Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh đắk lắk)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (911.05 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Y PHI KBUÔR

TỘI CƢỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

Y PHI KBUÔR

TỘI CƢỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu thống kê, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm tính thực tiễn,
chính xác, trung thực và tin cậy. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác và nếu có tham khảo
đều được trích dẫn đầy đủ. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học theo
chương trình và thực hiện tất cả các nghĩa vụ về tài chính theo quy định của
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn

Y Phi Kbuôr


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CƢỠNG ĐOẠT
TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ......................... 8
1.1.

KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI
CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ..... 8


1.1.1.

Tài sản với tư cách là đối tượng tác động của các tội xâm phạm
sở hữu trong luật hình sự Việt Nam .................................................... 8

1.1.2.

Khái niệm tội cưỡng đoạt tài sản ........................................................ 9

1.1.3.

Ý nghĩa của việc quy định tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình
sự Việt Nam ...................................................................................... 13

1.2.

KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN QUY
ĐỊNH VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
NĂM 1945 ĐẾN NAY ...................................................................... 15

1.2.1.

Giai đoạn từ khi sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công
đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985 ...... 15

1.2.2.

Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước

pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999 ..................... 18

1.2.3.

Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay......... 21

1.3.

QUY ĐỊNH VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỚI MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .......... 28

1.3.1.

Bộ luật hình sự Liên bang Nga ......................................................... 28

1.3.2.

Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ............................... 31


1.3.3.

Bộ luật hình sự Nhật Bản .................................................................. 31

1.3.4.

Bộ luật hình sự một số nước ASEAN ............................................... 33

CHƢƠNG 2: TỘI CƢỠNG ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK GIAI ĐOẠN 2010 - 2015 .............. 36
2.1.

CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ HÌNH SỰ CỦA TỘI CƯỠNG
ĐOẠT TÀI SẢN ............................................................................... 36

2.1.1.

Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản ................................................ 37

2.1.2.

Mặt khách quan của tội cưỡng đoạt tài sản....................................... 38

2.1.3.

Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản .................................................... 40

2.1.4.

Mặt chủ quan của tội cưỡng đoạt tài sản .......................................... 41

2.2.

HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN .................. 42

2.2.1.

Khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự ................................................... 42


2.2.2.

Khoản 2 Điều 135 Bộ luật hình sự ................................................... 42

2.2.3.

Khoản 3 Điều 135 Bộ luật hình sự ................................................... 46

2.2.4.

Khoản 4 Điều Điều 135 Bộ luật hình sự ........................................... 46

2.2.5.

Hình phạt bổ sung ............................................................................. 47

2.3.

SO SÁNH TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN VỚI MỘT SỐ TỘI
DANH KHÁC ................................................................................... 47

2.3.1.

So sánh với tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 Bộ luật hình
sự năm 1999 ...................................................................................... 47

2.3.2.

So sánh với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản quy định tại
Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999 ................................................. 48


2.4.

THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK GIAI ĐOẠN 2010 - 2015 .................... 50

2.4.1.

Khái quát điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk ............................................................................... 50

2.4.2.

Thực tiễn xét xử tội cưỡng đoạt tài sản ............................................ 54

2.4.3.

Một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản ......................... 63


CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƢỠNG
ĐOẠT TÀI SẢN VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG.... 74
3.1.

SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC TIẾP TỤC HOÀN THIỆN BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN .... 74

3.1.1.


Về phương diện chính trị, xã hội ...................................................... 74

3.1.2.

Về phương diện thực tiễn xét xử....................................................... 76

3.1.3.

Về phương diện lý luận và lập pháp hình sự .................................... 77

3.2.

NỘI DUNG TIẾP TỤC HOÀN THIỆN BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM NĂM 2015 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN ........... 78

3.2.1.

Nhận xét ............................................................................................ 78

3.2.2.

Nội dung hoàn thiện cụ thể ............................................................... 79

3.3.

CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 VỀ TỘI CƯỠNG
ĐOẠT TÀI SẢN ................................................................................ 81

3.3.1.


Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 2015 trong tương quan với các văn
bản pháp luật khác về tội cưỡng đoạt tài sản .................................... 81

3.3.2.

Tăng cường quan hệ phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng
(Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) trên cơ sở thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan .................................... 83

3.3.3.

Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về vũ khí, quan tâm giải
quyết các mâu thuẫn phát sinh trong cộng đồng dân cư ngay từ cơ sở ... 86

3.4.

CÁC GIẢI PHÁP KHÁC .................................................................. 89

3.4.1.

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân ............ 89

3.4.2.

Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp luật và
Tòa án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm minh tội
cưỡng đoạt tài sản .............................................................................. 90


KẾT LUẬN .................................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Đơn vị hành chính của tỉnh Đắk Lắk

52

Bảng 2.2. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự của Tòa án nhân
dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 6 năm (2010 - 2015)

54

Bảng 2.3. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự về các tội
xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk
trong giai đoạn 6 năm (2010 - 2015)

56

Bảng 2.4. Kết quả xét xử về các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân
dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 6 năm (2010 - 2015)

57


Bảng 2.5. Nhân thân bị cáo phạm các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân
dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 6 năm (2010 - 2015)

57

Bảng 2.6. Tình hình công tác thụ lý, giải quyết án hình sự về tội cưỡng
đoạt tài sảncủa Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong
giai đoạn 6 năm (2010 - 2015)

58

Bảng 2.7. Kết quả xét xử sơ thẩm về tội cưỡng đoạt tài sản của Tòa án nhân
dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 6 năm (2010 - 2015)

59

Bảng 2.8. Nhân thân người phạm tội cưỡng đoạt tài sản của Tòa án nhân
dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 6 năm (2010 - 2015)

59

Bảng 2.9. Kết quả xét xử phúc thẩm về tội cưỡng đoạt tài sản củaTòa
án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 6 năm
(2010 - 2015)

60

Bảng 2.10. Tương quan tổng số vụ án và tổng số bị cáo bị Tòa án các
cấp đưa ra xét xử về các tội xâm phạm sở hữu và tội cưỡng

đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 6 năm
(2010 - 2015)

61

Biểu đồ 2.1. Tổng số vụ án và tổng số bị cáo bị Tòa án các cấp đưa ra xét
xử về các tội phạm hình sự với các tội xâm phạm sở hữu và
tội cưỡng đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong giai
đoạn 6 năm (2010 - 2015)

62


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt nhiều
thành tựu to lớn, quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng
với thành tựu chung đó là Hiến pháp và hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp
luật hình sự nước ta ngày càng tiến bộ, đầy đủ và đáp ứng được yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Quyền sở hữu tài sản là quyền thiết thân quan trọng của mỗi cá nhân, tổ
chức được pháp luật bảo vệ và được quy định tại Chương XIV Bộ luật hình
sự năm 1999 về “Các tội phạm xâm phạm sở hữu” và hiện nay là Chương
XVI Bộ luật hình sự năm 2015 nhưng chưa có hiệu thi hành. Đây chính là
hành lang pháp lý, căn cứ quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng xử lý
những chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở
hữu tài sản nói chung, trong đó có tội cưỡng đoạt tài sản nói riêng.
Trong những năm vừa qua, hòa cùng xu thế phát triển của xã hội các
quyền sở hữu tài sản của công dân ngày càng được quan tâm, chú trọng bảo vệ
và được cụ thể hóa trong Chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999 và Chương

XIII Bộ luật dân sự năm 2015. Tuy nhiên, bên cạnh đó là sự phát sinh các hành
vi vi phạm quyền sở hữu ở các cấp độ và cao nhất là hành vi phạm tội, tác động
trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản, gây thiệt hại về tài sản, ảnh hưởng đến tình
hình trật tự trị an với hình thức đa dạng, tinh vi, tính chất ngày càng phức tạp,
trong đó có các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội cưỡng đoạt tài sản nói
riêng đòi hỏi phải có biện pháp phòng ngừa tội phạm kịp thời.
Nhận thức và xem xét vấn đề quan trọng đó, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử
các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra việc kết án oan người không có tội

1


và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy,
sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, bảo đảm các quyết định của Tòa án đúng
pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có sức thuyết phục cao, có tính khả thi tốt
và được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ và tăng cường hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như giáo dục, cải tạo người phạm tội.
Theo thống kê, năm 2010 tổng số vụ án và bị cáo phạm tội cưỡng đoạt
tài sản được đưa ra giải quyết ở cấp sơ thẩm là 10 vụ án và 23 bị cáo; năm 2011
có 18 vụ án và 36 bị cáo; năm 2012 có 09 vụ án và 12 bị cáo; năm 2013 có 13
vụ án và 30 bị cáo; năm 2014 có 02 vụ án và 03 bị cáo và năm 2015 có 06 vụ
và 18 bị cáo [48]. Như vậy, về cơ bản Tòa án nhân dân hai cấp (cấp sơ thẩm và
phúc thẩm) của tỉnh Đắk Lắk đã áp dụng pháp luật trong việc định tội danh
đúng và quyết định hình phạt chính xác, nhưng vẫn còn một vài trường hợp áp
dụng không đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội nên dẫn đến
việc định tội danh còn thiếu chính xác, hoặc phân hóa trách nhiệm hình sự chưa
chính xác, qua đó, ít nhiều đã làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung, tội cưỡng đoạt tài sản nói riêng, giảm uy tín của Tòa
án cũng như chưa bảo đảm các quyền và lợi ích của công dân.

Do đó, thực tiễn đã đòi hỏi cần có sự nghiên cứu cụ thể để có luận cứ
khoa học, kiến nghị những giải pháp góp phần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa và
bảo đảm áp dụng quy định về tội cưỡng đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự Việt
Nam. Hơn nữa, việc đánh giá quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 vừa được
Quốc hội thông qua để đưa ra kiến nghị giải pháp thi hành là yêu cầu quan
trọng. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tội cưỡng đoạt tài sản trong luật
hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” làm
đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta đã có các công trình nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp về

2


tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam ở một số cấp độ khác nhau,
chẳng hạn như:
* Dưới góc độ sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình… liên
quan đến vấn đề định tội danh về tội cưỡng đoạt tài sản, có thể kể đến các
công trình sau: 1) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề lý luận về định
tội danh và hướng dẫn giải bài tập về định tội danh, Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, 1999; 2) GS.TSKH. Lê Văn Cảm, PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Định
tội danh (Lý luận, Lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành), Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2011; 3) PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương VI - Các tội
xâm phạm sở hữu, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các
tội phạm), Tập thể tác giả do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007; 4) ThS. Đoàn Tấn Minh, Phương
pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong Bộ
luật hình sự hiện hành, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010; 5) ThS. Đinh Văn Quế,
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm, Tập II - Các tội xâm
phạm sở hữu, Nxb. thành phố Hồ Chí Minh, 2002; v.v... Gần đây nhất, cuốn

sách chuyên khảo của PGS.TS. Cao Thị Oanh chủ biên, Các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2015 đã phân tích cả
nhóm tội phạm (trong đó có tội cưỡng đoạt tài sản) trong Bộ luật hình sự và
đánh giá thực tiễn xét xử.
* Dưới góc độ luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật học…, nói chung,
chỉ có một số công trình đề cập riêng lẽ đến vấn đề trách nhiệm hình sự, định
tội danh hoặc về tội cưỡng đoạt tài sản hoặc đấu tranh phòng, chống tội phạm
này như: 1) Nguyễn Ngọc Chí, Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
sở hữu, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 2000;
2) Đặng Thúy Quỳnh, Đấu tranh phòng, chống tội cướp giật tài sản ở nước ta
hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội, 2016; 3) Trần
Thị Phường, Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn
3


tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; 3) Nguyễn Bích Ngọc, Tội cưỡng đoạt tài
sản trong pháp luật hình sự Việt Nam (nghiên cứu thực tiễn giai đoạn 20082012),Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; v.v…
* Dưới góc độ bài viết, đề tài khoa học…, hiện nay, trên Tạp chí Tòa án
nhân dân và một số tạp chí khác cũng đăng nhưng chỉ mang tính chất đơn lẻ
và phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội phạm, cũng
như định tội danh đối với từng vụ án cụ thể. Ví dụ: 1) GS.TS. Võ Khánh
Vinh, Về khái niệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản công dân
theo luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 3/1986; 2) TS. Phan Anh
Tuấn, Định tội danh trong trường hợp một hành vi thỏa mãn dấu hiệu của
nhiều cấu thành tội phạm, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2001; 3) Trần Văn
Hậu,Đặc điểm người bị hại trong các vụ phạm tội cưỡng đoạt tài sản dưới
hình thức “Đòi nợ thuê”, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, số 10/2014; v.v…
Như vậy, nghiên cứu cho thấy chỉ có một số công trình đề cập riêng lẽ
đến vấn đề trách nhiệm hình sự, phân tích dấu hiệu pháp lý hình sự và hình

phạt; việc định tội danh hoặc về tội cưỡng đoạt tài sản hoặc đấu tranh phòng,
chống tội phạm này chứ chưa có công trình nào đề cập trực tiếp đến tội cưỡng
đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam và trên một địa bàn cụ thể có vị trí
quan trọng về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội là tỉnh Đắk Lắk. Do đó,
việc nghiên cứu tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam và thực
tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 6 năm (2010 - 2015), đề xuất
kiến nghị tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự nước ta về tội phạm này, cũng
như các giải pháp bảo đảm thi hành (áp dụng) là cần thiết.
3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận, pháp lý và quy định
của Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật có liên quan

4


đến tội cưỡng đoạt tài sản. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng pháp luật, Bộ
luật hình sự một số nước trên thế giới và thực tiễn xét xử tội cưỡng đoạt tài
sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 6 năm (2010 - 2015), chỉ ra một số
tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản, từ đó, đề xuất kiến nghị tiếp tục
hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 2015 và một số giải pháp bảo đảm áp dụng
pháp luật được thống nhất, qua đó, nâng cao hiệu quả, chất lượng xét xử của
Tòa án, cũng như góp phần trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận, pháp lý về
tội cưỡng đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, có so sánh với Bộ luật

hình sự năm 2015 và thực tiễn xét xử tội cưỡng đoạt tài sản của Tòa án nhân
dân các cấp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 6 năm (2010 - 2015).
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về
chính sách hình sự; quan điểm, đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu nói
chung, tội cưỡng đoạt tài sản nói riêng.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự
như: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên những bản
án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk để phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn
đề tương ứng được nghiên cứu.

5


5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
5.1. Ý nghĩa khoa học
Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân, cũng như phục vụ Hiến
pháp năm 2013 và các văn kiện của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, triển khai thi hành Bộ luật hình sự năm 2015, quá trình thi hành Bộ
luật hình sự năm 1999 thì việc nghiên cứu để làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận, pháp lý; quy định trong Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về tội
cưỡng đoạt tài sản và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk góp phần bổ
sung vào kho tàng lý luận về tội phạm và hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam nói chung, các tội xâm phạm sở hữu nói riêng, qua đó góp phần nâng
cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và bảo vệ

tài sản, tính mạng, sức khỏe của con người, cũng như bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội nói riêng.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc
biệt là Tòa án trong việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ
và đúng pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để đưa ra những kiến nghị
tiếp tục hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội cưỡng đoạt tài
sản và nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm này tại Tòa án nhân
dân hai cấp cấp tỉnh Đắk Lắk, qua đó, phòng, chống oan, sai, định tội danh và
quyết định hình phạt không chính xác và vi phạm pháp luật trong giải quyết
vụ án hình sự.
Đặc biệt, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên
cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành Luật hình sự - tố tụng hình sự và
Tội phạm học tại các cơ sở đào tạo luật trên cả nước.

6


6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội cưỡng đoạt tài sản trong luật
hình sự Việt Nam.
Chương 2: Tội cưỡng đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam và
thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2010 - 2015.
Chương 3: Kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam về tội cưỡng đoạt tài sản và các giải pháp bảo đảm áp dụng.

7



Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CƢỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI CƯỠNG
ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Tài sản với tƣ cách là đối tƣợng tác động của các tội xâm
phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam
Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 thì "tài sản" được hiểu bao gồm
"vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [37, Điều 163], trong đó
"quyền tài sản" là các "quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao
trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ" [37, Điều 181]. Đến Bộ
luật dân sự năm 2015 vừa được Quốc hội thông qua có hiệu lực từ ngày
01/01/2017 thì cả hai khái niệm "tài sản" và "quyền tài sản" vẫn được định
nghĩa như vậy [39, Điều 105, 115].
Trong khi đó, đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt, trong đó có tội cưỡng đoạt tài sản thì không phải lúc nào tài sản theo quan
niệm như trên của Bộ luật dân sự cũng được coi là đối tượng tác động của tội
phạm này. Lý do không phải tài sản nào người phạm tội cũng có thể chiếm đoạt
được từ chủ tài sản. Tài sản là đối tượng tác động của các tội phạm xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói chung và của tội cưỡng đoạt tài sản nói
riêng, phải thỏa mãn ba đặc trưng cơ bản sau đây [13, tr.245-247].
* Tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị và giá trị
sử dụng. Theo đó, tài sản này là thước đo giá trị lao động của con người
được kết tinh, đồng thời phải thỏa mãn được các nhu cầu về vật chất hoặc
tinh thần của con người.
* Tài sản phải có chủ sở hữu cụ thể với các quy định có tính chất pháp

8



lý thể hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Vì thế, nếu hành vi
phạm tội khi xâm phạm sở hữu phải tác động tới các tài sản đã được xác lập
quyền sở hữu bằng những quy định pháp lý đối với một chủ sở hữu nhất định
(có thể là tổ chức, pháp nhân hoặc cá nhân) nên chỉ tài sản nào có chủ sở hữu
cụ thể mới là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu, còn tài sản vô
chủ không phải là đối tượng tác động của các tội phạm này.
* Tài sản phải có khả năng chuyển hóa được giữa các chủ sở hữu với
nhau. Tương tự, nếu không có khả năng này thì tài sản không thuộc đối tượng
tác động của các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội cưỡng đoạt tài sản nói
riêng. Lưu ý, nếu tài sản là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu
là tài sản có tính chất đặc biệt hoặc Nhà nước cấm tư nhân mua bán trao đổi
sẽ là đối tượng tác động của các tội phạm khác quy định trong Bộ luật hình sự
trên những cơ sở chung.
1.1.2. Khái niệm tội cƣỡng đoạt tài sản
Như vậy, trên cơ sở đặc điểm tài sản là đối tượng tác động của các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản, để đưa ra khái niệm tội
cưỡng đoạt tài sản cần nghiên cứu, phân tích và làm rõ một số khái niệm và
đặc điểm của hành vi chiếm đoạt.
Thuật ngữ "chiếm đoạt", theo nghĩa Hán Việt, chiếm là "lấy làm của mình";
"chiếm đoạt" là "dùng sức mạnh, thế lực mà lấy làm của mình" [14, tr.142];
chiếm là: "giữ lấy làm của mình", đoạt là cướp lấy, chiếm đoạt là "cướp lấy bằng
võ lực hay quyền thế" [14, tr.142]; chiếm đoạt còn được hiểu là "chiếm của
người khác bằng cách dựa vào quyền hành, sức mạnh vũ lực" [69, tr.1483].
Dưới góc độ pháp lý hình sự, cụm từ "chiếm đoạt tài sản" là hành vi cố ý
chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài
sản của mình [53, tr.366]; hoặc "hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp
luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm người

9



hoặc cho người khác mà mình quan tâm" [3, tr.230]. Ở đây, khái niệm "quản lý"
có thể hiểu là "trông coi, giữ gìn và theo dõi việc gì" [69, tr.1363], "chủ tài sản"
được hiểu bao gồm chủ sở hữu tài sản hoặc người được giao quản lý tài sản
đó (thông qua giao dịch dân sự hoặc theo quy định của pháp luật được giao
nhiệm vụ quản lý tài sản).
Hành vi chiếm đoạt tài sản có những đặc điểm chính sau đây:
* Về mặt khách quan, hành vi chiếm đoạt là hành vi làm cho chủ tài sản
(người là chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền quản lý tài sản) mất hẳn khả
năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo
cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt trái pháp luật tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá
trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài
sản đó, quá trình này xét về mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu mất quyền
sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể
của quyền sở hữu.
Bên cạnh đó, tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi
hỏi phải có đặc điểm là vẫn còn nằm trong sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm
soát của chủ tài sản. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu, sự quản lý,
kiểm soát của chủ tài sản (bị thất lạc) thì không còn là đối tượng của hành vi
chiếm đoạt. Chỉ khi tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì mới có thể
có hành vi chiếm đoạt, cũng như mới có hành vi làm mất khả năng chiếm hữu
của chủ tài sản.
* Về mặt chủ quan, chiếm đoạt là hành vi được người phạm tội thực
hiện có mục đích nên ở đây, lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý
trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản
đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản
của mình. Những trường hợp lầm tưởng là tài sản của mình hoặc tài sản
không có người quản lý đều không phải là trường hợp có hành vi chiếm đoạt.


10


Trong khi đó, "cưỡng đoạt", theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa là
"chiếm đoạt bằng lối cưỡng bức"; "cưỡng bức" là "dùng vũ lực hoặc thủ
đoạn dồn người khác vào thế bắt buộc phải làm, dù không muốn cũng không
được" [14, tr.142]; v.v...
Còn trong khoa học luật hình sự Việt Nam, tuy có nhiều cách thể hiện
khác nhau, song về cơ bản các quan điểm đều thống nhất về xác định nội hàm
của hành vi cưỡng đoạt tài sản.
TS. Phạm Văn Beo định nghĩa: "Cưỡng đoạt tài sản là hành vi đe dọa
dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm
đoạt tài sản" [3, tr.159].
ThS. Đinh Văn Quế tiếp cận dưới góc độ thực tiễn xét xử quan niệm:
"Cưỡng đoạt tài sản là tìm mọi cách làm cho người có tài sản hoặc người có
trách nhiệm về tài sản sợ hãi phải giao tài sản cho người phạm tội”. Như vậy,
hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người
khác mà người phạm tội thực hiện là nhằm chiếm đoạt tài sản.Nếu hành vi đe
dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhưng
không nhằm chiếm đoạt tài sản thì không phải là tội cưỡng đoạt tài sản, mà
tùy từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi phạm các tội như: bức tử;
cưỡng dâm hoặc cưỡng dâm trẻ em; cưỡng ép hôn nhân,... [33, tr.121].
Còn Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội thì tội phạm này được định nghĩa như sau: "Tội cưỡng đoạt tài sản là
hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người
khác nhằm chiếm đoạt tài sản" [53, tr.378].
Đặc biệt, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí viết: "Tội cưỡng đoạt tài sản là
việc người phạm tội với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ
đoạn đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn uy hiếp tinh thần của chủ sở hữu

người quản lý tài sản hoặc người khác có liên quan" [13, tr.248]; v.v...

11


Như vậy, có thể nhận thấy, tuy có nhiều cách thể hiện khác nhau,
nhưng hành vi cưỡng đoạt tài sản thường được hiểu là hành vi đe dọa sẽ dùng
vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt
tài sản. Mặc dù vậy, vẫn còn có quan điểm mới chỉ đề cập đến dấu hiệu pháp
lý hình sự và hành vi khách quan, chứ chưa đề cập đến dấu hiệu chủ thể của
tội phạm (độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực trách nhiệm hình sự
hoặc yếu tố khách thể của tội phạm).
Như vậy, tội cưỡng đoạt tài sản thực chất là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ
lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm mục đích chiếm
đoạt tài sản. Hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác với mục đích
bắt người có tài sản lo sợ và phải tự nguyện chuyển giao tài sản cho người
cưỡng đoạt. Đặc trưng cơ bản của tội cưỡng đoạt tài sản là người phạm tội đã
có hành vi uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản bằng những
thủ đoạn đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác làm cho người có trách
nhiệm về tài sản lo sợ mà phải miễn cưỡng giao tài sản cho người phạm tội.
Ngoài ra, thực tiễn cho thấy, sau khi người có tài sản bị đe dọa sẽ dùng vũ lực
và các thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần thì người có tài sản do lo sợ sẽ ảnh
hưởng đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm nên sẽ tự nguyện
chuyển giao tài sản cho người cưỡng đoạt nên dễ chuyển sang thành giao dịch
dân sự nếu người bị cưỡng đoạt tài sản không tố giác.
Tóm lại, dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, khái niệm đang
nghiên cứu được định nghĩa như sau: Tội cưỡng đoạt tài sản là một tội phạm
được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm
phạm đến quyền sở hữu tài sản người khác bằng các hành vi đe dọa sẽ dùng

vũ lực hoặc thủ đoạn uy hiếp tinh thần của chủ sở hữu, người quản lý tài sản
hoặc người khác có liên quan nhằm chiếm đoạt tài sản.

12


1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định tội cƣỡng đoạt tài sản trong luật
hình sự Việt Nam
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, tình hình tội phạm cũng diễn ra hết sức phức tạp, đặc biệt là đối với
các nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Chính sách pháp luật
hình sự của Nhà nước ta vì thế cũng có những thay đổi để phù hợp với thực
tiễn đời sống xã hội. Vi phạm và xử lý vi phạm pháp luật hình sự là hai phạm
trù tuy khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn
nhau. Chỉ trên cơ sở xử lý các hành vi vi phạm pháp luật một cách nghiêm
minh, đúng đắn, chính xác, khách quan, phù hợp với pháp luật thì mới đảo
đảm công bằng xã hội. Nếu việc xử lý hành vi vi phạm không nghiêm minh,
không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi
phạm sẽ tạo tâm lý coi thường chế tài, nhờn pháp luật hoặc bi quan, chán nản,
mất niềm tin vào công lý, khi đó mục đích của hình phạt không những không
đạt được mà còn phản tác dụng. Do vậy, ý nghĩa của việc quy định tội cưỡng
đoạt tài sản được thể hiện qua các phương diện chính sau đây:
* Góp phần bảo đảm pháp chế và xử lý nghiêm minh, kịp thời, công
minh và đúng pháp luật hành vi cưỡng đoạt tài sản, xâm phạm quyền sở hữu
Luật hình sự là một ngành trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm
hệ thống quy phạm pháp luật, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội
là tội phạm; quy định trách nhiệm hình sự thông qua loại và mức hình phạt áp
dụng đối với từng tội phạm cụ thể.
Ngoài ra, luật hình sự còn là công cụ quan trọng để bảo vệ những thành
quả cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia và trật

tự, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đấu
tranh phòng và chống mọi hành vi phạm tội, trong đó có hành vi xâm phạm sở
hữu của công dân, qua đó, bảo đảm sự ổn định và bền vững của chế độ sở hữu.

13


* Góp phần thực hiện tốt nguyên tắc công bằng, bình đẳng trong luật
hình sự Việt Nam
Với việc quy định xử lý trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
cưỡng đoạt tài sản, qua đó để bảo đảm nguyên tắc công bằng "ở việc không
thoát khỏi trách nhiệm và sự tương xứng của trách nhiệm đối với hành vi vi
phạm" [65, tr.45]. Ở đây, khi một người thực hiện hành vi xâm phạm sở hữu
với mức độ nguy hiểm cho xã hội đến thế nào thì có chế tài cụ thể và mức độ
trách nhiệm hình sự tương ứng. Từ đây, góp phần bảo đảm nguyên tắc công
bằng, bình đẳng trong luật hình sự Việt Nam thể hiện tinh thần chủ động
phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống mọi tội phạm và thông qua hình
phạt để răn đe, giáo dục, cảm hóa, cải tạo người phạm tội trở thành người
lương thiện; qua đó, bồi dưỡng cho mọi công dân tinh thần, ý thức làm chủ xã
hội, ý thức tuân theo pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa tội phạm.
* Xác định rõ ranh giới giữa tội phạm với hành vi vi phạm pháp luật
khác và với các hành vi không phải là tội phạm
Để làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi
cưỡng đoạt tài sản theo nguyên tắc chung - "Chỉ người nào phạm một tội đã
được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự". Do đó, về
ý nghĩa pháp lý, thì việc quy định trách nhiệm hình sự đối với tội cưỡng đoạt
tài sản là cơ sở pháp lý để xử lý người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật
xâm phạm đến các quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Ngoài ra, thông qua
việc "quy định trong luật" về các hình thức cưỡng chế đối với người thực hiện
hành vi xâm phạm này sẽ tác động đến ý thức của nhân dân. Từ đó tác động

tới tâm lý nhân dân tạo hiệu quả trong cảnh báo và răn đe nếu ai đó thực hiện
hành vi xâm phạm sở hữu. Nói một cách khác, đối với tội cưỡng đoạt tài sản
phải bảo đảm nguyên tắc mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời,
xử lý nhanh chóng, công minh theo pháp luật; không chỉ nhằm trừng trị người

14


phạm tội, mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức
tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới;
qua đó giáo dục ý thức tuân thủ và tôn trọng pháp luật của người khác; đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN QUY
ĐỊNH VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY
1.2.1. Giai đoạn từ khi sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công đến trƣớc pháp điển hóa lần thứ nhất -Bộ luật hình sự năm 1985
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước công nông
non trẻ đã tích cực tiến hành công tác lập pháp nói chung và luật pháp hình sự
nói riêng nhằm tăng cường việc quản lý Nhà nước bằng pháp luật, bảo vệ các
thành quả của Cách mạng. Cùng với việc ban hành các Sắc lệnh về chống các
loại tội phạm khác, đối với các tội xâm phạm sở hữu, Nhà nước ta đã ban
hành một số văn bản như:
- Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 quy định về trừng trị tội phá hủy
công sản;
- Sắc lệnh số 233/SL ngày 17/01/1946 về trừng trị tội phù lạm, biển thủ
công quỹ;
- Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ
hướng dẫn các Tòa án trừng trị một số tội phạm xâm phạm sở hữu như trộm
cắp, cướp của, lừa gạt, bội tín...

Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật thời kỳ này cho thấy việc quy
định tội cưỡng đoạt tài sản chưa được đề cập đến với tư cách là một tội
phạm độc lập.
Ngày 15/6/1956, Chủ tịch nước ký Sắc lệnh số 267/SL trừng trị những
âm mưu hoạt động phá hoại tài sản của Nhà nước, hợp tác xã và của nhân

15


dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn
hóa. Trong nội dung của Sắc lệnh này tuy chưa quy định tội cưỡng đoạt tài
sản thành một tội phạm cụ thể, nhưng các hành vi khách quan của tội phạm
này đã được đề cập và hướng dẫn về đường lối xử lý tương tự tội cướp tài sản
và tội cướp giật tài sản.
Do đó, để từng bước hoàn thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu quản lý đất
nước và cụ thể hóa công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm xâm
phạm sở hữu trong tình hình mới, ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã thông qua Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa
và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân [49, tr.220].
Nội dung của hai Pháp lệnh này một mặt khẳng định nguyên tắc Nhà nước
kiên quyết bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, đồng thời bảo hộ tài sản riêng của
công dân, chống lại mọi hành vi xâm hại đến tài sản của Nhà nước cũng như
tài sản của công dân.
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa quy định
cụ thể về tội cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 9), như sau:
1. Kẻ nào đe dọa dùng bạo lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy
hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản xã hội chủ nghĩa
nhằm chiếm đoạt tài sản đó thì bị phạt tù từ 1 năm đến 7 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
5 năm đến 15 năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Chiếm đoạt tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị
đặc biệt [49, tr.205].
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân quy
định về tội cưỡng đoạt tài sản riêng của công dân (Điều 7) như sau:

16


1. Kẻ nào đe dọa dùng bạo lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy
hiếp tinh thần người công dân nhằm chiếm đoạt tài sản riêng của
người đó thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
2 năm đến 10 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Chiếm đoạt một số lớn tài sản hoặc gây hậu quả nghiêm
trọng khác [49, tr.455].
Có thể nhận thấy, lần đầu tiên pháp luật Nhà nước ta ghi nhận các tội
xâm phạm quyền sở hữu là những tội phạm độc lập. Trong hai Pháp lệnh nói
trên, tội cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa và tội cưỡng đoạt tài sản của
công dân quy định về cơ bản đều có hành vi khách quan giống nhau. Trong
đó, mức hình phạt đối với hành vi cưỡng đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa nặng
hơn so với hành vi cưỡng đoạt tài sản riêng công dân. Trong giai đoạn này,
mặc dù chưa có hướng dẫn cụ thể về các vấn đề như "số lượng lớn", "tài sản
có giá trị đặc biệt"hay "gây hậu quả nghiêm trọng khác", nhưng việc quy
định các tình tiết này cũng đã phần nào đáp ứng được việc đấu tranh với loại
tội phạm này.
Ngoài ra, để giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án vận dụng
đúng đắn các quy định của Pháp lệnh nêu trên; ngày 09/12/1970, Ban Bí thư

Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 185-CT/TW về tăng cường bảo vệ
tài sản xã hội chủ nghĩa [49, tr.214] đã hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với
một số tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa; tội cưỡng đoạt tài sản xã hội
chủ nghĩa (Điều 9) được hiểu như sau:
"Cưỡng đoạt tài sản thông thường được hiểu là dùng mọi cách uy hiếp
về tinh thần, dọa nạt sẽ làm hại đến quyền lợi của người giữ tài sản về mặt
nhân thân, danh dự, tài sản... (như đòi phải giao tài sản nếu không sẽ dùng bạo

17


lực, sẽ tung tin xấu, sẽ tố cáo một hành vi phạm pháp nào đó...), khiến người
này vì sợ một điều gì hay sẽ xảy ra cho mình mà phải miễn cưỡng để cho lấy
tài sản [49, tr.223].
Mức uy hiếp cao nhất là "đe dọa dùng bạo lực" với đặc điểm khác so
với tội cướp là ở chỗ tinh chất ít mãnh liệt hơn nhiều vì kẻ phạm tội không có
ý định thực hiện ngay tức khắc lời đe dọa này: người bị hại biết rằng có thể
không đưa ngay tài sản mà không nguy hại trực tiếp ngay đến tính mạng, sức
khỏe của mình.
Trường hợp kẻ phạm tội dùng uy thế uy quyền thực sự của chức vụ
trong quan hệ đối với người giữ tài sản xã hội chủ nghĩa để đe dọa mà chiếm
đoạt tài sản là tình tiết tăng nặng chuyển khung (khoản 2 điểm b) [49, tr.223].
Như vậy, có thể khẳng định rằng, cùng với nhóm các tội phản cách
mạng được ban hành trong Pháp lệnh ngày 30/10/1967 về trừng trị các tội
phản cách mạng [49, tr.193], tội cưỡng đoạt tài sản là một trong các tội xâm
phạm sở hữu được ghi nhận sớm trong hệ thống pháp luật nước ta để bảo vệ
tài sản, chế độ sở hữu của Nhà nước, của xã hội và của công dân, cũng như
giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trƣớc pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999

Năm 1975, sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước
thống nhất, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được nhiều thành
tựu quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, an ninh, quốc phòng…, nhưng cũng
gặp phải nhiều khó khăn, trở ngại trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, pháp luật.
Cùng với các lĩnh vực khác, trong lĩnh vực lập pháp hình sự, hệ thống văn bản
luật hình sự đơn hành đã không đủ cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm và bảo vệ lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức
và công dân. Điều này cũng là dễ lý giải vì pháp luật hình sự là công cụ có

18


×