhiệm BTTHNHĐ và theo hợp đồng đều có xuất phát điểm từ
việc vi phạm nghĩa vụ, nhưng nguồn gốc nghĩa vụ của hai loại trách nhiệm này
không giống nhau. Trách nhiệm BTTH theo đồng phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa
vụ theo hợp đồng, còn trách nhiệm BTTHNHĐ phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa
vụ luật định. Loại nghĩa vụ thông thường mà pháp luật đặt ra là nghĩa vụ về tài sản
và nhân thân. Ngược lại, nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng thường được các
bên thỏa thuận ghi nhận trong hợp đồng hoặc được pháp luật về hợp đồng quy định.
Thứ ba, mức bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và ngoài hợp đồng không
giống nhau. Khi thiết lập hợp đồng, các bên sẽ đề ra quyền lợi và nghĩa vụ mà các

bên phải thực hiện, đồng thời dự liệu trước về những trường hợp phải BTTH, mức
bồi thường, phương thức bồi thường và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
bồi thường. Nếu không có thỏa thuận thì việc xác định trách nhiệm bồi thường sẽ
được áp dụng theo quy định của pháp luật. Đôi khi việc áp dụng theo quy định của
pháp luật cũng làm cho việc tính toán toán mức bồi thường trở lên đỡ phức tạp.
Đối với trách nhiệm BTTHNHĐ, trước tiên các bên có quyền thỏa thuận về
mức bồi thường. Nếu các bên không thỏa thuận được thì mức bồi thường được xác
định dựa vào quy định của pháp luật về BTTHNHĐ. Luật dân sự luôn tôn trọng
nguyên tắc tự do thỏa thuận. Dù là BTTH theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng thì sau
cùng các bên đều có quyền thỏa thuận về mức bồi thường. Vấn đề chỉ khác nhau ở
chỗ nếu không thỏa thuận được với nhau thì mức độ BTTHNHĐ được xác định
theo luật về BTTHNHĐ, còn mức độ BTTH theo hợp đồng trước tiên được xác
định theo hợp đồng – luật giữa các bên, sau đó mới xác định dựa theo luật định.
Thứ tư, lý do miễn trách nhiệm trách nhiệm không giống nhau. Luật hợp
đồng luôn quán triệt nguyên tắc tự nguyện. Khế ước cần được tuân thủ nghiêm ngặt.
Trong quan hệ hợp đồng, chỉ cần các bên có sự thống nhất ý chí đều chịu sự ràng
buộc của ý chí chung đó. Do đó, trong trách nhiệm hợp đồng lý do miễn trách
nhiệm dân sự rất hạn chế, thông thường chỉ giới hạn ở sự kiện bất khả kháng. Tuy
vậy, đương sự có thể dự liệu những trường hợp miễn trách nhiệm để đưa vào hợp

8


đồng. Ví dụ như trong hợp đồng khám chữa bệnh quy định vì rủi ro khách quan dẫn
đến phẫu thuật thất bại thì cơ sở khám chữa bệnh không phải chịu trách nhiện. Khi
đó, quy định này cũng là căn cứ để miễn trách nhiệm. Đối với trách nhiệm
BTTHNHĐ, pháp luật thường quy định tương đối nhiều trường hợp miễn trách
nhiệm, bao gồm các trường hợp miễn trách nhiệm thông thường và các trường hợp
miễn trách nhiệm đặc biệt [23].
Thứ năm, về chủ thể bồi thường. Chủ thể bồi thường thiệt hại theo hợp đồng

là các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng. Chủ thể bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng có thể là người thực hiện hành vi xâm phạm quyền hoặc người khác. Ví dụ
như người giám hộ bồi thường thiệt hại cho người được giám hộ, cơ sở đào tạo
nghề bồi thường thiệt hại do người học nghề gây ra, trường học bồi thường thiệt hại
do học viên là người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây
ra.v.v..
Thứ sáu, về thẩm quyền tố tụng và thời hiệu. Đối với trách nhiệm
BTTHNHĐ, Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là Tòa án nơi nguyên đơn
cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại (Điểm d, Khoản 1, Điều
40 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
BTTH theo hợp đồng là Tòa án do các bên thỏa thuận. Nếu các bên không thỏa
thuận thì Tòa án nơi thực hiện hợp đồng là Tòa án có thẩm quyền giải quyết (Điểm
g, Khoản 1, Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015).
1.3. Khái lƣợc quy định pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng
1.3.1. Nguồn pháp luật điều chỉnh theo pháp luật Việt Nam
Nguồn luật điều chỉnh trách nhiệm BTTHNHĐ theo pháp luật Việt Nam,
gồm có:
- Bộ luật dân sự năm 2015;
- Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009;

9


- Nghị Quyết của Tòa án nhân dân tối cao như: Nghị Quyết: 03/2006/NQ-HĐTP
Hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng;
- Văn bản do các cơ quan nhà nước phối hợp, thống nhất ban hành trong đó có nội
dung quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như: Thông tư liên tịch số:
02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BVHTT-BKH-BTP Hướng dẫn áp dụng một
số quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí

tuệ tại TAND.
1.3.2. Nguồn luật điều chỉnh theo pháp luật Trung Quốc
- Quy tắc chung Luật dân sự Trung Quốc năm 1986.
- Luật trách nhiệm xâm phạm quyền Trung Quốc năm 2010.
- Luật bồi thường nhà nước năm 2010.
- Các văn bản giải thích tư pháp của Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc như:
+ Ý kiến của TAND tối cao Trung Quốc về một số vấn đề liên quan tới Quy tắc
chung Luật dân sự Trung Quốc năm ban hành ngày 26/1/1988 (đã bị hủy bỏ một
phần nội dung từ ngày 24/12/2008);
+ Giải thích số 7 của TAND tối cao Trung Quốc về một số vấn đề liên quan đến xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần của hành vi xâm phạm quyền dân
sự ban hành ngày 8/03/2001;
+ Ý kiến số 3 của TAND tối cao Trung Quốc về một số vấn đề liên quan đến thụ lý
vụ án BTTH do điện giật ban hành ngày 10/1/2001
+ Giải thích tư pháp số 23 của TAND tối cao Trung Quốc về Luật trách nhiệm xâm
phạm quyền ban hành ngày 30/6/2010;
+ Giải thích tư pháp số 20 về BTTH nhân thân của TAND tối cao Trung Quốc ban
hành ngày 26/12/2003;
+ Giải thích số 19 của TAND tối cao Trung Quốc về một số vấn đề liên quan đến
giải quyết vụ án BTTH do tai nạn giao thông ban hành ngày 27/11/2012;

10


Chƣơng II: QUY ĐỊNH VỀ BỒI THỜI THƢỜNG HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
THEO PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
2.1. Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng
Căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ của Việt Nam được ghi nhận tại
Điều 584 BLDS năm 2015. Ở Trung Quốc, Điều 6 Luật trách nhiệm xâm phạm
quyền quy định về yếu tố cấu thành trách nhiệm xâm phạm quyền như sau: “Người

thực hiện hành vi có lỗi xâm phạm quyền lợi dân sự của người khác thì phải chịu
trách nhiệm xâm phạm quyền. Theo quy định của pháp luật suy đoán người thực
hiện hành vi có lỗi, người thực hiện hành vi không thể chứng minh mình không có
lỗi, thì phải chịu trách nhiệm dân sự”.
Các quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTHNHĐ của Việt Nam và Trung
Quốc cho thấy trách nhiệm BTTHNHĐ được phát sinh trên cơ sở các yếu tố sau:
- Có hành vi trái pháp luật;
- Có thiệt hại thực tế;
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại;
- Về vấn đề có lỗi của chủ thể thực hiện hành vi, BLDS năm 2015 quy định
khác so với BLDS năm 2005 ở chỗ: BLDS năm 2015 không quy định lỗi là yếu tố
cấu thành trách nhiệm BTTHNĐ. Luật trách nhiệm xâm phạm quyền Trung Quốc
cũng coi lỗi là yếu tố cấu thành trách nhiệm BTHHNHĐ.
2.1.1. Có hành vi trái pháp luật
Có hai tiêu chí để đánh giá một hành vi có trái pháp luật hay không là hành vi
và kết quả của hành vi. Trên thế giới có hai học thuyết nghiên cứu về trái pháp luật
là thuyết kết quả trái luật và thuyết hành vi trái luật: (1) Thuyết kết quả trái luật lấy
quyền lợi hợp pháp làm tiêu chuẩn phán đoán hành vi trái pháp luật. Khi quyền lợi
hợp pháp bị xâm phạm sẽ mặc nhiên suy đoán hành vi có sự trái pháp luật, trừ
trường hợp có lý do chính đáng. Với cách hiểu như vậy khiến việc suy đoán hành vi
trái pháp luật trở lên tràn nan, khó kiểm soát, không làm rõ được mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quả thực tế. Để dẫn đến một kết quả nhất định có nhiều
nguyên nhân khác nhau. Cần phải thấy rõ phạm vi giới hạn của hành vi và hậu quả

11


thực tế. Ví dụ không thể nói rằng Công ty sản xuất xe máy có hành vi trái pháp luật
vì xe máy họ sản xuất và bán ra thị trường là nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông,
thiệt hại đến tính mạng và tài sản của người khác. (2) Thuyết hành vi trái luật lấy

bản thân hành vi để làm tiêu chuẩn phán đoán tính trái pháp luật. Học thuyết này
cho rằng cần xem xét bản thân hành vi có vi phạm nghĩa vụ chú ý thông thường
trong đời sống xã hội không? Nếu người thực hiện hành vi không vi phạm nghĩa vụ
chú ý thông thường thì dù hành vi đó có gây ra thiệt hại cũng không thể nhận định
hành vi đó trái pháp luật. Ví dụ: Một người lái xe máy tham gia giao thông không
may gây tai nạn cho người bán hàng rong. Người lái xe đã thực hiện đầy đủ luật lệ
giao thông. Theo thuyết hành vi trái luật thì trong trường hợp này có thiệt hại thực
tế xảy ra, nhưng hành vi của người lái xe không phải là hành trái pháp luật. Ngược
lại, theo học thuyết kết quả vi phạm thì hành vi gây tai nạn giao thông trong trường
hợp này đã đầy đủ cơ sở để kết luận có sự trái pháp luật. Vì người lái xe đã xâm
phạm đến sức khỏe, tính mạng của người bán hàng rong.
Hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác thể hiện dưới dạng hành
động hoặc không hành động trái luật. Hành động là việc làm cụ thể của con người
nhằm một mục đích nhất định. Hành động trái luật gây thiệt hại là việc làm cụ thể
của con người xâm phạm đến quyền quyền và lợi ích của người khác. Ví dụ: Hành
động xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác. Không hành động trái
luật gây thiệt hại là việc một người không làm một việc nào đó trong khi pháp luật
quy định họ phải hành động. Việc người đó không hành động đã xâm phạm tới
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Ví dụ: Cơ quan nhà nước, cán bộ công
chức không thực thi hoặc chậm thực thi công vụ gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân
liên quan.
Quy định của các quốc gia trên thế giới về phạm vi chủ thể và phạm vi quyền
lợi được pháp luật bảo vệ trước hành vi xâm phạm quyền có sự khác nhau. Khoản 1,
Điều 584 BLDS 2015 quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người
khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có

12



liên quan quy định khác”. “Người khác” ở đây được hiểu là các chủ thể dân sự bao
gồm cá nhân, pháp nhân, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. So với BLDS
2005, BLDS 2015 vẫn liệt kê các quyền và lợi ích, nhưng mở rộng phạm vi áp dụng.
Quyền và lợi ích hợp pháp của pháp nhân không còn chỉ dừng lại ở “danh dự, uy tín,
tài sản” như trong BLDS 2005.
Theo Điều 584 Quy tắc chung Luật dân sự Trung Quốc thì các quyền và lợi
ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ trước hành vi xâm phạm quyền bao gồm: Tài
sản của tập thể, quốc gia; tài sản và nhân thân của người khác. Quy định trên phân
loại chủ thể của quyền và lợi ích hợp pháp thành tập thể và cá nhân. Trong đó, tập
thể chỉ được bảo vệ tài sản, còn cá nhân thì được bảo vệ toàn diện về nhân thân và
tài sản. Khác với quy định trên, Điều 2 Luật trách nhiệm xâm phạm quyền Trung
Quốc quy định: “Quyền lợi dân sự được nêu trong luật này, bao gồm các quyền lợi
nhân thân và quyền lợi tài sản như quyền tính mạng, quyền sức khỏe, quyền danh
tính, quyền danh dự, quyền vinh dự, quyền hình ảnh, quyền riêng tư, quyền tự chủ
hôn nhân, quyền giám hộ, quyền sở hữu, quyền dụng ích, quyền đảm bảo, quyền tác
giả, quyền phát minh sáng chế, quyền sử dụng thương hiệu, quyền phát hiện, quyền
cổ phần, quyền thừa kế.v.v..”. Theo các quy định khác trong Luật trách nhiệm xâm
phạm quyền thì pháp nhân và các chủ thể khác cũng được bảo vệ toàn diện quyền
tài sản và quyền nhân thân.
2.1.2. Có thiệt hại thực tế
Mục đích của quy định trách nhiệm BTTHNHĐ là bảo vệ những lợi ích hợp
pháp khi chúng bị xâm hại. Do đó, trách nhiệm BTTH chỉ phát sinh khi có thiệt hại
thực tế. Nếu không có thiệt hại thực tế thì không bàn đến vấn đề trách nhiệm bồi
thường. Thiệt hại thực tế là những hậu quả bất lợi về tài sản và nhân thân do hành vi
xâm phạm quyền gây lên đối với chủ thể bị xâm phạm quyền.
2.1.2.1. Điều kiện của thiệt hại.
Thiệt hại là một trong những yếu tố cấu thành trách nhiệm BTTHNHĐ khi
đảm bảo những điều kiện sau:
- Quyền và lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo hộ của chủ thể dân sự bị xâm hại


13


Chủ thể bị thiệt hại chỉ được pháp luật bảo vệ khi lợi ích hợp pháp bị hành vi
trái luật xâm phạm. Theo Điều 2 Luật trách nhiệm xâm phạm quyền Trung Quốc thì
đối tượng xâm hại của hành vi xâm phạm quyền là quyền lợi tài sản và quyền lợi
nhân thân. Theo Điều 584 BLDS 2015 của Việt Nam thì đối tượng xâm hại của
hành vi xâm phạm quyền là tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác. Ý nghĩa của việc xác định đối tượng quyền và lợi
ích hợp pháp bị xâm hại là để xác định phạm vi của hành vi xâm phạm quyền, đồng
thời làm rõ các tính chất khác nhau của hành vi xâm phạm quyền. Quyền lợi và lợi
ích hợp pháp bị xâm hại là khách thể xâm hại của hành vi xâm phạm quyền. Vậy,
để xác định phạm vi xâm hại của hành vi xâm phạm quyền cần dựa vào phạm vi
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Hay nói cách khác, hành vi gây ra thiệt hại về
quyền và lợi ích hợp pháp cho người khác là phạm vi khách thể của hành vi xâm
phạm quyền. Khi xác định được cụ thể loại quyền và lợi ích bị xâm hại sẽ xác định
được tính chất cụ thể của hành vi xâm phạm quyền. Từ đó, quyết định được sẽ phải
áp dụng điều luật nào để điều chỉnh, giải quyết như thế nào.
- Thiệt hại có tính xác định
Thiệt hại có tính xác định chỉ khả năng có thể xác định thiệt hại khách quan.
Không thể xác định thiệt hại thì không thể coi thiệt hại là yếu tố cấu thành trách
nhiệm BTTHNHĐ. Tính xác định của thiệt hại được thể hiện ở những điểm sau: (1)
Thiệt hại đã phát sinh trên thực tế. Những thiệt hại chưa phát sinh không có tính xác
định. Hành vi gây cản trở cho việc thực hiện quyền lợi của người khác tuy chưa gây
thiệt hại thực tế về tài sản cho người khác, nhưng có nguy cơ dẫn đến thiệt hại thì sẽ
làm phát sinh trách nhiệm khác, chứ không phải là trách nhiệm BTTH. Ví dụ: Hành
vi xâm phạm quyền gây nguy hiểm đến an toàn nhân thân, tài sản người khác, thì
người bị xâm phạm quyền có thể yêu cầu người xâm phạm quyền chịu trách nhiệm
xâm phạm quyền như dừng hành vi xâm hại, loại bỏ trở ngại, loại bỏ nguy hiểm
(Điều 21 Luật trách nhiệm xâm phạm quyền Trung Quốc) (2) Thiệt hại tồn tại một

cách chân thực, thiệt hại không thể được các đương sự định lượng dựa trên cảm
giác, ý nghĩ chủ quan. Ví dụ: Không thể chỉ vì nghi ngờ người khác đã tiết lộ bí mật

14


đời tư của mình mà cảm thấy tinh thần đau khổ. Thiệt hại như vậy không thể xác
định. (3) Thiệt hại là những thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại trên
thực tế. Thiệt hại thực tế có thể nhận định dựa trên quan niệm thông thường của xã
hội hoặc dựa trên sự công bằng. Ví dụ: Một cửa hàng bị cháy, những tài sản bị hủy
hoại là thiệt hại thực tế. Nhưng người nào đó đưa ra lý do vì cửa hàng bị cháy, họ
không thể mua thực phẩm và những vật phẩm thiết yếu hàng ngày nên đã ảnh
hưởng đến việc đi làm đúng giờ hàng ngày của họ, những thiệt hại mà các vị khách
gặp phải khó có thể xác định thực tế.
- Thiệt hại có thể bù đắp.
Những thiệt hại về nhân thân và tài sản chỉ khi pháp luật cho rằng cần được bù
đắp hoặc có thể bù đắp mới có thể làm phát sinh trách nhiệm dân sự. Tính có thể bù
đắp bao gồm hai phương diện: (1) Pháp luật có đưa thiệt hại thiệt hại thực tế vào
phạm vi bù đắp hay không. Ví dụ: Nam nữ thanh niên quyết định trước khi kết hôn
ký kết hợp đồng sống thử. Nhiều năm sau nam thanh niên đề nghị với bạn gái hủy
bỏ quan hệ sống chung. Bạn nữ cảm thấy tuổi thanh xuân của mình bị thiệt hại nên
yêu cầu BTTH. Theo quan điểm của đa số mọi người thì thiệt hại thực tế của tuổi
thanh xuân là có tồn tại, nhưng pháp luật không liệt thiệt hại đó vào phạm vi có thể
bồi thường hoặc bù đắp. Do đó, hành vi của nam thanh niên không phải là thiệt hại
thực tế theo pháp luật. (2) Phương án bù đắp có tính khả thi. Có những hậu quả thiệt
hại có thể thông qua phương án bù đắp thích hợp để khiến cho những quyền lợi hợp
pháp bị thiệt hại trở về trạng thái ban đầu, hoặc bù đắp tương xứng [24]. Ngược lại,
có những thiệt hại không thể bù đắp. Ví dụ: Tranh chấp về việc xâm hại quyền
chung sống như ở ví dụ trên làm thế nào để nam thanh niên bù đắp cho bạn gái?!
Đối với những hậu quả thiệt hại khác nhau pháp luật thường căn cứ vào từng trường

hợp cụ thể để đưa ra phương án bồi thường. Người bị thiệt hại chỉ có thể đưa ra yêu
cầu bồi thường trong phạm vi pháp luật cho phép.
2.1.2.2.Phân loại thiệt hại.
Dựa vào các căn cứ khác nhau có thể chia thiệt hại thành nhiều hình thức khác
nhau. Căn cứ vào khách thể khác nhau của hành vi xâm phạm quyền, có thể phân

15


loại thiệt hại thành hai loại chính là: thiệt hại về quyền lợi tài sản và thiệt hại quyền
lợi nhân thân. Căn cứ vào hình thức thiệt hại có thể chia thiệt hại thành thiệt hại về
tài sản, thiệt hại về tinh thần. Dựa vào mối quan hệ giữa thiệt hại và hành vi gây
thiệt hại thì có thể chia thiệt hại thành thiệt hại trực tiếp (thiệt hại phát sinh do chính
sự tác động của hành vi, sự kiện gây ra) và thiệt hại gián tiếp (thiệt hại phát sinh từ
thiệt hại trực tiếp như thu nhập bị mất, hoa lợi bị thiệt hại…). Theo Nghị quyết
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về BTTHNHĐ thì
thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần. Để làm rõ
hơn các loại thiệt hại, mối quan hệ giữa hành vi xâm phạm và thiệt hại, người viết
sẽ đi phân tích hai dạng thiệt hại là thiệt hại về quyền lợi tài sản và thiệt hại về
quyền lợi nhân thân:
a) Thiệt hại về quyền lợi tài sản:
Thiệt hại về quyền lợi tài sản thường thấy là tài sản bị tổn thất, bao gồm thiệt
hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại trực tiếp chỉ giá trị tài sản của người bị
thiệt hại bị tổn thất hoặc giảm đi. Thiệt hại gián tiếp chỉ quyền lợi tài sản đáng ra
được hưởng bị tổn thất hoặc mất đi. Bao gồm: (1) mất đi tài sản pháp định đáng lẽ
có được hoặc tài sản sinh sôi một cách tự nhiên; (2) mất đi lợi nhuận kinh doanh
đáng lẽ có được; (3) mất đi thu nhập đáng lẽ có được, bao gồm tiền lương, tiền
thưởng.v.v..; (4) giảm thiểu hoặc làm thấp đi năng lực kiếm tiền trong tương lai của
người bị thiệt hại. Tổn thất gián tiếp có một số đặc trưng như: Khi người bị thiệt hại

bị xâm phạm, quyền lợi tài sản đó chưa tồn tại. Trong hoàn cảnh thông thường, nếu
người bị thiệt hại không bị xâm phạm, quyền lợi tài sản sẽ tự nhiên hoặc rất có khả
năng sẽ đạt được. Đối với hành vi xâm phạm quyền hoặc điều kiện đặc biệt luật
định dẫn đến tài sản trực tiếp bị tổn thất thì về nguyên tắc phải bồi thường đầy đủ,
trừ phi pháp luật có quy định khác.
Thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền gây ra còn có một vấn đề đặc biệt cần
lưu tâm. Đó là trường hợp hành vi xâm phạm quyền lợi tài sản nhưng lại gây ra thiệt
hại phi tài sản thì có cần được bồi thường không. Liên quan đến vấn đề này các

16


quốc gia trên thế giới có quy định không giống nhau. Theo quy định của pháp luật
Việt Nam thì thiệt hại về tinh thần chỉ giới hạn trong phạm vi quyền con người,
quyền nhân thân bị xâm hại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, thiệt hại
về tinh thần còn gắn liền với thiệt hại về tài sản. Khi quyền tài sản bị xâm hại người
bị thiệt hại cũng có thể yêu cầu BTTH về tinh thần. Điều 4 Ý kiến số 7 năm 2001
của TAND tối cao Trung Quốc quy định: “Những vật phẩm kỷ niệm có ý nghĩa
tượng trưng nhân cách bị hành vi xâm phạm quyền làm cho vật phẩm đó bị hủy
hoại hoặc tổn hại, thì chủ sở hữu vật phẩm có quyền lấy lý do có hành vi xâm phạm
quyền để khởi kiện ra TAND yêu cầu BTTH về tinh thần. Tòa án nhân dân phải thụ
lý giải quyết theo quy định của pháp luật”. Vật phẩm có ý nghĩa tượng trưng nhân
cách là thuật ngữ tương đối trừu tượng. Để đánh giá một vật phẩm có phải là vật
phẩm có ý nghĩa tượng trưng nhân cách hay không cần đánh giá giá trị tinh thần của
vật phẩm đối với chủ sở hữu. Giá trị của vật phẩm nằm ở chỗ trong quá trình sử
dụng đem lại cho chủ nhân cảm giác thỏa mãn. Vật phẩm có ý nghĩa tương trưng
nhân cách không giống với vật phẩm thông thường. Nó là nơi gửi gắm những giá trị
tinh thần, tình cảm của chủ nhân. Nó có thể không đem lại giá trị sử dụng thực tế
như những vật phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Nói đúng hơn, giá trị
sử dụng chỉ là thứ yếu, đặt sau giá trị tinh thần. Ví dụ về một số vật phẩm có giá trị

tinh thần như: Bức ảnh duy nhất chụp chung với bố mẹ đã quá cố, băng ghi hình
đám cưới vợ chồng, gia phả, đồ thờ của tổ tiên nhiều đời trước để lại cho con cháu.
Từ xưa đến nay, đời sống tinh thần của con người vẫn luôn rất phong phú và ngày
càng phong phú.
b) Thiệt hại về quyền lợi nhân thân:
Trong BLDS 2015, quyền nhân thân được quy định tại mục 2, chương III
viết về cá nhân. BLDS thiết kế các quy định về quyền nhân thân theo hướng đưa ra
khái niệm chung nhất về quyền nhân thân và kèm theo các quy định cụ thể về từng
loại quyền nhân thân. Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền
dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường
hợp luật khác có liên quan quy định khác (Khoản 1, Điều 25 BLDS 2015). Không

17


thể phủ nhận rằng việc đưa ra khái niệm của một hiện tượng pháp lý thông qua liệt
kê những đặc trưng của hiện tượng đó là một thực tế trong khoa học pháp lý. Tuy
nhiên, trong trường hợp này các đặc trưng nêu trên của quyền nhân thân thực sự
chưa đủ để phân biệt với các quyền dân sự khác, bởi lẽ một số quyền tài sản cũng
có đặc điểm này. Vì dụ quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia
đình hoặc quyền bầu cử, ứng cử của mỗi công dân đều có những đặc điểm trên [2],
nhưng chúng đều không phải là các quyền nhân thân. Trong Quy tắc chung Luật
dân sự Trung Quốc, quyền nhân thân được quy định tại mục 4, Chương V viết về
quyền lợi dân sự. Quy tắc chung Luật dân sự Trung Quốc không đưa ra khái niệm
của quyền nhân thân, mà chỉ liệt kê các quyền nhân thân được pháp luật ghi nhận.
Có lẽ các nhà làm luật Trung Quốc nhận thấy khó có thể đưa ra một định nghĩa đầy
đủ về quyền nhân thân nên đã lựa chọn phương án liệt kê các quyền nhân thân được
pháp luật ghi nhận. Việc ghi nhận một quyền nhân thân nào đó thể hiện rằng luật
dân sự cần bảo vệ và có thể bảo vệ quyền đó. Mức độ bảo vệ còn tùy thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau. Quyền nhân thân trong Quy tắc chung Luật dân sự Trung

Quốc được chia thành hai dạng quyền lớn là: quyền nhân cách và quyền thân phận.
Thiệt hại do hành vi xâm phạm đến quyền lợi nhân thân có thể xuất phát từ hành vi
xâm phạm quyền lợi nhân cách và quyền lợi thân phận.
- Thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền lợi nhân cách. Loại thiệt hại có thể
phân loại thành thiệt hại hữu hình và thiệt hại vô hình.
(1) Thiệt hại hữu hình được hiểu là thiệt hại có thể nhận thấy trực tiếp khi
quyền lợi nhân cách bị xâm phạm. Có những loại quyền lợi nhân cách khi bị xâm
phạm có thể thấy ngay được hậu quả. Đó thường là những quyền lợi nhân cách có
tính vật (hay quyền lợi nhân cách liên quan đến tài sản). Ví dụ: Hành vi xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe của người khác thì hậu quả tổn hại về tính mạng, sức khỏe
rất dẫn nhận biết. Hậu quả thiệt hại hữu hình chủ yếu là tiền chữa bệnh, tiền mai
táng, tiền thuê người chăm sóc, tiền trợ cấp sinh hoạt, tiền bồi thường tần tật, tiền
bồi thường thiệt mạng.v.v.. Có những loại quyền lợi nhân cách khi bị xâm phạm thì
việc nhận biết hậu quả trở lên khó khăn hơn. Đó thường là lợi ích nhân cách có tính

18


tinh thần (quyền lợi nhân cách phi tài sản). Ví dụ: Hành vi xâm hại quyền tên gọi,
quyền danh dự của pháp nhân. Việc xâm hại những quyền lợi nhân cách này có thể
gây ra những hậu quả kinh tế khôn lường. Thiệt hại hữu hình lợi ích nhân cách có
thể gây ra thiệt hại về tài sản. Bù đắp bằng tài sản là phương thức BTTH hiệu quả,
bên cạnh những phương thức khác như xin lỗi, cải chính công khai.
(2) Thiệt hại vô hình do hành vi xâm phạm quyền lợi nhân cách chủ yếu là
thiệt hại phi tài sản – thiệt hại về tinh thần. Thường thì những hành vi xâm hại
quyền lợi nhân cách có tính tinh thần sẽ dễ dẫn đến thiệt hại về tinh thần. Ví dụ
hành vi xâm hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín.
Việc xâm hại quyền lợi nhân cách có tính vật chất cũng có thể gây ra những
thiệt hại vô hình như đau khổ, tình cảm bị tổn thương. Ví dụ khi hành vi hành hạ
người khác không chỉ gây thiệt hại về sức khỏe, mà còn gây tôn thương về mặt tinh

thần. Thiệt hại vô hình do hành vi xâm hại lợi ích nhân cách gây ra biểu hiện ở hai
hình thái: (1) Quyền lợi nhân cách thông thường bị xâm hại, tức nhân cách bị đánh
giá thấp, bí mật đời tư bị tiết lộ, tự do bị hạn chế, chân dung hoặc danh tính bị sử
dụng phi pháp.v.v..; (2) Hành vi xâm hại lợi ích nhân cách gây ra vết thương tinh
thần hoặc đau khổ tinh thần cho người khác. Đối với thiệt hại vô hình của lợi ích
nhân cách có thể áp dụng phương pháp trách nhiệm phi tài sản để bù đắp như xin lỗi,
cải chính công khai, khôi phục danh dự, loại bỏ ảnh hưởng.v.v... Theo pháp luật
Trung Quốc thì thiệt hại tinh thần chỉ áp dụng đối với cá nhân, còn đối với pháp
nhân thì không được yêu cầu BTTH tinh thần.
- Thiệt hại do hành vi xâm hại quyền lợi thân phận.
Thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền lợi thân phận cũng giống như thiệt hại
do hành vi xâm phạm quyền lợi nhân cách ở chỗ đều có thể dẫn đến hai loại hậu
quả thiệt hại là thiệt hại tài sản và phi tài sản. Ví dụ: Xâm hại đến quyền sinh mệnh
và quyền sức khỏe của người khác khiến họ bị chết hoặc tàn tật thì những người
đang được người đó nuôi bị mất đi quyền yêu cầu cấp dưỡng. Do đó, phải sử dụng
phương thức BTTH để bù đắp. Trong trường hợp này, cũng áp dụng nguyên tắc bồi
thường toàn bộ. Xâm hại quyền lợi nhân thân cũng có thể gây ra thiệt hại phi tài sản

19


×