Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

NHỮNG điểm mới về đại DIỆN và PHẠM VI đại DIỆN TRONG bộ LUẬT dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................18
Điều 134. Đại diện............................................................................................................19
Điều 135. Căn cứ xác lập quyền đại diện..........................................................................19
Điều 136. Đại diện theo pháp luật.....................................................................................19
Điều 137. Người đại diện theo pháp luật..........................................................................19
Điều 138. Đại diện theo uỷ quyền.....................................................................................20
Điều 142. Người đại diện theo uỷ quyền..........................................................................20
Điều 143. Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện..............................................................20
Điều 140. Thời hạn đại diện..............................................................................................20
Điều 141. Phạm vi quyền đại diện....................................................................................21
Điều 142. Hậu quả của hành vi pháp lý do người không có quyền đại diện xác lập, thực
hiện đối với người được đại diện......................................................................................22
Điều 151. Hậu quả của hành vi pháp lý do người không có quyền đại diện xác lập, thực
hiện đối với người thứ ba..................................................................................................22
Điều 153. Chấm dứt quyền đại diện..................................................................................23


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống dân sự diễn ra hàng ngày, hầu hết các trường hợp chủ thể quan hệ
pháp luật dân sự đều tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự từ khi cam kết, thỏa
thuận và thực hiện những quyền nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự. Tuy nhiên do
tính chất phong phú, đa dạng của giao dịch dân sự cũng như vài lý do khách quan, chủ
quan của chủ thể quan hệ pháp luật dân sự mà trong những trường hợp nhất định chủ
thể xác lập thực hiện giao dịch dân sự cần có sự giúp đỡ của người khác, phải thông
qua hành vi của một người khác. Vì thế để đảm bảo cho mọi chủ thể có thể tham gia
quan hệ pháp luật dân sự và khắc phục điều trên mà chế độ đại diện đã ra đời. Nội
dung của chế độ đại diện đã được quy định chi tiết trong Bộ Luật Dân sự năm 2015.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập, để đáp ứng nhu cầu giao


lưu dân sự, phát triển kinh tế, hợp tác quốc tế,… pháp luật Việt Nam và các nước trên
thế giới đã thừa nhận quyền tự do xác lập và thực hiện giao dịch thông qua người khác.
Đây là điểm tiến bộ mà nhiều nước trên thế giới đã công nhận từ lâu. Điều này được
thể hiện trong việc ghi nhận chế định đại diện trong luật ở các nước như Điều 164 Bộ
luật dân sự Đức, Điều 1984 Bộ luật dân sự Pháp năm 1804, Điều 797 Bộ luật dân sự
và thương mại Thái Lan.
Ở nước ta hiện nay, thì điểm tích cực này được ghi nhận trong luật Thương mại,
luật Tố tụng dân sự, luật Hôn nhân và gia đình, nhưng được quy định chung và cụ thể
nhất trong Bộ luật dân sự 2015. Việc ghi nhận quy định pháp luật về đại diện trong Bộ
luật dân sự 2015 đã đảm bảo được quyền tự do ý chí, tự do thỏa thuận của các chủ thể
trong hoạt động pháp lý đời sống dân sự, góp phần thúc đẩy sự phát triển của giao lưu
dân sự, giao kết trong hoạt động thương mại, giúp cho cơ quan nhà nước có thẩm
quyền dễ dàng hơn trong việc xử lý các vụ việc có liên quan đến những chủ thể là đối
tượng không có đầy đủ năng lực pháp lý và các vụ việc có yếu tố thay thế nhau trong
việc xác lập, thực hiện các giao dịch pháp lý dân sự, thương mại... Đồng thời tầm quan
trọng của chế định đại diện còn được thể hiện trong các quy định về việc đại diện cho
người không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho
những đối tượng này.
3. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
* Mục đích
Việc lựa chọn nghiên cứu về chế định đại diện trong quan hệ pháp luật dân sự
Việt Nam (BLDS) hiện hành nhằm mục đích:
- Phân tích và nêu lên một cách khái quát cơ sở lý luận về chế định đại diện,
phạm vi đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.


- Phân tích điểm mới về đại diện và phạm vi đại diện trong Bộ Luật Dân sự năm
2015 so với Bộ Luật Dân sự năm 2005.
* Ý nghĩa
Nghiên cứu đề án môn học này giúp cho chúng ta hiểu được những quy định của

pháp luật về đại diện và phạm vi đại diện, vận dụng cơ chế đại diện, tức là việc một
người nhân danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện giao dịch với người
thứ ba. Khi giao dịch được xác lập, thực hiện phù hợp với phạm vi đại diện thì người
được đại diện chịu sự ràng buộc của giao dịch. Ngược lại, nếu giao dịch được xác lập,
thực hiện ngoài phạm vi đại diện thì, về nguyên tắc, người được đại diện không chịu
ràng buộc bởi giao dịch được xác lập, thực hiện trên danh nghĩa của họ. Chính vì vậy,
việc xác định phạm vi đại diện của người đại diện rất quan trọng trong thực tế đời
sống.
Đề tài này cũng giúp cho chúng ta hiểu được đại diện và phạm vi đại diện cần
được ghi nhận và thể hiện một cách nhất quán trong các quy định liên quan.
4. Đối tượng nghiên cứu và phương nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về chế định đại diện trong luật dân sự là đi phân tích những điều luật
quy định về hoạt động đại diện, những trường hợp cụ thể cần và có thể áp dụng chế
định đại diện. Đi phân tích vai trò của chế định đại diện vào đời sống dân sự, qua đó có
thể so sánh để tìm ra sự khác biệt giữa chế định đại diện trong quan hệ dân sự so với
quy định về đại diện trong các ngành luật khác như đại diện trong thương mại hay đại
diện trong tố tụng.
* Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về pháp luật. Đặc
biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đại diện trong đời sống dân sự trong
thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập.
Để đề tài được hoàn thành người viết đã dựa trên một số phương pháp khoa học
chuyên ngành như: phương pháp phân tích luật viết, phương pháp logic, phương pháp
so sánh, đối chiếu tham khảo từ sách báo, tạp chí, thu thập, tổng hợp tài liệu…
5. Phạm vi nghiên cứu
Trước hết phải nói rằng, chế định đại diện là một hiện tượng pháp lý thông dụng
luôn diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội, đồng thời đây là vấn đề rất đa dạng đan
xen với nhiều ngành luật khác nhau. Bởi vậy, Đề tài không thể giải quyết được một

cách toàn diện các nội dung về lý luận và vấn đề đặt ra từ thực tiễn, đề tài: “Khái niệm
đại diện và phạm vi đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành- những
nét mới” bài tiểu luận chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về chế
định đại diện; khái quát những nét chính về chế định đại diện mà pháp luật quy định


trong Bộ luật dân 2015, nêu lên những điểm mới về đại diện và phạm vi đại diện trong
Bộ Luật Dân sự năm 2015.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu đề tài nghiên cứu được chia làm 02 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về đại diện và phạm vi đại diện
Chương 2: Điểm mới về đại diện và phạm vi đại diện trong Bộ Luật Dân sự năm
2015.


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẠI DIỆN VÀ
PHẠM VI ĐẠI DIỆN
1.1 KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM QUAN HỆ ĐẠI DIỆN
1.1.1. Khái niệm đại diện
Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015, đại diện là việc cá nhân, pháp
nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc
pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự.
Như vậy, đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự bao gồm hai bên chủ thể là
bên đại diện và bên được đại diện. Quan hệ đại diện làm phát sinh mối quan hệ nữa là
quan hệ giữa người đại diện với người thứ ba, theo ý chí và vì lợi ích của người được
đại diện. Tất cả các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự (cá nhân, pháp nhân, tổ hợp
tác, nhà nước) đều có quyền được có người đại diện cho mình trong việc xác lập, thực
hiện các giao dịch dân sự nhằm phục vụ cho quyền và lợi ích của mình. Tuy nhiên, cá

nhân không được người khác đại diện cho mình nếu pháp luật quy định phải tự mình
xác lập thực hiện giao dịch đó. Ví dụ: pháp luật không công nhận một cá nhân ủy
quyền cho người khác thay mình làm thủ tục ly hôn, kết hôn, hay lập di chúc, làm
chứng minh nhân dân… (Các công việc có liên quan tới yếu tố nhân thân).
1.1.2. Đặc điểm của quan hệ đại diện
- Tồn tại cùng lúc nhiều mối quan hệ pháp luật.
- Người đại diện nhân danh người được đại diện xác lập, thực hiện các giao dịch
dân sự “vì lợi ích của người được đại diện”.
- Người đại diện xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ cho người được đại diện.
Đại diện làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại song song đó là quan hệ bên
trong và quan hệ bên ngoài. Quan hệ bên trong là quan hệ giữa người đại diện và
người được đại diện, quan hệ bên ngoài là mối quan hệ giữa những người đại diện và
người thứ ba. Ngoài ra, còn có một mối quan hệ về lợi ích và trách nhiệm giữa người
được đại diện và người thứ ba (còn gọi là mối quan hệ gián tiếp).
Người đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba là nhân danh người được đại
diện chứ không phải là nhân danh chính họ. Do vậy người đại diện phải giới thiệu tư
cách pháp lý của mình với người thứ ba để người này hiểu được hai vấn đề trước khi
xác lập giao dịch đó là:
Thứ nhất, ai là người trao đổi lợi ích hay chịu trách nhiệm về hậu quả của giao
dịch với họ.
Thứ hai là thẩm quyền của người đại diện đến đâu và đưa ra cơ sở chứng minh
như hợp đồng ủy quyền hay các bằng chứng khác.v.v…


Mục đích người đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba là vì lợi ích của người
được đại diện. Lợi ích và quyền lợi trong quan hệ với người thứ ba được chuyển cho
người được đại diện. Trong quan hệ đại diện theo ủy quyền, người đại diện có thể
được hưởng thù lao, tiền công theo thỏa thuận. Còn với đại diện theo pháp luật thì chỉ
có nghĩa vụ theo pháp luật chứ người đại diện không được hưởng lợi ích vật chất cụ

thể từ quan hệ này. Người đại diện là nhân danh người được đại diện và thẩm quyền
của họ bị giới hạn trong phạm vi đại diện theo thỏa thuận hay theo quy định của pháp
luật nhưng họ vẫn có sự chủ động trong khi tiến hành công việc cần thiết để đạt được
mục đích là vì lợi của người được đại diện.
1.1.3. Phân biệt người đại diện với một số chủ thể khác tương tự
Điểm đặc biệt của đại diện là giao dịch dân sự do cá nhân, pháp nhân (gọi là
người đại diện) xác lập trong phạm vi đại diện làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
các quyền, nghĩa vụ dân sự của người khác (gọi là người đại diện). Chính điều đó là cơ
sở phân biệt chế định đại diện với các chế định pháp lý tương tự khác.
Khác với người đại diện, người nhận bán hàng ký gửi, đại lý dù xác lập giao dịch cho
người ký gửi, người đại lý nhưng nhân danh mình, không phải nhân danh người ký
gửi, người đại lý. Vì vậy, giữa người ký gửi, người đại lý và người mua không có quan
hệ pháp lý. Mọi quyền, nghĩa vụ dân sự trong loại hợp đồng này đều chỉ phát sinh đối
với người nhận ký gửi, nhận đại lý và người mua.
Khác với đại diện, người đưa tin không xác lập giao dịch mà chỉ truyền đạt ý chí
của một bên đến đối tác.
Nếu không có hợp đồng ủy quyền thì bản thân việc tư vấn ký kết hợp đồng
không phải là đại diện. Người thực hiện dịch vụ tư vấn chỉ hỗ trợ về mặt pháp lý để
hợp đồng do các bên ký kết đúng pháp luật, thể hiện đúng ý chí đích thực của các bên.
1.2 ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH QUAN HỆ ĐẠI DIỆN VÀ CHỦ THỂ CẦN ĐẠI
DIỆN
1.2.1. Điều kiện hình thành quan hệ đại diện
Thứ nhất, Người đại diện nếu là cá nhân - phải là người có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ. Người đại diện là tổ chức thì phải có năng lực pháp luật dân sự.
Thứ hai, người đại diện phải thực hiện các hành vi đại diện nhân danh người
được đại diện.
Thứ ba, việc đại diện phải được thực hiện trong phạm vi đại diện và vì lợi ích
của người được đại diện.
1.2.2. Các chủ thể cần có người đại diện
Người đại diện theo pháp luật theo Điều 141 quy định bao gồm:

- Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
- Người giám hộ đối với người được giám hộ.
- Người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.


- Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình.
- Tổ trưởng tổ hợp tác đối với hộ gia đình.
- Những người khác theo quy định của pháp luật.
Về điều kiện đối với người đại diện và người được đại diện:
Người được đại diện nếu là cá nhân thì phải là người không có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, người mắc bệnh tâm thần hoăc bệnh khác mà không nhận thức và làm
chủ hành vi của mình, người bị Tòa án ra quyết định hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Đây là những đối tượng mà bản thân họ không thể trực tiếp tham gia vào bất kỳ giao
dịch nào nên pháp luật quy định sẵn những chủ thể có nghĩa vụ bảo về quyền lợi của
họ trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự. Các chủ thể còn lại là một tổ
chức nên khi tham gia vào các giao dịch dân sự bắt buộc phải thông qua người đại diện
cụ thể.
Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Và để nhận biết quan hệ
đại diện theo pháp luật phải dựa vào các căn cứ:
- Đối với con chưa thành niên căn cứ vào giấy khai sinh
- Đối với người được giám hộ căn cứ vào xác nhận của Ủy ban nhân dân xã,
phường nơi người giám hộ cư trú
- Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự căn cứ vào quyết định của
Tòa án khi tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Đối với pháp nhân căn cứ vào Đăng ký kinh doanh, Điều lệ hay Quyết định
thành lập pháp nhân.
- Đối với hộ gia định căn cứ vào Sổ hộ khẩu
- Đối với tổ hợp tác căn cứ vào hợp đồng hợp tác có xác nhận của Ủy ban nhân

dân xã, phường.
Điều kiện của chủ thể tham gia quan hệ đại diện theo ủy quyền: hai bên chủ thể
của quan hệ đại diện theo ủy quyền đều phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 Bộ luật dân sự 2005: “Người từ đủ 15 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật
quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ 18 tuổi trở lên xác lập, thực hiện”.
Đại diện theo ủy quyền có hai loại: đại diện theo ủy quyền của cá nhân và đại
diện theo ủy quyền của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác.
- Đối với đại diện theo ủy quyền của cá nhân thì trong trường hợp vì lý do chủ
quan hay khách quan, cá nhân có thể thông qua một cá nhân khác hoặc một pháp nhân
để đại diện cho họ xác lập các giao dịch dân sự.
1.3 PHÂN LOẠI ĐẠI DIỆN
1.3.1. Đại diện theo pháp luật


Theo Điều 140 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Đại diện theo pháp luật là đại
diện do pháp luật quy định hoặc do cơ quan nhà nước quyết định”
Căn cứ hình thành: Do ý chí của nhà nước. Pháp luật quy định mối quan hệ đại
diện được xác lập dựa trên các mối quan hệ tồn tại sẵn có chứ không phụ thuộc vào ý
chí hay sự định đoạt của các chủ thể.
Người đại diện theo pháp luật theo Điều 141 quy định bao gồm:
- Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
- Người giám hộ đối với người được giám hộ.
- Người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình.
- Tổ trưởng tổ hợp tác đối với hộ gia đình.
- Những người khác theo quy định của pháp luật.
a. Đại diện theo pháp luật của cá nhân

- Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
- Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa
án chỉ định.
- Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại
diện quy định tại khoản 1 và khoản 2 ở trên.
- Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
b. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân
- Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:
+ Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;
+ Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;
+ Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
- Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại
diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ
luật này.
1.3.2. Đại diện theo ủy quyền
Khoản 1 Điều 142 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Đại diện theo ủy quyền là đại
diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện”
Căn cứ xác lập: dựa trên ý chí của hai bên chủ thể, người đại diện và người được
đại diện tự thỏa thuận với nhau về nội dung ủy quyền, phạm vi thẩm quyền đại diện và
trách nhiệm của người đại diện theo ủy quyền.
- Cá nhân, pháp nhân có thể uỷ quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự.


- Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp
nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình,
tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện

theo uỷ quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ
mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.
1.4. PHẠM VI ĐẠI DIỆN
1.4.1. Khái niệm phạm vi đại diện
Người đại diện thực hiện hành vi nhân danh người được đại diện, bởi vậy cần
phải có một giới hạn nhất định cho hành vi đó. Giới hạn này chính là phạm vi đại diện.
Vì vậy, phạm vi đại diện là giới hạn quyền và nghĩa vụ của người đại diện trong việc
nhân danh người được đại diện xác lập và thực hiện giao dịch dân sự với người thứ ba.
Trong giao dịch dân sự, chúng ta thường xuyên phải vận dụng cơ chế đại diện,
tức là việc một người nhân danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện giao
dịch với người thứ ba. Khi giao dịch được xác lập, thực hiện phù hợp với phạm vi đại
diện thì người được đại diện chịu sự ràng buộc của giao dịch. Ngược lại, nếu giao dịch
được xác lập, thực hiện ngoài phạm vi đại diện thì, về nguyên tắc, người được đại diện
không chịu ràng buộc bởi giao dịch được xác lập, thực hiện trên danh nghĩa của họ.
Chính vì vậy, việc xác định phạm vi đại diện của người đại diện rất quan trọng trong
thực tế đời sống.
1.4.2. Phạm vi đại diện
- Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại
diện theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo Điều lệ của pháp nhân, theo nội
dung ủy quyền hoặc các quy định khác của pháp luật. Trường hợp không xác định
được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định thì người đại diện theo pháp luật có quyền
xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác
nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của
người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Người đại diện phải thông báo
cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình (Căn cứ Điều 141, BLDS 2015)
- Trường hợp không được thực hiện giao dịch thông qua người đại diện: Lĩnh
vực giao dịch được phép đại diện rất rộng rãi. Tuy nhiên, nếu tính chất của giao dịch

chỉ cho phép tự mỗi cá nhân thể hiện ý chí, tự mình bày tỏ ý chí thì không được xác
lập giao dịch thong qua đại diện, chẳng hạn: hành vi lập di chúc, ủy quyền… Trong
các lĩnh vực có tính chất tương tự pháp luật dân sự thì việc ký kết hợp đồng lao động


của vị thành niên cũng không thể bỏ qua người đại diện. Việc kết hôn, li hôn, nhận con
nuôi cũng phải do các bên tự thực hiện với sự công nhận của cơ quan nhà nước. Ngoại
trừ việc đại diện giải quyết vấn đề tài sản chung của vợ chồng.
1.4.3. Các trường hợp vượt quá thẩm quyền và không có quyền đại diện
Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện chỉ làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của người được đại diện trong phạm vi đại diện. Còn đối với trường hợp giao
dịch dân sự do người không có thẩm quyền đại diện hoặc vượt quá phạm vị thẩm
quyền đại diện thì hậu quả pháp lý của nó được quy định tại Điều 142 và Điều 143
BLDS 2015.
Giao dịch dân sự do người không có thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện trừ trường hợp
người đại diện hoặc người được đại diện đồng ý. Người đã giao dịch với người không
có quyền đại diện phải thông báo cho người được đại diện hoặc người đại diện của
người đó để trả lời trong thời gian ấn định. Nếu hết thời gian này mà không trả lời thì
giao dịch đó không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện.
Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch
được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý
hoặc biết mà không phản đối thì giao dịch đó vẫn có giá trị đối với người được đại
diện. Đối với người đã giao dịch với người đại diện, nếu họ không biết về việc vượt
quá phạm vi đại diện thì có quyền hoặc yêu cầu người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ
về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện
hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ
giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Còn trường hợp người đã giao dịch
với người đại diện biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi thẩm quyền mà vẫn

xác lập giao dịch thì giao dịch đó là vô hiệu. Trường hợp người đại diện và người giao
dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại
diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi
thường thiệt hại.
1.4.4. Chấm dứt đại diện
Đại diện theo ủy quyền chấm dứt trong trường hợp sau đây:
+ Theo thỏa thuận;
+ Thời hạn ủy quyền đã hết;
+ Công việc được uỷ quyền đã hoàn thành;
+ Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc
ủy quyền;
+ Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện,
người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;


+ Người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của Bộ
luật này;
+ Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.
- Đại diện theo pháp luật chấm dứt trong trường hợp sau đây:
+ Người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã
được khôi phục;
+ Người được đại diện là cá nhân chết;
+ Người được đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;
+ Căn cứ khác theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.


CHƯƠNG 2: ĐIỂM MỚI VỀ ĐẠI DIỆN VÀ PHẠM VI ĐẠI DIỆN
TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
Bộ luật dân sự năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2017, thay thế Bộ luật

dân sự năm 2005. Để quy định về đại diện bảo đảm phù hợp hơn với thực tiễn giao lưu
dân sự; phát huy cao nhất vai trò, trách nhiệm của người đại diện; quyền, lợi ích của
người được đại diện và người thứ ba, Bộ luật sửa đổi, bổ sung một số nội dung cơ bản
về khái niệm đại diện, căn cứ xác lập quyền đại diện, đại diện theo pháp luật, đại diện
theo ủy quyền, hậu quả pháp lý của hành vi đại diện, thời hạn đại diện, phạm vi đại
diện, hậu quả của giao dịch dân sự do người không có thẩm quyền đại diện xác lập,
thực hiện.
2.1. ĐIỂM MỚI CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẠI DIỆN TRONG BỘ LUẬT DÂN
SỰ 2015
2.1.1. Điểm mới về chủ thể của quan hệ đại diện trong Bộ luật Dân sự 2015
Thứ nhất, tại Khoản 1 Điều 134 BLDS năm 2015 quy định: Đại diện là việc cá
nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá
nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự. Với quy định này không chỉ có cá nhân mà pháp nhân cũng có
thể là người đại cho cá nhân hay một pháp nhân. Một pháp nhân hoàn toàn có thể ủy
quyền cho một pháp nhân khác nhân danh mình tham gia vào một quan hệ pháp luật
nhất định mà hợp đồng ủy quyền đó là hợp pháp. Đây là một điểm mới về người đại
diện so với LBSD 2005. Theo Điều 139 BLDS 2005 thì người được đại diện chỉ có thể
là cá nhân mà không thể là pháp nhân, theo đó cá nhân chỉ có thể ủy quyền cho cá
nhân và pháp nhân chỉ có thể ủy quyền cho cá nhân mà không cho phép pháp nhân ủy
quyền cho một pháp nhân khác đại diện mình tham gia một quan hệ pháp luật.
Khoản 2 Điều 134 BLDS 2015 đã quy định: Cá nhân, pháp nhân có thể xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự thông qua người đại diện. Như vậy, BLDS 2015 đã bãi bỏ
cụm từ “chủ thể khác” trong BLDS 2005. Việc xác lập và thực hiện giao dịch dân sự
thông qua người đại diện chỉ có cá nhân và pháp nhân mới được xác lập giao dịch
thông qua người đại diện còn các chủ thế khác theo quy định của BLDS thì không có
quyền này.
Đây là một điểm tiến bộ đáng ghi nhận so với quy định cũ. Bộ luật Dân sự 2005
dường như chỉ cho phép cá nhân là người đại diện cho cá nhân hay pháp nhân khác.
Để tránh việc trái với quy định của bộ luật gốc này, một số văn bản pháp luật chuyên

ngành (chẳng hạn về giao dịch bảo đảm hay chứng khoán) chỉ công nhận một cách dè
dặt hoặc hàm ý khả năng một pháp nhân có thể đại diện cho một pháp nhân khác trong
việc thực hiện một số giao dịch cụ thể. Điều này là một rào cản pháp lý vô hình trong
khá nhiều trường hợp.


Thứ hai, pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật:
Tại BLDS 2015 đã tách riêng quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân và
đại diện theo pháp luật của pháp nhân, quy định tại 2 khoản của một điều luật. Người
đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định tại Điều 137 BLDS năm 2015
gồm: Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; Người có thẩm quyền đại diện theo
quy định của pháp luật; Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
Theo đó, quy định cụ thể và rõ ràng hơn trong từng trường hợp so với quy định trước
đây của BLDS 2005.
Khoản 2 Điều 137 quy định: Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo
pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại
Điều 140, Điều 141 của Bộ luật này. Việc quy định cho phép một pháp nhân có thể có
nhiều người đại diện theo pháp luật của BLDS 2015 đã bảo đảm sự tương thích với
quy định của Luật doanh nghiệp 2014 trong việc quy định Công ty trách nhiệm hữu
hạn và Công ty cổ phần “có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật”.
2.1.2. Điểm mới về phân loại đại diện trong Bộ luật Dân sự 2015
2.1.2.1. Bộ luật Dân sự 2015 tách riêng quy định về đại diện theo pháp luật
của cá nhân và đại diện theo pháp luật của pháp nhân
* Đại diện theo pháp luật của cá nhân:
+ Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
+ Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa
án chỉ định.
+ Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại
diện quy định trên.

+ Người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế NLHVDS.
* Đại diện theo pháp luật của pháp nhân
+ Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ.
+ Người có thẩm quyền đại diện theo quy định pháp luật.
+ Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại
diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định về thời hạn đại diện và phạm vi
đại diện (Căn cứ Điều 136, 137 Bộ luật dân sự 2015)
2.1.2.2. Đại diện theo ủy quyền
Thêm quy định sau bên cạnh các quy định đã được nêu tại BLDS 2005:
Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực
hiện GDDS liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ
chức khác không có tư cách pháp nhân (Căn cứ Điều 138 Bộ luật dân sự 2015)


2.2. ĐIỂM MỚI CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHẠM VI ĐẠI DIỆN TRONG BỘ
LUẬT DÂN SỰ 2015.
2.2.1. Điểm mới về phạm vi đại diện trong Bộ luật Dân sự 2015
Bộ luật Dân sự 2015 bổ sung quy định cụ thể về thời hạn đại diện mà Bộ luật
dân sự 2005 không quy định. Cụ thể khoản 1 Điều 140 BLDS 2015 quy định: Thời
hạn đại diện được xác định theo văn bản ủy quyền, theo quyết định của cơ quan có
thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật.
Từ đó có thể thấy, người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau: Quyết định của cơ quan có thẩm quyền; điều
lệ của pháp nhân; nội dung ủy quyền; quy định khác của pháp luật. Cụ thể: Nếu quyền
đại diện được xác định theo giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện được tính đến
thời điểm chấm dứt giao dịch dân sự đó. Nếu quyền đại diện không được xác định với
giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện là 01 năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền
đại diện. Với những quy định trên giúp người đại diện biết rõ được thời hạn đại diện

của mình khi tham gia đại diện cho bên ủy quyền hay bên được đại diện kí kết và thực
hiện các giao dịch.
Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định nêu trên
thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì
lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác
nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện GDDS
với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác (Đây là quy định mới quan trọng của BLDS
2015).
Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của
mình.
2.2.2. Điểm mới của quy định về trường hợp không có quyền đại diện và
vượt quá phạm vi đại diện
* Về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác
lập, thực hiện:
BLDS 2015 quy định thêm điều khoản loại trừ đối với trường hợp giao dịch dân
sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ một trong các trường hợp sau: Người được
đại diện đã công nhận giao dịch; người được đại diện biết mà không phản đối trong
một thời hạn hợp lý; người được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không
biết hoặc không thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình
không có quyền đại diện.


Trường hợp giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực
hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện thì người không
có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình, trừ
trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà
vẫn giao dịch.

Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền đơn phương
chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và yêu cầu bồi thường
thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện
mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp loại trừ nêu trên.
Trường hợp người không có quyền đại diện và người đã giao dịch cố ý xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách
nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại (Căn sư Điều 142, BLDS 2015).
* Về hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt
quá phạm vi đại diện:
BLDS 2015, quy định thêm điều khoản loại trừ trong trường hợp giao dịch dân
sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt
quá phạm vi đại diện, trừ các trường hợp sau: Người được đại diện đồng ý; người được
đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; người được đại diện có lỗi
dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về việc người đã xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình vượt quá phạm vi đại diện.
BLDS 2015 bổ sung thêm quy định sau: Trường hợp giao dịch dân sự do người
đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt
quá phạm vi đại diện thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao
dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người đã
giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp mới, công ty trách nhiệm hữu hạn và
công ty cổ phần có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật với điều kiện điều lệ
công ty phải quy định cụ thể số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của từng
người đại diện theo pháp luật đó. Tuy nhiên, văn bản này chưa giải quyết một cách rõ
ràng vấn đề bảo vệ người thứ ba trong các giao dịch do một trong số những người đại
diện theo pháp luật này xác lập hợp đồng vượt quá phạm vi đại diện của mình.
Điều 137 và 141 của Bộ luật Dân sự mới đi theo hướng phạm vi đại diện của
từng người đại diện theo pháp luật được nêu trong điều lệ của công ty và nếu không

xác định được cụ thể phạm vi đại diện trên cơ sở xem xét điều lệ thì người đại diện
theo pháp luật được xem là có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích


của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Người đại diện
phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình.
Như vậy, do không phải lúc nào cũng có thể tin tưởng vào sự ngay tình của
người đại diện theo pháp luật nên muốn biết được người đại diện theo pháp luật của
bên kia giao dịch ký hợp đồng với mình thực sự có thẩm quyền đại diện hay không thì
phải kiểm tra điều lệ của công ty đối tác và nếu điều lệ này không quy định về việc
phân chia thẩm quyền giữa những người đại diện theo pháp luật thì bất cứ người đại
diện theo pháp luật nào ký kết, xác lập hợp đồng thì cũng đều ràng buộc trách nhiệm
của công ty đối tác này.
Tuy nhiên thực tế cho thấy không dễ có được điều lệ cập nhật của một công ty,
và bên muốn giao dịch bị tuyên vô hiệu có thể tìm cách thay đổi thẩm quyền của người
đại diện theo pháp luật trong điều lệ. Cách tiếp cận của Bộ luật Dân sự do đó khá dè
dặt và chưa thực sự bảo vệ các bên thứ ba ngay tình.
Về điểm này, pháp luật của Anh quy định vì lợi ích của mọi bên thứ ba giao dịch
với một công ty một cách ngay tình, quyền hạn của các giám đốc (người đại diện)
được nhân danh công ty (hoặc ủy quyền lại cho người khác hành động nhân danh công
ty) được coi như không chịu bất cứ giới hạn nào theo các văn bản nội bộ của công ty.
Nói cách khác, một bên giao dịch với công ty không có nghĩa vụ phải tìm hiểu việc
giới hạn thẩm quyền của người đại diện trong điều lệ và được coi là hành động ngay
tình trừ khi công ty có thể chứng minh được điều ngược lại. Rất tiếc là một cách tiếp
cận như thế chưa được đưa vào trong Luật Doanh nghiệp hay Bộ luật Dân sự mới.
Cần lưu ý, theo quy định tại điều 142, Bộ luật Dân sự mới giao dịch do người
không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối
với người được đại diện, trừ khi người được đại diện đã công nhận giao dịch, hoặc
người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý; hoặc người
được đại diện có lỗi dẫn đến việc người đã giao dịch không biết hoặc không thể biết về

việc người đã xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện.
Muốn cứu vãn được giao dịch do một người đại diện theo pháp luật không có thẩm
quyền xác lập, bên đối tác của doanh nghiệp phải chứng minh được sự tồn tại của một
trong những hành vi của doanh nghiệp này nêu trên và việc này không hề dễ dàng
trong thực tế (Căn sư Điều 143, BLDS 2015).


KẾT LUẬN
Trong đời sống hiện nay cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội và các mối
quan hệ giao lưu dân sự, quan hệ đại diện được xác lập ngày càng nhiều. Vì vậy có thể
thấy rằng đại diện là một chế định quan trọng của Bộ luật Dân sự. Bộ luật đã sửa đổi,
bổ sung một số nội dung cơ bản về khái niệm, căn cứ xác lập quyền đại diện, đại diện
theo pháp luật, đại diện theo ủy quyền, hậu quả pháp lý của hành vi đại diện, thời hạn
đại diện, phạm vi đại diện, hậu quả của giao dịch dân sự do người không có thẩm
quyền đại diện xác lập, thực hiện; thông qua đó các chủ thể có thể thực hiện được tất
cả các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách linh hoạt và hiệu quả nhất. Đây
cũng là một công cụ pháp lý hữu hiệu để Nhà nước kiểm soát quan hệ đại diện theo
một trật tự chung . Tuy nhiên để vận dụng được trong thực tế cần đòi hỏi các chủ thể
phải nắm rõ các quy định của pháp luật cũng như có ý thức trong việc thực hiện.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ luật Dân sự năm 2005;
[2] Bộ luật Dân sự năm 2015;
[3] Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 - NXB Hồng Đức,
PGS. TS Đỗ Văn Đại (Chủ biên);
[4] Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư
pháp, PGS.TS Hoàng Thế Liên (Chủ biên)
[5] />[6] />[7] />[8] />


PHỤ LỤC SO SÁNH BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 VÀ BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
VỀ ĐẠI DIỆN VÀ PHẠM VI ĐẠI DIỆN
BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
CHƯƠNG VII
ĐẠI DIỆN
Điều 139. Đại diện
1. Đại diện là việc một người (sau đây gọi là
người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của
người khác (sau đây gọi là người được đại
diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
trong phạm vi đại diện.
2. Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có thể
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thông
qua người đại diện. Cá nhân không được để
người khác đại diện cho mình nếu pháp luật
quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện
giao dịch đó.
3. Quan hệ đại diện được xác lập theo pháp
luật hoặc theo uỷ quyền.
4. Người được đại diện có quyền, nghĩa vụ
phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại
diện xác lập.
5. Người đại diện phải có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 143 của Bộ luật này.

Điều 140. Đại diện theo pháp luật
Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp
luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định.

Điều 141. Người đại diện theo pháp luật
Người đại diện theo pháp luật bao gồm:
1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
2. Người giám hộ đối với người được giám
hộ;
3. Người được Toà án chỉ định đối với
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
4. Người đứng đầu pháp nhân theo quy định
của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
5. Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình;
6. Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác;
7. Những người khác theo quy định của
pháp luật.

BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
CHƯƠNG VI
ĐẠI DIỆN
Điều 134. Đại diện
1. Đại diện là việc một cá nhân hoặc pháp
nhân (sau đây gọi là người đại diện) nhân
danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp
nhân khác (sau đây gọi là người được đại
diện) xác lập, thực hiện hành vi pháp lý.
2. Cá nhân, pháp nhân có quyền xác lập, thực
hiện hành vi pháp lý thông qua người đại
diện, trừ trường hợp theo luật định cá nhân
phải tự mình xác lập, thực hiện hành vi pháp
lý.
3. Trong trường hợp pháp luật quy định thì

người đại diện phải có năng lực pháp luật và
năng lực hành vi phù hợp với hành vi pháp lý
được xác lập, thực hiện.

Điều 135. Căn cứ xác lập quyền đại diện
Quyền đại diện được xác lập theo hợp đồng
ủy quyền giữa người được đại diện và người
đại diện hoặc theo quy định của pháp luật.
Điều 136. Đại diện theo pháp luật
Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp
luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định.
Điều 137. Người đại diện theo pháp luật
Người đại diện theo pháp luật bao gồm:
1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
2. Người giám hộ đối với người được giám
hộ;
3. Người đứng đầu pháp nhân hoặc người có
quyền đại diện cho pháp nhân được quy định
trong điều lệ, trong quyết định của cơ quan
có thẩm quyền hoặc do luật quy định;
4. Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình;
5. Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác.


Điều 142. Đại diện theo uỷ quyền
1. Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được
xác lập theo sự uỷ quyền giữa người đại
diện và người được đại diện.
2. Hình thức uỷ quyền do các bên thoả

thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định
việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản.
Điều 143. Người đại diện theo uỷ quyền
1. Cá nhân, người đại diện theo pháp luật
của pháp nhân có thể uỷ quyền cho người
khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ
mười tám tuổi có thể là người đại diện theo
uỷ quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định
giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười
tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.

Điều 138. Đại diện theo uỷ quyền
Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được xác
lập theo sự uỷ quyền giữa người đại diện và
người được đại diện.

Điều 142. Người đại diện theo uỷ quyền
1. Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác
xác lập, thực hiện hành vi pháp lý.
2. Thành viên của hộ gia đình, thành viên
hợp đồng hợp tác có thể cử người khác đại
diện theo ủy quyền trong xác lập, thực hiện
hành vi pháp lý của hộ gia đình hoặc trong
thực hiện hợp đồng hợp tác.
Điều 143. Hậu quả pháp lý của hành vi đại
diện
1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác
lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với

phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa
vụ đối với người được đại diện.
2. Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện
hành vi cần thiết để đạt được mục đích của
việc đại diện.
3. Trường hợp người đại diện biết hoặc phải
biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị
nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà
vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì không làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được
đại diện, trừ trường hợp người được đại diện
biết hoặc phải biết về việc này mà không
phản đối.
Điều 140. Thời hạn đại diện
1. Thời hạn đại diện được xác định theo văn
bản ủy quyền, theo quyết định của cơ quan
có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân
hoặc theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp không xác định được thời hạn
đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này
thì thời hạn đại diện được xác định như sau:
a) Nếu quyền đại diện được xác định theo
giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại diện
được tính đến thời điểm chấm dứt giao dịch
dân sự đó;
b) Nếu quyền đại diện không được xác định
với giao dịch dân sự cụ thể thì thời hạn đại
diện là 01 năm, kể từ thời điểm phát sinh
quyền đại diện.



Điều 144. Phạm vi đại diện
1. Người đại diện theo pháp luật có quyền
xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì
lợi ích của người được đại diện, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
2. Phạm vi đại diện theo uỷ quyền được xác
lập theo sự uỷ quyền.
3. Người đại diện chỉ được thực hiện giao
dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
4. Người đại diện phải thông báo cho người
thứ ba trong giao dịch dân sự biết về phạm
vi đại diện của mình.
5. Người đại diện không được xác lập, thực
hiện các giao dịch dân sự với chính mình
hoặc với người thứ ba mà mình cũng là
người đại diện của người đó, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.

3. Đại diện theo ủy quyền chấm dứt trong
trường hợp sau đây:
a) Theo thỏa thuận;
b) Thời hạn ủy quyền đã hết;
c) Công việc được ủy quyền đã hoàn thành;
d) Người được đại diện hoặc người đại diện
đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy
quyền;
đ) Người được đại diện, người đại diện là cá
nhân chết; người được đại diện, người đại
diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;

e) Người đại diện không còn đủ điều kiện
quy định tại khoản 3 Điều 134 của Bộ luật
này;
g) Căn cứ khác làm cho việc đại diện không
thể thực hiện được.
4. Đại diện theo pháp luật chấm dứt trong
trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện là cá nhân đã thành
niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã được
khôi phục;
b) Người được đại diện là cá nhân chết;
c) Người được đại diện là pháp nhân chấm
dứt tồn tại;
d) Căn cứ khác theo quy định của Bộ luật
này hoặc luật khác có liên quan.
Điều 141. Phạm vi quyền đại diện
1. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo
căn cứ sau đây:
a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
b) Điều lệ của pháp nhân;
c) Nội dung ủy quyền;
d) Quy định khác của pháp luật.
2. Trường hợp không xác định được cụ thể
phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1
Điều này thì người đại diện theo pháp luật có
quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân
sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện

cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau
nhưng không được nhân danh người được đại
diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình
cũng là người đại diện của người đó, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Người đại diện phải thông báo cho bên
giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình.


Điều 145. Hậu quả của giao dịch dân sự
do người không có quyền đại diện xác
lập, thực hiện
1. Giao dịch dân sự do người không có
quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm
phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người
được đại diện, trừ trường hợp người đại
diện hoặc người được đại diện đồng ý.
Người đã giao dịch với người không có
quyền đại diện phải thông báo cho người
được đại diện hoặc người đại diện của
người đó để trả lời trong thời hạn ấn định;
nếu hết thời hạn này mà không trả lời thì
giao dịch đó không làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ đối với người được đại diện,
nhưng người không có quyền đại diện vẫn
phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã
giao dịch với mình, trừ trường hợp người đã
giao dịch biết hoặc phải biết về việc không
có quyền đại diện.

2. Người đã giao dịch với người không có
quyền đại diện có quyền đơn phương chấm
dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự
đã xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại,
trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết
về việc không có quyền đại diện mà vẫn
giao dịch.

Điều 146. Hậu quả của giao dịch dân sự
do người đại diện xác lập, thực hiện vượt
quá phạm vi đại diện
1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác
lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của
người được đại diện đối với phần giao dịch
được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện,
trừ trường hợp người được đại diện đồng ý
hoặc biết mà không phản đối; nếu không
được sự đồng ý thì người đại diện phải thực

Điều 142. Hậu quả của hành vi pháp lý do
người không có quyền đại diện xác lập,
thực hiện đối với người được đại diện
1. Giao dịch dân sự do người không có quyền
đại diện xác lập, thực hiện không làm phát
sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại
diện, trừ một trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đã công nhận giao
dịch;
b) Người được đại diện biết mà không phản

đối trong một thời hạn hợp lý;
c) Người được đại diện có lỗi dẫn đến việc
người đã giao dịch không biết hoặc không
thể biết về việc người đã xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự với mình không có quyền
đại diện.
2. Trường hợp giao dịch dân sự do người
không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với
người được đại diện thì người không có
quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ
đối với người đã giao dịch với mình, trừ
trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải
biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn
giao dịch.
3. Người đã giao dịch với người không có
quyền đại diện có quyền đơn phương chấm
dứt thực hiện hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự
đã xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại,
trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết
về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao
dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a
khoản 1 Điều này.
4. Trường hợp người không có quyền đại
diện và người đã giao dịch cố ý xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự mà gây thiệt hại cho
người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm
liên đới bồi thường thiệt hại.
Điều 151. Hậu quả của hành vi pháp lý do
người không có quyền đại diện xác lập,

thực hiện đối với người thứ ba
1. Trong trường hợp người không có quyền
đại diện xác lập, thực hiện hành vi pháp lý
nhân danh người khác nhưng người thứ ba có
căn cứ để tin tưởng rằng người xác lập, thực
hiện hành vi pháp lý với mình có quyền đại
diện và không có lỗi về việc đã tin tưởng đó
thì hành vi pháp lý làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ của người được đại diện.


hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với
mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi
đại diện.
2. Người đã giao dịch với người đại diện có
quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc
huỷ bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt
quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch
dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ
trường hợp người đó biết hoặc phải biết về
việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao
dịch.
3. Trong trường hợp người đại diện và
người giao dịch với người đại diện cố ý xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá
phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người
được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên
đới bồi thường thiệt hại.

Điều 147. Chấm dứt đại diện của cá nhân

1. Đại diện theo pháp luật của cá nhân chấm
dứt trong các trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đã thành niên hoặc
năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục;
b) Người được đại diện chết;
c) Các trường hợp khác do pháp luật quy
định.
2. Đại diện theo uỷ quyền của cá nhân chấm
dứt trong các trường hợp sau đây:
a) Thời hạn uỷ quyền đã hết hoặc công việc
được uỷ quyền đã hoàn thành;
b) Người uỷ quyền huỷ bỏ việc uỷ quyền
hoặc người được uỷ quyền từ chối việc uỷ
quyền;
c) Người uỷ quyền hoặc người được uỷ
quyền chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự, mất tích hoặc là đã chết.
Khi chấm dứt đại diện theo uỷ quyền, người
đại diện phải thanh toán xong các nghĩa vụ

Trong trường hợp hành vi pháp lý chưa được
thực hiện thì người thứ ba ngay tình có quyền
yêu cầu người được đại diện trả lời về việc
công nhận hay không công nhận hành vi đã
được xác lập. Người được đại diện đã tiếp
nhận yêu cầu đó mà không thể hiện ý chí rõ
ràng về việc công nhận hay không công nhận
hành vi pháp lý thì coi như đã chấp nhận việc
thực hiện hành vi pháp lý.

2. Trong trường hợp người thứ ba không biết
người xác lập, thực hiện hành vi pháp lý với
mình không có quyền đại diện thì người thứ
ba có quyền hủy bỏ hành vi pháp lý đó, trừ
khi người được đại diện đã công nhận hành
vi pháp lý trước khi người thứ ba tuyên bố
hủy bỏ hành vi pháp lý.
Trong trường hợp người thứ ba đã tuyên bố
hủy bỏ hành vi pháp lý thì người được đại
diện mới thể hiện ý chí về việc công nhận
hành vi pháp lý thì việc công nhận này không
có hiệu lực với người thứ ba.
3. Trong trường hợp người thứ ba biết hoặc
phải biết về việc người xác lập, thực hiện
hành vi với mình không có quyền đại diện
mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi pháp lý với
người đó thì việc công nhận hành vi pháp lý
của người được đại diện có hiệu lực với
người thứ ba.
Điều 153. Chấm dứt quyền đại diện
1. Quyền đại diện được xác lập theo hợp
đồng ủy quyền chấm dứt trong các trường
hợp sau đây:
a) Theo thỏa thuận;
b) Thời hạn ủy quyền đã hết;
c) Công việc được uỷ quyền đã hoàn thành;
d) Người được đại diện hoặc người đại diện
đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy
quyền;
đ) Người được đại diện, người đại diện chết

(đối với cá nhân), chấm dứt hoạt động (đối
với pháp nhân) hoặc người đại diện là cá
nhân không còn có năng lực hành vi phù hợp
theo quy định của pháp luật;
e) Căn cứ khác làm cho hành vi đại diện
không thể thực hiện được.
2. Trong trường hợp chấm dứt quyền đại diện
theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều này
thì được giải quyết như sau:
a) Trong trường hợp uỷ quyền có thù lao, bên


tài sản với người được đại diện hoặc với
người thừa kế của người được đại diện.
Điều 148. Chấm dứt đại diện của pháp
nhân
1. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân
chấm dứt khi pháp nhân chấm dứt.
2. Đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân
chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
a) Thời hạn uỷ quyền đã hết hoặc công việc
được uỷ quyền đã hoàn thành;
b) Người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân huỷ bỏ việc uỷ quyền hoặc người được
uỷ quyền từ chối việc uỷ quyền;
c) Pháp nhân chấm dứt hoặc người được uỷ
quyền chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự, mất tích hoặc là đã chết.
Khi chấm dứt đại diện theo uỷ quyền, người

đại diện phải thanh toán xong các nghĩa vụ
tài sản với pháp nhân uỷ quyền hoặc pháp
nhân kế thừa.

uỷ quyền có quyền đơn phương chấm dứt
thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào nhưng
phải trả thù lao cho bên được uỷ quyền tương
ứng với công việc mà bên được uỷ quyền đã
thực hiện và bồi thường thiệt hại; nếu uỷ
quyền không có thù lao thì bên uỷ quyền có
thể chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc
nào nhưng phải báo trước cho bên được uỷ
quyền một thời hạn hợp lý.
Bên uỷ quyền phải thông báo cho người thứ
ba biết về việc chấm dứt ủy quyền; nếu
không thông báo thì đối với người thứ ba,
hành vi pháp lý vẫn có hiệu lực, trừ trường
hợp người thứ ba biết hoặc phải biết về việc
uỷ quyền đã bị chấm dứt.
b) Trong trường hợp uỷ quyền không có thù
lao, bên được uỷ quyền có quyền đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ
lúc nào, nhưng phải thông báo trước cho bên
uỷ quyền biết một thời hạn hợp lý; nếu uỷ
quyền có thù lao thì bên được uỷ quyền có
quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp
đồng bất cứ lúc nào và phải bồi thường thiệt
hại cho bên uỷ quyền.
3. Quyền đại diện được xác lập theo quy định
của pháp luật được chấm dứt trong các

trường hợp sau đây:
a) Người được đại diện đã thành niên hoặc
năng lực hành vi dân sự đã được khôi phục;
b) Người được đại diện là cá nhân chết;
c) Người được đại diện là pháp nhân chấm
dứt hoạt động;
d) Các căn cứ khác theo quy định của Bộ luật
này hoặc luật khác có liên quan.



×