Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.17 KB, 17 trang )

Mục lục

Trang

1


MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là mục tiêu và ước vọng của tất cả các
dân tộc trên thế giới, đây là vấn đề có tính vĩ mô mà không thực hiện tốt nó thì sẽ không
thể đưa đất nước thực sự đi lên. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã
hội là mục tiêu "kép" của sự phát triển nhanh, lành mạnh và bền vững mà nhiều quốc gia
trên thế giới đều mong muốn đạt tới. Tuy nhiên, trên thực tế, đây là bài toán khó, mà
không phải nước nào cũng có thể tìm ra lời giải thỏa đáng. Bởi lẽ để biến mục tiêu đó
thành hiện thực, thì phải có hàng loạt điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết, phải
giải quyết nhiều mối quan hệ - đặc biệt là mối quan hệ giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội – trong một mô hình phát triển nhất định. Với
nước Việt Nam, quan điểm của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ
và công bằng xã hội ngay từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Từ sau công cuộc
đổi mới, nước ta chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá và gần đây là
kinh tế thị trường chúng ta đã thực sự đạt được những thành tựu to lớn: nền kinh tế tăng
trưởng vào loại khá trong khu vực, lạm phát thấp, giáo dục và y tế có nhiều tiến bộ…
nhưng bên cạnh đó vẫn còn không ít những hạn chế như: sự thoái hoá biến chất của một
số cán bộ nhà nước, vấn đề an ninh,an toàn xã hội chưa được đảm bảo… Đó chính là
những biểu hiện của việc không giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội. Việc thực hiện cả hai mục tiêu trên quả là không đơn giản chút nào,
chúng ta không thể ngồi chờ kinh tế phát triển cao, dân giàu lên, mới thực hiện sự công
bằng và tiến bộ xã hội. Chúng ta cũng không thể hi sinh sự tiến bộ, công bằng xã hội để
phát triển kinh tế một cách thuần túy. Bài toán giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công băng xã hội quả là một bài toán khó nhưng không phải là không
có lời giải.


Vì vậy, với góc nhìn từ phép biện chứng và mối liên hệ phổ biến, bài tiểu luận hy
vọng sẽ làm sáng tỏ phần nào vấn đề cấp thiết về mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội.
Để góp phần làm rõ phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và thực tiễn vận
dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, bài tiểu luận sẽ
dựa trên tình hình thực tế ở các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam.
Kết cấu tiểu luận bao gồm: phần mở đầu; phần nội dung gồm hai mục phép biện
chứng về mối liên hệ phổ biến, mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội; phần kết luận.

2


I. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
1. Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng
a. Khái niệm biện chứng, phép biện chứng
Trong chủ nghĩa Mác – Lê nin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ,
tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá
trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện chứng
khách quan là biện chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ quan là sự phản ánh
biện chứng khách quan vào trong đời sống ý thức của con người.
Phép biện chứng là học thuyết phản ánh sự liên hệ, vận động, chuyển hóa và phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức, ba trình độ cơ bản: phép biện chứng
chất phác thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng. Nó
là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp

cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là “biến dịch
luận” và “ngũ hành luận” của Âm dương gia. Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ nét nhất
của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm tù “vỗ ngã”, “vô thường”,
“nhân duyên”,… Đặc biệt, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện một cách sâu sắc tinh thần
của phép biện chứng tự phát. Thế giới quan ban đầu lần đầu tiên đã được Heraclit trình bày
một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi,
mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong. Phép
biện chứng chất phác cổ đại nhận thức đúng về tính biện chứng của thế giới nhưng bằng
trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, ngây thơ, nhưng còn thiếu sự chứng minh bởi
những thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên.
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Can – tơ và hoàn thiện ở Hê
– ghen. Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép
biện chứng duy tâm một cách có hệ thống. Tính chất duy tâm trong triết học Hê-ghen biểu
hiện ở chỗ ông coi biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của “ý niệm tuyệt đối”, coi
biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan. Theo Hê-ghen, “ý niệm tuyệt
đối” là điểm khởi đầu của tồn tại, tự “tha hóa” thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó
trong tồn tại tinh thần, tinh thần, tư tưởng, ý niệm là cái có trước, còn thế giới hiện thực chỉ
là một bản sao chép của ý niệm. Các nhà triết học duy tâm Đức, mà đỉnh cao nhất là Hêghen, đã xây dựng phép biện chứng duy tâm với hệ thống phạm trù, quy luật chung, có
logic chặt chẽ của ý thức, tinh thần.
Tính chất duy tâm trong phép biện chứng cổ điển Đức cũng như trong triết học Hêghen là hạn chế cần phải vượt qua. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã khắc phục hạn chế đó để
sáng tạo nên phép biện chứng duy vật. Đó là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện
chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa trên tinh thần phê phán đối với phép biện chứng
cổ điển Đức. Ph.Ăng-ghen tự nhận xét: “Có thể nói rằng hầu như chỉ có Mác và tôi là
những người đã cứu phép biện chứng tự giác thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó
vào trong quan niệm duy vật về tự nhiên và về lịch sử.”

3


2. Phép biện chứng duy vật

a. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật Ph.Ăng-ghen cho rằng: “Phép biện
chứng … là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của
tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin còn có một số định nghĩa khác về pháp
biện chứng duy vật. Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Ph.Ăngghen đã định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”; còn khi nhấn
mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển (trong đó có bao hàm học thuyết về sự phát
triển của nhận thức) trong phép biện chứng mà C.Mác đã kế thừa từ triết học của Hê-ghen,
V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện
chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và
không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này
phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng”.
b. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin là phép biện chứng được
xác lập trên nên tảng của thế giới quan duy vật khoa học, có sự khác biệt căn bản với phép
biện chứng duy tẩm cổ điển Đức và nhiều tư tưởng biện chứng đã từng có trong lịch sử triết
học từ thời cổ đại.
Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin có sự thống nhất
giữa nội dung thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật,
do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức và cải tạo
thế giới. Trên cơ sở khái quát các mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, những quy luật phổ
biến của các quá trình vận động, phát triển của tất thảy mọi sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin cung cấp những
nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho quá trình nhận thức và cải tạo thế giới, đó
không chỉ là nguyên tắc phương pháp luận khách quan mà còn là phương pháp luận toàn
diện, phát triển, lịch sử - cụ thể , phương pháp luận phân tích mâu thuẫn tìm ra nguồn gốc,
động lực cơ bản của các quá trình vận động, phát triển,…Với tư cách đó, phép biện chứng
duy vật chính là công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp cách mạng nhận thức và cải tạo thế
giới.

3. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
a. Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động
và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi
sự vật, hiện tượng trong thế giới; còn khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ
biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để
chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên
hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó
thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa các mặt đối
lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng,
… Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc thù,
vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng tồn tại

4


những mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những
mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù
và phổ biến đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong
tính thống nhất của các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
b. Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản
của các mối liên hệ.
Tính khách quan của các mối liên hệ: sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn
nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại
độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con người; con người chỉ có thể nhận thức và vận
dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
Tính phổ biến của các mối liên hệ: không có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình
nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời, cũng
không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống, bao gồm

những yếu tố cấu thành với mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn tại nào cũng
là một hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác, tương
tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác
nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn
tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật, hiện tượng
nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thì cũng có những tính chất và vai trò khác
nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất, vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác
nhau đối với sự vật, hiện tượng nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là các mối
liên hệ bên trong và bên ngoài, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối liên hệ chủ yếu và
thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp…của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần
phải xem xét sự vật, hiện tượng, trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận,
giữa các yếu tố, giữa các mặt chính của sự vật, hiện tượng và trong sự tác động qua lại giữa
sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận
thức đúng về sự vật, hiện tượng và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn.
Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức
và thực tiễn.
Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn, khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải phù
hợp với quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống
trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức
và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác
nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những giải
pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận


5


thức và thực tiễn không những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện siêu hình
mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm triết trung, ngụy biện.

6


II. Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
1. Tăng trưởng kinh tế
- Tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế học được dùng để chỉ sự gia tăng về quy mô sản
lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh theo thời
điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản lượng kinh tế
nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô và tốc độ tăng trưởng luôn là cặp đôi trong
khái niệm tăng trưởng kinh tế.
- Các chỉ tiêu để đo tăng trưởng kinh tế thường được sử dụng là mức tăng tổng sản phẩm quốc
nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), GDP bình quân đầu người và các chỉ tiêu kinh
tế tổng hợp khác.
2. Công bằng xã hội
- Công bằng xã hội là khái niệm mang tính chuẩn tắc phụ thuộc vào quan niệm khác nhau của
mỗi giai cấp, mỗi quốc gia. Công bằng xã hội là sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của
công dân, công bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ
hội. Như vậy, công bằng xã hội là một khái niệm rất rộng, bao gồm cả yếu tố kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội.
- Những thước đo chủ yếu về công bằng xã hội là: Chỉ số phát triển con người (HDI); Đường
cong Lorenz; Hệ số GINI; mức độ nghèo khổ; Mức độ thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con
người...
3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội

Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động qua
lại, làm tiền đề cho nhau cùng phát triển. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiền đề để thực
hiện công bằng xã hội, không thể có công bằng xã hội nếu không dựa trên nền tảng tăng
trưởng kinh tế. Mặt khác, thực hiện công bằng xã hội là động lực, điều kiện quan trọng có
tác dụng thúc đẩy, bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao, bền vững. Mỗi bước tiến của tăng
trưởng kinh tế gắn với việc từng bước thực hiện mục tiêu công bằng xã hội ở từng giai
đoạn phát triển của đất nước. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội
không phải là những yếu tố đối lập mà có quan hệ nhân quả với nhau.
a.
Sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến công bằng xã hội.
Tăng trưởng kinh tế đem lại những giá trị vật chất to lớn chính là điều kiện để thực
hiện công bằng xã hội. Nếu không có những điều kiện kinh tế tối thiểu thì công bằng xã hội
khó có thể thực hiện được.
- Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện sự tăng lên về chất lượng, số lượng hàng hóa, dịch vụ
và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng kinh tế là tiền đề để giảm bớt tình trạng đói
nghèo. Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia
trên con đường vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng.
- Tăng trưởng kinh tế làm mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc
sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử
vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hóa phát triển…và từ đó cũng có tác động tích
cực đến công bằng xã hội.
- Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp. Khi một nền
kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng

7


tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh thì tỉ lệ thất nghiệp có xu
hướng giảm.
Tuy nhiên, một số bài học kinh nghiệm trên thế giới cho thấy nếu thúc đẩy nền kinh

tế tăng nhanh bằng mọi giá nhiều hậu quả trong trung và dài hạn là cái giá quá đắt cho mục
tiêu này. Tăng trưởng nóng thường dẫn đến gia tăng khoảng cách giàu nghèo, nảy sinh
nhiều mâu thuẫn giai cấp và đây chính là nguồn gốc của những cuộc cách mạng đòi hỏi sự
bình đẳng, công bằng trong phân phối thu nhập… Việc dồn mọi nguồn lực xã hội cho tăng
trưởng cũng có nghĩa là phải hy sinh một số mục tiêu xã hội, bỏ rơi người nghèo, phát sinh
xu thế làm giàu của một số cá nhân và cuối cùng là nguy cơ khủng hoảng xã hội.
b. Sự tác động của công bằng xã hội đến tăng trưởng kinh tế.
Công bằng xã hội là một nguyên tắc phân phối lợi ích. Khác với các nguyên tắc phân
phối lợi ích nói chung, thước đo của nguyên tắc phân phối lợi ích công bằng chính là sự
bình đẳng giữa người với người trong mối quan hệ tương ứng giữa cống hiến và hưởng thụ
với tiêu chí cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Nguyên tắc phân phối lợi ích
công bằng kích thích sự cống hiến tự nguyện của mỗi cá nhân vào hoạt động chung của xã
hội vì lợi ích của mình và của cả cộng đồng. Nói cách khác, sự bình đẳng giữa người và
người trong mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ đã khiến cho không một cá nhân nào
cảm thấy thiệt thòi, tạo ra một xã hội ổn định, thúc đẩy mỗi người hoạt động hơn nữa, từ đó
thúc đẩy xã hội tiếp tục vận động và phát triển. Theo nghĩa đó, công bằng xã hội là một
động lực tích cực tạo nên sự vận động và phát triển mạnh mẽ của xã hội nói chung, cũng có
nghĩa công bằng xã hội chính là một động lực tích cực cho tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, công bằng xã hội quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế ở hai khía cạnh:
vừa là động lực, vừa là thành quả của tăng trưởng kinh tế, thể hiện sự phân phối thành quả
của tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở và điều kiện vật chất để thực hiện công bằng
xã hội. Đến lượt mình, công bằng xã hội là động lực, mục tiêu của tăng trưởng kinh tế.
Không đảm bảo công bằng xã hội sẽ gây ra cản trở cho tăng trưởng kinh tế ở những giai
đoạn tiếp theo.
c. Các mô hình về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Mô hình tăng trưởng trước bình đẳng sau của A. Lewis. Ông cho rằng sự bất bình
đẳng sẽ tăng lên lúc đầu và sau đó sẽ giảm bớt khi đã đạt được tới mức độ phát triển nhất
định. Trước hết, sự bất bình đẳng tăng lên ở giai đoạn đầu bởi vì cùng với việc mở rộng
quy mô sản xuất công nghiệp, số lượng lao động được thu hút vào làm việc ở khu vực này
ngày càng tăng nhưng tiền công của công nhân vẫn ở mức tối thiểu. Như vậy, trong khi

mức tiền công của công nhân không thay đổi thì thu nhập của các nhà tư bản tăng lên do
quy mô mở rộng và lao động của công nhân mang lại. Ở giai đoạn sau sự bất bình đẳng
giảm bớt do khi lao động dư thừa sẽ được hút hết vào khu vực thành thị thì lao động trở
thành yếu tố khan hiếm trong sản xuất. Nhu cầu lao động ngày càng tăng lên đòi hỏi phải
tăng tiền lương như vậy sẽ dẫn đến giảm bớt sự bất bình đẳng. Trong mô hình này, bất bình
đẳng không chỉ là kết quả của tăng trưởng kinh tế mà còn là điều kiện cần thiết của tăng
trưởng. Theo quan điểm của Lewis, bất bình đẳng là điều kiện để người giàu tăng tích lũy,
tăng đầu tư, do đó sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế.
Mô hình chữ U ngược (Simon Kuznets). Simon Kuznets tiến hành nghiên cứu về mối
quan hệ giữa thu nhập và tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Theo mô hình
này thì các nước đang phát triển có dấu hiệu diễn ra bất bình đẳng cao hơn so với các nước
phát triển. Qua nghiên cứu nhiều nước hơn nữa có kết quả tương tự: bất bình đẳng tăng ở

8


giai đoạn đầu và giảm ở giai đoạn sau khi lợi ích của tăng trưởng lan tỏa rộng rãi hơn. Tuy
nhiên mô hình còn có những hạn chế như là không giải thích được nguyên nhân cơ bản nào
tạo ra sự bất bình đẳng trong quá trình phát triển. Các chính sách của chính phủ các nước
có tác động như thế nào đến sự tăng trưởng và bình đẳng. Sự bất bình đẳng có phải là tất
yếu hay không đối với sự phát triển ở các nước.
Mô hình của M. B. Todaro. Theo mô hình này thì có 4 lý do để tăng trưởng kinh tế
phải gắn với công bằng xã hội: Ở các nước đang phát triển, người giàu có xu hướng tiêu
xài xa xỉ, không đóng góp cho tiết kiệm và đầu tư. Người lao động có thu nhập thấp, không
đủ điều kiện để đảm bảo cho sức khỏe và vì vậy năng suất lao động của họ rất thấp. Khi
tăng thu nhập cho người nghèo thì kích thích những đối tượng này chi tiêu nhiều hơn và từ
đó sẽ kích thích mở rộng sản xuất. Bất bình đẳng gia tăng làm cho mâu thuẫn xã hội gia
tăng, từ đó kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Có thể nói mô hình này đã lý giải được những hạn
chế của hai mô hình trên, tuy nhiên nó chỉ đưa ra được lý do để tăng trưởng kinh tế phải
gắn với công bằng xã hội chứ chưa nói được phải thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với

công bằng như thế nào. Điều này đã được H.Oshima giải quyết bằng mô hình tăng trưởng
đi đôi với bình đẳng.
Mô hình tăng trưởng đi đôi với bình đẳng (H. Oshima). Theo H. Oshima sự bất bình
đẳng có thế được hạn chế ngay từ đầu. Như vậy, trước hết khoảng cách thu nhập giữa nông
thôn và thành thị sẽ được cải thiện ngay từ giai đoạn đầu nhờ việc đầu tư phát triển khu vực
nông nghiệp nông thôn. Tiếp đó là quá trình cải thiện dần khoảng cách thu nhập giữa xí
nghiệp có quy mô lớn và xí nghiệp có quy mô nhỏ ở thành thị, cũng như nông trại lớn và
ông trại nhỏ ở nông thôn. Tiết kiệm sẽ được tăng lên ở tất cả các nhóm dân cư kể cả các
nhóm có thu nhập thấp nhất và đó là điều kiện để phát triển sản xuất.
Như vậy, giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội luôn là yêu
cầu đặt ra trong suốt lịch sử phát triển kinh tế xã hội ở các nước. Thực tế ở nhiều quốc gia
cho thấy không thể thực hiện tiến bộ hay công bằng xã hội trước nếu như không bảo đảm
nền kinh tế tăng trưởng cao, liên tục theo hướng phát triển bền vững. Mặt khác, nếu sự tăng
trưởng kinh tế không bảo đảm thực hiện hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội thì sự tăng
trưởng này cũng không có ý nghĩa. Những chính sách chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế có thể
làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng. Mặt khác, những chính sách dựa trên ưu tiên mục
tiêu tiến bộ và công bằng xã hội có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế,
kết cục cả mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế đều không thực hiện được. Qua việc đánh
giá, rút ra kinh nghiệm từ các mô hình cũng như thực tế trên thế giới, chúng ta đang hướng
tới sự phát triển hài hòa, cân đối cả tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
4. Thực tế quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở các nước đang phát
triển.
Trên Thế giới có khoảng 145 nước thuộc thế giới thứ ba, các quốc gia sẽ có sự khác
nhau về văn hoá , các điều kiện kinh tế, cơ cấu chính trị và xã hội, v.v... Đồng thời, vì
những nước này đều là các nước đang phát triển, nên chắc chắn là họ cũng có những điểm
chung. Các quốc gia khác nhau thì có sự lựa chọn con đường phát triển của mình khác
nhau. Có nước thì đề cao mục tiêu tăng trưởng kinh tế, có nước đề cao công bằng xã hội,
có nước lại chọn kết hợp cả hai mục tiêu đó một cách hợp lý…để tiện trong vấn đề nghiên
cứu, Nigeria, Bhutan và Việt Nam là ba quốc gia được chọn là ba quốc gia đại diện.
 Cộng hòa Liên bang Nigeria: là quốc gia thuộc Tây Phi. Thủ đô là Abuja. Dân số 149,2

triệu người (2009),là quốc gia đông dân nhất châu Phi. Diện tích: 923,768 km2.Tôn giáo:

9


50% dân số theo đạo Hồi, 40% theo đạo Thiên chúa và 10% theo đạo cổ truyền. Đảng Dân
chủ nhân dân đã thống trị kể từ khi trở về quy luật dân sự năm 1999.
 Vương quốc Bhutan: Bhutan là một quốc gia nằm kín trong lục địa tại Nam Á nằm giữa Ấn
Độ và Trung Quốc. Bhutan có dân số khoảng 672.425 người (2006).Thimphu là thủ đô
đồng thời là thành phố lớn nhất nước. Buhtan được biết đến là quốc gia cô lập nhất trên thế
giới với các chính sách kinh tế và xã hội nghiêm ngặt để bảo tồn nền văn hóa Phật giáo Tây
Tạng truyền thống của mình. Bhutan đã trở thành một chế độ quân chủ từ năm 1907. Năm
2008, chuyến sang chế độ quân chủ lập hiến.
 Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: ( Thủ đô Hà Nội) là một quốc gia nằm ở phía đông
bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á, với diện tích khoảng 331698 km², với
dân số là 89571130 người. Nền kinh tế Việt nam là nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa nhằm kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng
xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân, hướng tới mục tiêu: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Tình hình tăng trưởng kinh tế ở 3 nước năm 2010
Quốc gia
Nigeria
Bhutan
Việt Nam
Chỉ số
GDP
369.8
tỷ
3. 526 tỷ
104.6

tỷ
USD
USD
USD
GDP/người
2400USD
5000 USD
1100USD
Tốc độ tăng trưởng kinh
6.8%
6.8%
6.78%
tế
Tình hình thực hiện công bằng xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế năm 2010
Quốc
Nigieria
Bhutan
Việt Nam
gia
Chỉ số
Gini
Chỉ số nghèo
khổ
HDI
Tuổi thọ trung
bình
Tỷ lệ biết chữ

0.437


0.47

0.37

45%

23,2% (2008)

32.9%

0.473(158/177)

0,536 (134/177)

45

55

0.704( 108/1
77)
72

68%

50%

94%

Tăng trưởng kinh tế góp phần tạo ra nhiều cơ hội việc làm và làm tăng thu nhập cho
dân cư. Thu nhập bình quân đầu người ở mỗi nước đều tăng qua các năm. Cụ thể là: ở

Nigieria GDP theo đầu người tăng từ $692/người năm 2006 tới $1,754/người năm 2007 và
đến năm 2010 tăng lên 2400USD/ người.Ở Bhutan GDP bình quân theo đầu người tăng từ
$1.400năm 2003 lên đến $ 5000 năm 2010. ở việt nam, GDP bình quân đầu người từ
khoảng 200 USD năm 1990 tăng lên 1.200 USD năm 2010.

10


-

Về chỉ số Gini (chỉ ra mức bất bình đẳng của phân phối thu nhập giữa cá nhân và
hệ kinh tế trong một nền kinh tế )và chỉ số nghèo khổ
Theo Ngân hàng thế giới thì các quốc gia đang phát triển là những quốc gai có mức
thu nhập trung bình, chỉ số Gini là từ 0,4 – 0,6. Qua bảng số liệu trên ta thấy ở 3 nước trên
thì hệ số Gini ở mức phù hợp, thể hiện sự bất bình đẳng của các quốc gia này ở mức trung
bình. Đó là trên lý thyết, còn trên thực tế, sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập vẫn
còn đáng báo động:
- Ở Nigieria: Dân số dưới mức nghèo khổ chiếm tỷ lệ khá cao, chiếm tới 45%, hộ gia
đình thu nhập hoặc tiêu dùng bằng cách chia sẻ tỷ lệ : thấp nhất 10% là 2% và cao nhất
10% là 32,4%.
- Ở Bhutan: Theo một bảng xếp hạng mới đây của Anh, Bhutan là nước có điểm hạnh
phúc xếp thứ 8 thế giới. Dân số dưới mức nghèo khổ là 23,2%(2009) và hộ gia đình thu
nhập hoặc tiêu dùng bằng cách chia sẻ tỷ lệ : thấp nhất 10% là 2,3% và cao nhất 10% là
37,6%.
- Ở Việt Nam: Năm 2010, GDP bình quân đầu người của Việt Nam vượt ngưỡng thu
nhập 1.000 USD/người, đạt 1.100 USD/người. Tuy nhiên khoảng cách giàu nghèo giữa
người giàu và người nghèo, giữa thành thị và nông thôn vẫn còn khá cao, 32,9 % người dân
Việt Nam sống dưới mức nghèo khổ.
Về Chỉ số phát triển con người HDI:
Các nước đang phát triển có chỉ số phát triển con người ở mức trung bình là 0,691.

Nigeria: Năm 2006, HDI của Nigeria là 0,419 đứng thứ 151 trên tổng số 177 quốc gia được
thống kê, năm 2007 là 0,47(158/177), năm 2009 là 0.453(158/177). Nhìn chung chỉ số này
của Nigeria có tăng qua các năm nhưng không nhiều và vẫn ở mức không cao.
Bhutan: Năm 2009, HDI của Bhutan là 0.536 đứng thứ 134 trên thế giới, tuy không cao
nhưng vì Bhutan là nước vừa mới thoát ra khỏi danh sách các nước kém phát triển nên con
số này là có thể chấp nhận được. Hiện nay thì HDI của nước này đang dần tăng lên.
Việt Nam: HDI của Việt Nam được đánh giá là ở mức cao so với các nước đang phát triển
khác và tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập niên kỷ qua: từ 0,561 năm 1985 lần lượt
tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690 năm 2000; 0,715 năm 2005 và 0,733 năm
2007. Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì xếp hạng HDI của Việt
Nam năm 2007 vượt lên 13 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 118 trên tổng số 177
nước được thống kê, còn HDI thì xếp thứ 105/177. Và hiện nay chỉ số này là 0,704.
Tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá CBXH và TTKT:
GDP/ người

HDI

Gini

Tỷ lệ nghèo

Tăng

Tăng

Giảm

Giảm

11



Nhìn chung, các chỉ tiêu đánh giá này ở các quốc gia này đều có xu hướng tăng dần
thu nhập bình quân đầu người và chỉ số HDI, giảm dần chỉ số Gini và chỉ số nghèo khổ.
Đây cũng là xu hướng chung mà các nước đang phát triển hiện nay đang hướng tới.
5. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay
a. Những thành tựu đạt được
Các chủ trương, quan điểm của Đảng đã được Chính phủ thể chế hóa thành các chính
sách, kế hoạch, chương trình dự án cụ thể để đưa vào cuộc sống. Nhờ vậy, qua gần 30 năm
đổi mới đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc thực hiện kết hợp
tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Điểm quan trọng là đổi mới nhận thức về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
tiến bộ, công bằng xã hội. Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể đã chuyển
sang tinh thần năng động, chủ động và tích cực xã hội của tất cả các tầng lớp dân cư. Từ
chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung, trừu tượng; thi hành chế độ
phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế là bình quân, cào bằng, đã từng
bước thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời
phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông
qua phúc lợi xã hội. Nhờ vậy, công bằng xã hội được thể hiện ngày một rõ hơn. Từ chỗ
không đặt đúng tầm quan trọng của chính sách kinh tế đã đi đến thống nhất chính sách kinh
tế với chính sách xã hội, xem trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện
chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực quan trọng thúc đẩy phát
triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước phát triển. Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã
dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và
người lao động tham gia tạo việc làm. Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói,
giảm nghèo, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Từ chỗ
muốn nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội "thuần nhất" chỉ còn giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức đã đi đến quan niệm về việc xây dựng một
cộng đồng xã hội đa dạng, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ,

quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh. Đã
coi phát triển giáo dục, đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Thực hiện công bằng xã hội trong
giáo dục, chăm sóc sức khỏe nhân dân, tạo điều kiện để ai cũng được học hành; có chính
sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo.
Nhờ đổi mới tư duy về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã
hội nên kinh tế tăng trưởng khá nhanh và liên tục trong nhiều năm. Trong điều kiện khủng
hoảng kinh tế toàn cầu năm 2007 - 2008, Việt Nam vẫn là nước có tốc độ tăng trưởng kinh
tế khá và là một trong số ít nước có tăng trưởng kinh tế dương trong năm 2009. Việt Nam
sớm khắc phục tình trạng suy giảm kinh tế và có nhiều triển vọng tiếp tục tăng trưởng kinh
tế khá cao trong những năm tiếp theo. Bảng sau đây cho chúng ta thấy điều đó:
Bảng: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam
Năm
2000
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009

12


Tốc độ tăng 6,8
trưởng GDP
(%)

6,9

7,08

7,34

7,79


8,44

8,17

8,48

6,18

5,32

Nguồn: Niên giám thống kê
Thế giới đánh giá rất cao những thành tựu gắn kết tăng trưởng kinh tế và tiến bộ,
công bằng xã hội ở Việt Nam. Việt Nam đã thực hiện sự phát triển kinh tế hướng vào con
người, nhất là những người nghèo. Thực thi chiến lược phát triển toàn diện, cùng với việc
đạt được chỉ tiêu tăng trưởng GDP cao, thì tất cả các chỉ tiêu về xã hội, môi trường có liên
quan trực tiếp đến tăng trưởng và sử dụng kết quả của tăng trưởng đều hoàn thành và hoàn
thành vượt mức. Các chỉ tiêu xã hội có xu hướng được cải thiện rõ rệt. Chỉ số HDI đo sự
tiến bộ trung bình của một nước về phát triển con người bao gồm tuổi thọ, trình độ dân trí
và thu nhập GDP tính theo đầu người của Việt Nam năm 2007 đã lên tới 0,725, tăng hơn so
với năm 2006 (đạt 0,709) và thứ hạng HDI của Việt Nam được cải thiện 4 bậc (từ thứ
109/177 lên 105). Chỉ số phát triển con người của Việt Nam cao hơn một số nước có thu
nhập bình quân đầu người cao hơn nước ta.
Nhìn chung, sau gần 25 năm đổi mới mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một cách
khá hiệu quả. Các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp
dân cư. Đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối
đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, quốc
phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng
cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất

nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới
của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
b. Những mặt còn hạn chế
Tăng trưởng kinh tế đã góp phần phát triển xã hội, song vẫn còn rât nhiều hạn chế
như: khoảng cách giàu nghèo tăng, tình trạng thất nghiệp thiếu việc làm. Quá trình tăng
trưởng kinh tế nước ta trong nền kinh tế hàng hoá theo nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại
tình trạng phân hoá giàu nghèo ngày càng mở rộng giữa các vùng, giữa thành thị với nông
thôn và giữa các tầng lớp dân cư. Đời sông một bộ phận dân cư, nhất là ở một số vùng căn
cứ cách mạng và kháng chiến trước đây, vùng đồng bào dân tộc còn quá khó khăn. Chất
lượng phục vụ y tế, giáo dục, đào tạo ở nhiều nơi còn rất thấp. Người nghèo không đủ tiền
để chữa bệnh và cho con em đi học. Tệ nạn xã hội gia tăng. Tệ quan liêu, tham nhũng, buôn
lậu, sử dụng lãng phí ngân sách và tài sản công phổ biến và nghiệm trọng. Tiêu cực trong
bộ máy nhà nước, Đảng và đoàn thể, nhất là trên lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp
tác đầu tư, thu, xuất nhập khẩu và cả trong hoạt động của các cơ quan thi hành pháp luật
nghiêm trọng kéo dài. Tình trạng đó càng kéo căng thêm sự bất bình đẳng trong xã hội.
1993

1998

2002

13


Tỷ lệ nghèo
51,8
37,4
28,9
Thành thị

25,1
9,2
6,6
Nông thôn
66,4
45,5
35,7
Người Kinh và người Hoa
53,9
31,1
23,1
Dân tộc thiểu số
86,4
75,2
69,3
Nghèo lương thực
24,9
15
9,96
Thành thị
7,9
2,5
3,61
Nông thôn
29,1
18,6
11,99
Người Kinh và người Hoa
20,8
10,6

6,5
Dân tộc thiểu số
52
41,8
41,5
Khoảng cách nghèo
18,5
9,5
6,9
Thành thị
6,4
1,7
1,3
Nông thôn
21,5
11,8
8,7
Người Kinh và người Hoa
16
7,1
4,7
Dân tộc thiểu số
34,7
24,2
22,1
Bảng tỷ lệ nghèo và khoảng cách đói nghèo ở Việt Nam
Bảng trên cho thấy: xu hướng giảm nghèo đói đã diễn ra ở tất cả các vùng và đối với
các dân tộc trong cả nước. Tuy nhiên,Việt Nam vẫn được xếp vào nhóm các nước nghèo
của thế giới. Thu nhập của một bộ phận vẫn nằm giáp ranh giới mức nghèo, do đó chỉ cần
điều chỉnh nhỏ về ngưỡng nghèo cũng khiến cho tỉ lệ nghèo tăng lên, trong khi tốc độ giảm

nghèo cũng đang chậm dần. Trong 5 năm đầu tỷ lệ nghèo giảm trung bình 4% một năm.
Nhưng trong 4 năm sau thì chỉ giảm 2% một năm. Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ
nông nghiệp. Với điều kiện về nguồn lực rất hạn chế, thu nhập của họ rất bấp bênh và dễ bị
tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình và cộng đồng. Nghèo đói tập trung chủ
yếu ở nông thôn với trên 90% số người nghèo sinh sống, nhất là ở vùng đặc biệt khó khăn
như vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao. Tỉ lệ đói nghèo đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc
ít người. Ơ một phương diện nhất định, phân hoá giàu nghèo thể hiện rất rõ sự bất bình
đẳng xã hội. Nghèo không chỉ là vấn đề của các nước đang phát triển mà có tinh toàn cầu.
Ngay cả ở những nước phát triển cũng tồn tại một bộ phận dân cư nghèo đói`
6. Giải pháp cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Một là, do nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế chậm phát triển, muốn
cho kinh tế phát triển nhanh, bền vững, có hiệu quả thì con đường duy nhất là thực hiện
kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên trong quá trình đó phải đề
phòng và khắc phục các tác động mặt trái của kinh tế thị trường. Định hướng Xã hội chủ
nghĩa là sự phát triển gắn liền với công bằng xã hội, bình đẳng trong phân phối, để dẫn tới
bình đẳng xã hội.
Hai là, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội dưới sự quản lý và
điều tiết của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảngcó vai trò quyết định và vai trò quản lý trực
tiếp của Nhà nước phải được nâng lên tầm cao mới để vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
vừa đảm bảo công bằng xã hội. Nhà nước là chủ thể số 1 trong các chủ thể xã hội tham gia
vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Năng lực quản lý của Nhà nước cần
được thể hiện rõ qua việc hoạch định một hệ thống chính sách xã hội, một hệ thống phúc

14


lợi xã hội tích cực, sao cho ''bao nhiêu lợi ích đều vì dân", đồng thời có khả năng và thực
hiện tốt việc điều tiết xã hội, giữ vững an ninh xã hội, đoàn kết các giai tầng xã hội. .., đảm
bảo môi trường chính trị - xã hội luôn luôn ổn định để phát triển đất nước theo con đường
XHCN.

Ba là, cần mở rộng chính sách phúc lợi xã hội thành hệ thống chính sách an sinh xã
hội nhiều tầng nấc, xem đây là một trong những chỉ báo quan trọng của một xă hội công
bằng và văn minh.
Bốn là, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa không thể tách rời phát triển văn hoá. Phải làm như thế nào để đưa
các nhân tố văn hoá vào mọi lĩnh vực hoạt động và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước
ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Năm là,đẩy mạnh việc thể chế hóa đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, cải tiến các chính sách quản lý vĩ mô, nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi cho
mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp trong xã hội đều có cơ hội tiếp cận một cách công
bằng đối với các yếu tố "đầu vào" của sản xuất, kinh doanh.
Sáu là, ngoài việc phân phối lần đầu cho những người trực tiếp tham gia quá trình sản
xuất, kinh doanh như trên đã nói, Nhà nước cần phải thi hành chính sách phân phối lại
thông qua các sắc thuế (như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập...) để điều tiết thu nhập
giữa các tầng lớp dân cư, tăng thêm nguồn thu nhập cho ngân sách và phân bổ một cách
công bằng, hợp lý các khoản chi từ ngân sách này cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Riêng trong lĩnh vực đầu tư cho phát triển các vùng lãnh thổ, một mặt cần tập trung
đầu tư ở mức hợp lý cho các vùng kinh tế động lực, nhằm tạo ra những đầu tàu tăng trưởng
để kéo toàn bộ đoàn tàu kinh tế Việt Nam đi lên nhanh hơn. Song, mặt khác, cũng cần chú
trọng đầu tư cho các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách
mạng và kháng chiến cũ, nhằm giảm dần khoảng cách, trình độ phát triển giữa các vùng
miền, từng bước khắc phục tình trạng "bất công tự nhiên" và "bất công do lịch sử để lại";
giữ vững ổn định chính trị - xã hội bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Bên
cạnh đó, cũng có thể áp dụng cơ chế riêng đối với những vùng có lợi thế về kinh tế để hỗ
trợ những vùng yếu thế hơn.
Bảy là, hạn chế tình trạng thu nhập bất hợp lý, kiên quyết xử lý mạnh các trường hợp
thu nhập bất hợp pháp do tham nhũng, ăn cắp của công, buôn lậu. Tham nhũng hiện nay là
một ung nhọt gây nhức nhối nhất trên cơ thể xã hội, là một trong bốn nguy cơ cản trở quá
trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, lúc này, chống tham nhũng là một

trong những trọng điểm để tạo nên sự tăng trưởng kinh tế, làm lành mạnh các quan hệ xã
hội, đạt tới tiến bộ và công bằng xã hội. Muốn chống tham nhũng tốt, phải mở rộng dân
chủ, chống từ trên xuống dưới, từ dưới lên, rà soát lại đội ngũ cán bộ có chức có quyền, từ
trong nội bộ Đảng ra ngoài xã hội.

15


KẾT LUẬN
Bài tiểu luận đã góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội không chỉ ở Việt Nam mà còn ở một số nước trên thế giới. Cùng với việc nêu
ra ưu điểm và hạn chế, tiểu luận cũng đưa ra những biện pháp thiết thực, phù hợp với tình
hình thế giới và đất nước ta. Công bằng xã hội của nước ta gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là
một trong những biểu hiện đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
sự thống nhất và phát triển biện chứng giữa giải phóng dân tộc và, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội và giải phóng con người. Chủ nghĩa xã hội sẽ tiến tới xoá bỏ mọi áp bức bóc
lột, bất công và mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, mọi gia đình và toàn xã hội. Đó là công
bằng xã hội lớn nhất triệt để nhất mà chúng ta đang phấn đấu. Mục tiêu lâu dài đó được cụ
thể hoá cho giai đoạn trước mắt ở nước ta bằng khẩu hiệu toàn dân đoàn kết phấn đấu vì sự
nghiệp “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Bằng khẩu hiệu đó,
Đảng và Nhà nước ta chủ trương khuyến khích mọi người tham gia làm giàu chính đáng.
Kinh nghiệm thành công ở các nền kinh tế Đông Nam A cho thấy, không nên và
không thể tách rời các chính sách khuyến khích tăng trưởng kinh tế và các chính sách tạo
lập công bằng. Điều quan trọng những là tạo được một cơ chế mà tăng trưởng và giảm bất
bình đẩng là kết quả đồng thời và là điều kiện hộ trợ lẫn nhau.
Thực tiễn trong những năm vừa qua đã cho thấy: từ sau khi đổi mới đến nay Việt
Nam đã đạt được những thành tựu cao trong tăng trưởng kinh tế, đời sống nhân dân được
cải thiện rõ rệt, giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo có tiến bộ, trong công bằng xã
hội đang từng bước được xoá bỏ. Chế độ phân phối gắn với thành quả và hiệu quả lao động
đã tạo ra những động lực thúc đẩy tăng trưởng và tạo ra công bằng.

Tuy nhiên sự phân tích cũng như quan sát thực tế cho thấy mức độ bất bình đẳng
trong phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, các vùng cũng ngày càng gia tăng. Điều
này liên quan trực tiếp đến những khởi điểm khác nhau giữa các tầng lớp dân cư và các
vùng. Hơn nữa, mức độ bất bình đẳng cũng phản ánh quy luật chung của quá trình phát
triển là bất bình đẳng tăng lúc đầu và chỉ giảm xuống sau khi đạt được tăng trưởng ổn định.
Điều đáng quan tâm là những méo mó trong phân phối thành quả tăng trưởng kinh tế, đặc
biệt là nạn tham nhũng, sẽ cản trở quá trình tăng trưởng tiếp theo. Việt Nam đặt mục tiêu là
một nước công nghiệp phát triển vào năm 2020, để đạt được mục tiêu đó chắc chắn phải
kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Với đường lối chính sách
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, chúng ta tin tưởng rằng Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu
đã đề ra, trở thành một nước như đúng khẩu hiệu chúng ta đã đề ra, đó là: “ Dân giàu. nước
mạnh. xã hội công bằng. dân chủ. văn minh”.

16


Tài liệu tham khảo
TS.Bùi Đại Dũng, ThS.Phạm Thu Phương, Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội,
Tạp chí khoa học ĐHQGHN.
Bùi Đình Phong, Nguyễn Tuyết Hạnh, Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia – sự thật, 2016, Giáo trình những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lê Nin.
Tạp chí cộng sản, 2010, Gắn kết tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội ở nước ta.
123doc, />Tài liệu – ebook, />Tài liệu – ebook, />
17




×