Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

NHỮNG điểm mới về HÌNH THỨC sở hữu TRONG bộ LUẬT dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.19 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................21

SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

1

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp cấp thiết của đề tài
Trong xu thế của thế kỷ 21 hiện nay vấn đề sở hữu là hết sức quan trọng, việc ban
hành các chế định liên quan đến sở hữu một vấn đề đang đặt ra. Để bảo đảm tính bao
quát, ổn định, minh bạch, công khai huy động và phát huy được các nguồn lực vật chất
trong các quan hệ liên quan đến tài sản, trật tự, an toàn xã hội, Bộ luật dân sự 2015
(BLDS 2015) đã bổ sung quy định có liên quan đến vấn đề sở hữu. Bất kỳ xã hội nào
cũng phải xây dựng trên một chế độ sở hữu nhất định, các quy định về nội dung của chế
độ sở hữu được thể hiện ra bên ngoài với các quy định về hình thức sở hữu. Thực tế đã
chứng minh vai trò của mỗi hình thức sở hữu trong chế độ sở hữu có ý nghĩa và tác dụng
khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Hình thức sở hữu là vấn đề rất lớn được BLDS
điều chỉnh nhưng vẫn còn tồn tại nhiều điểm bất cập, chưa hợp lý. BLDS 2015 đã khắc
phục được những điểm bất cập, chưa hợp lý trong quy định về hình thức sở hữu nhưng
chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về nội dung này.
Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề nên tôi đã quyết định chọn đề tài: “Những điểm
mới về các hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2015” để nghiên cứu và làm
nổi bật lên những điểm mới này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Chế định về các hình thức sở hữu luôn là một đề tài nóng, được các nhà nghiên cứu


luật học quan tâm. Trước đây đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về các hình thức
sở hữu trong BLDS 1995, BLDS 2005.
BLDS 2015 vừa mới ban hành và có hiệu lực trên thực tế đã có nhiều quy định thay
đổi về các hình thức sở hữu, tuy nhiên chưa có nhiều bài viết nghiên cứu về các quy định
mới này. Do đó, tôi quyết định chọn đề tài về các hình thức sở hữu trong quy định BLDS
2015 để tìm hiểu, phân tích làm rõ các quy định này, đồng thời so sánh làm nổi bật các
điểm mới trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 đã hết hiệu lực.
3. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài môn học này hướng đến những mục đích sau:
Thứ nhất, phân tích làm sáng tỏ những cơ sở lý luận của pháp luật về hình thức sở
hữu.
Thứ hai, phân tích làm rõ nội dung quy định BLDS 2015 về các hình thức sở hữu.
Thứ ba, phân tích, làm rõ những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 về các hình thức
sở hữu.
3.2. Ý nghĩa

SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

2

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


Nghiên cứu đề án môn học này giúp cho chúng ta hiểu được những quy định của
pháp luật về các hình thức sở hữu được quy định trong BLDS 2015.
Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự hiện hành về hình thức sở hữu,
nhằm cung cấp những kiến thức của pháp luật dân sự hiện hành về các hình thức sở hữu,

từ đó biết được các hình thức của sở hữu tài sản đối với các chủ thể có liên quan để áp
dụng vào thực tế. Đồng thời qua so sánh đối chiếu với BLDS 2005, sẽ làm nổi bật lên các
điểm mới trong quy định BLDS 2015 về các hình thức sở hữu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Nghiên cứu các quy định về các hình thức sở hữu được quy định trong Bộ luật dân
sự 2005 đây là đối tượng của quyền sở hữu nói chung và là khách thể của phần lớn các
quan hệ pháp luật dân sự. Do đó trong phạm vi nhỏ này tôi chỉ nghiên cứu về các quy
định của pháp luật về hình thức sở hữu, trên cơ sở các quy định pháp luật dân sự nhằm
làm rõ nội dung của các chế định pháp lý về hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự Việt
Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài tôi chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của BLDS 2015 về
hình thức sở hữu tài sản được quy định từ Điều 197 đến điều 220. Đồng thời trên cở sở
đó tiến hành so sánh với các quy định về hình thức sở hữu tài sản trong BLDS 2005 để
làm nổi bật các điểm mới của BLDS 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá phạm vi nghiên cứu, để làm sáng tỏ những nội dung mà đề tài hướng tới,
tôi đã sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, liệt kê, để làm rõ các quy
định của BLDS 2015 về các hình thức sở hữu. Đồng thời sử dụng phương pháp so sánh
đối chiếu để tìm ra các điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005. Bên cạnh đó, tham
khảo một số giáo trình, tài liệu, trong qua trình nghiên cứu có sự trao đổi với cô hướng
dẫn và qua thực tiễn.
6. Bố cục đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài gồm 02
chương:
Chương 1. Những vấn đề cơ bản về hình thức sở hữu theo quy định của BLDS 2015
Chương 2. Những điểm mới về hình thức sở hữu trong BLDS 2015

SVTH: Phan Thị Thanh Thảo


Lớp K713LHV.KT

3

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẦN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HÌNH THỨC SỞ HỮU
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÌNH THỨC SỞ HỮU
1.1.1. Khái niệm chung về hình thức sở hữu
Hình thức sở hữu là cách thức chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản trong một chế
độ sở hữu .
Trong chế độ sở hữu có thể có nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Tương ứng với
mỗi hình thức sở hữu có những chủ sở hữu nhất định. Mỗi hình thức sở hữu có những đặc
điểm riêng, nên pháp luật cũng có những quy định riêng thích hợp với mỗi loại hình thức
sở hữu cụ thể.
BLDS 2015 quy định tại Mục 02, Chương XI về các hình thức sở hữu, trong đó có
03 hình thức sở hữu đó là sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung. Ở mỗi hình
thức sở hữu, chủ sở hữu có những cách thức thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản trong những giới hạn và phạm vi khác nhau.
1.1.2. Các loại hình thức sở hữu
- Hình thức sở hữu toàn dân: Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,
nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước
đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước đại diện chủ sở hữu
và thống nhất quản lý.
Quy định về tài sản như trên thuộc sở hữu toàn dân để nhấn mạnh quyền sở hữu của
toàn dân đối với các tài sản đó được ghi nhận tại Điều 53, 54 của Hiến pháp năm 2013,

còn Nhà nước là công cụ để nhân dân thực hiện quyền lực dưới hình thức dân chủ đại
diện.
- Hình thức sở hữu riêng: là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân. BLDS
2015 quy định lại là chỉ có chủ thể của sở hữu riêng là cá nhân và pháp nhân (Pháp nhân
thành lập theo quy định của Bộ Luật dân sự 2015 và luật khác có liên quan. Pháp nhân
phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc
công nhận).
- Hình thức sở hữu chung: là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản. Trong thực
tế đó là việc một tài sản nhưng thuộc sở hữu của nhiều người. Khi đó việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản của chủ thể này lại có ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác.
1.2. QUY ĐỊNH BLDS 2015 VỀ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU
1.2.1. Hình thức sở hữu toàn dân
a. Tài sản thuộc sở hữu toàn dân

SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

4

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


Tài sản thuộc sở hữu toàn dân là những tài sản được quy định tại điều 197 Bộ luật
dân sự 2015: " Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển,
vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài
sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý".
Việc thay đổi tên từ “sở hữu nhà nước” thành “tài sản thuộc sở hữu toàn dân” nhằm
mục đích để nhấn mạnh quyền sở hữu của toàn dân đối với các tài sản đó được ghi nhận

tại Điều 53, 54 của Hiến pháp năm 2013, còn Nhà nước với những đặc trưng vốn có của
mình, là thiết chế trung tâm của hệ thống chính trị, là công cụ để nhân dân thực hiện
quyền lực nhân dân dưới hình thức dân chủ đại diện. Vì vậy, Nhà nước là thiết chế đại
diện cho nhân dân thực hiện quyền chủ sở hữu đối với những tài sản trên.
b. Quyền của các chủ thể đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân
- Thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
Nội dung này được quy định tại điều 198 Bộ luật dân sự 2015:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đại diện, thực hiện quyền của
chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân.
2. Chính phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và
tiết kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân”.
Nhà nước là thiết chế đại diện cho nhân dân thực hiện quyền chủ sở hữu đối với
những tài sản thuộc sở hữu toàn dân, vì vậy nội dung này xác nhận các quyền sở hữu đối
với tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Quy định nội dung, trình tự thực hiện các quyền năng
của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Xác nhận phạm vi, quyền hạn của
của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý những tài sản đó theo quy định của pháp
luật.
- Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được đầu tư vào doanh nghiệp
Nội dung này được quy định tại Điều 200, BLDS 2015:
“1. Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp thì Nhà nước
thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về doanh
nghiệp, quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp
và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Doanh nghiệp thực hiện việc quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các tài
sản khác do Nhà nước đầu tư theo quy định của pháp luật có liên quan.”
Đối với các doanh nghiệp mà có tài sản thuộc sở hữu toàn dân (Nhà nước là thiết
chế đại diện cho nhân dân thực hiện quyền chủ sở hữu) được đầu tư vào (tức là nhà nước
đầu tư vốn vào doanh nghiệp, không nhất thiết phải là doanh nghiệp nhà nước) thì Nhà
nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định pháp luật về doanh
SVTH: Phan Thị Thanh Thảo


Lớp K713LHV.KT

5

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


nghiệp. Ngoài ra, để phù hợp với những quy định trong các văn bản Luật có liên quan đã
có hiệu lực trong thời gian vừa qua như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư... thì việc quản
lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và quy định
khác của pháp luật có liên quan.
- Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được giao cho cơ quan nhà
nước, đơn vị vũ trang nhân dân.
Nội dung này được quy định tại Điều 201, BLDS 2015:
“1. Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được giao cho cơ quan nhà nước, đơn vị vũ
trang nhân dân thì Nhà nước thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài
sản đó.
2. Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân thực hiện việc quản lý, sử dụng
đúng mục đích, theo quy định của pháp luật đối với tài sản được Nhà nước giao.”
Nhà nước là thiết chế đại diện cho nhân dân thực hiện quyền chủ sở hữu đối với các
tài sản thuộc sở hữu toàn dân vì vậy các tài sản này khi được giao cho các cơ quan nhà
nước, đơn vị vũ trang nhân dân thì nhà nước thực hiện các quyền như trong quy định đã
nêu.
Các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân khi được giao các tài sản này phải
thực hiện việc quản lý, sử dụng đúng mục đích, theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được giao cho tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp
Nội dung này được quy định tại Điều 202, BLDS 2015:

“1. Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được giao cho tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp thì Nhà nước thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài
sản đó.
2. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp thực hiện việc quản lý, sử dụng tài
sản được Nhà nước giao đúng mục đích, phạm vi, theo cách thức, trình tự do pháp luật
quy định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được quy định trong điều lệ.”
Việc thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được giao cho tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội
nghề nghiệp tương tự như quy định Điều 201, BLDS 2015 đối với các cơ quan nhà nước,
đơn vị vũ trang nhân dân. Tuy nhiên ngoài việc quản lý, sử dụng đúng mục đích, theo quy
định của pháp luật thì còn phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được quy định trong
điều lệ.
SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

6

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


- Quyền của cá nhân, pháp nhân đối với việc sử dụng, khai thác tài sản thuộc sở
hữu toàn dân.
Nội dung này được quy định tại Điều 203, BLDS 2015:
“Cá nhân, pháp nhân được sử dụng đất, khai thác nguồn lợi thủy sản, tài nguyên
thiên nhiên và các tài sản khác thuộc sở hữu toàn dân đúng mục đích, có hiệu quả, thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật.”
Nội dung này quy định cho cá nhân, pháp nhân được quyền sử dụng các tài sản
thuộc sở hữu toàn dân nhưng phải đúng mục đích, có hiệu quả và phải thực hiện đầy đủ

các nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định.
Ví dụ: người dân được giao đất để trồng trọt, chăn nuôi và phải có nghĩa vụ đóng
thuế sử dụng đất cho Nhà nước.
1.2.2. Hình thức sở hữu riêng
a. Tài sản thuộc sở hữu riêng
Tài sản thuộc sở hữu riêng được quy định tại Khoản 2, Điều 205, BLDS 2015: “Tài
sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị.”
Nếu các tài sản của chủ thể (cá nhân và pháp nhân) là hợp pháp, đúng quy định của
pháp luật thì sẽ không bị hạn chế về số lượng và giá trị của các tài sản đó
b. Quyền của các chủ thể đối với tài sản thuộc sở hữu riêng
Quyền của các chủ thể đối với tài sản thuộc sở hữu riêng được quy định tại Điều
206, BLDS 2015:
“1. Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác
không trái pháp luật.
2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng không được gây
thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác.”
Theo đó, các chủ thể có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt để phục vụ các mục
đích của chủ thể đối với tài sản thuộc sở hữu riêng mà không trái pháp luật và không
được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác như trong quy định đã nêu.
Ví dụ: ô tô là tài sản thuộc sở hữu riêng của chủ thể, chủ thể có quyền chiến hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản đó để phục vụ mục đích của chủ thể nhưng phải tuân thủ các quy
định của pháp luật, không làm ảnh hưởng đến người khác.
1.2.3. Hình thức sở hữu chung
a. Khái niệm và các loại sở hữu chung
Nội dung này được quy định tại Điều 207, BLDS 2015:
“1. Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản.
SVTH: Phan Thị Thanh Thảo


Lớp K713LHV.KT

7

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


2. Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.”
Trong thực tế cuộc sống có nhiều trường hợp một tài sản nhưng lại thuộc sở hữu của
nhiều người khi đó việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản có thể ảnh hưởng đến lợi
ích của các chủ thể cùng sở hữu tài sản đó, do vậy pháp luật đã có quy định về sở hữu
chung. Sở hữu chung bao gồm 02 loại là sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp
nhất.
b. Nguyên tắc xác lập quyền sở hữu chung
Nội dung này được quy định tại Điều 208, BLDS 2015:
“Quyền sở hữu chung được xác lập theo thỏa thuận, theo quy định của pháp luật
hoặc theo tập quán.”
Tài sản chung là tài sản chung của các chủ thể, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản có thể ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể cùng sở hữu tài sản đó vì vậy quyền
sở hữu chung phải được xác lập theo thỏa thuận của các bên và có sự quản lý của Nhà
nước thông qua các quy định của pháp luật hoặc theo tập quán của từng địa phương cho
phù hợp.
c. Sở hữu chung theo phần
Nội dung này được quy định tại Điều 209, BLDS 2015:
“1. Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của
mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung.
2. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu
chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Sở hữu chung theo phần thì các đồng chủ sở hữu trong đó biết trước được tỷ lệ phần

quyền của mình đối với khối tài sản chung. Phần quyền có thể bằng nhau hoặc không
bằng nhau khi có thỏa thuận khác.
Tương ứng với phần quền sở hữu của mình, mỗi chủ sở hữu theo phần có quyền và
nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
d. Sở hữu chung hợp nhất
Nội dung này được quy định tại Điều 210, BLDS 2015:
“1. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó, phần quyền sở hữu của
mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung.
Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu
chung hợp nhất không phân chia.
2. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản
thuộc sở hữu chung.”
Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu của nhiều chủ thể đối với một khối tài sản chung.
Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu

SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

8

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


chung hợp nhất không phân chia và các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ
ngang nhau đối với tài sản chung đó.
e. Sở hữu chung của cộng đồng
Nội dung này được quy định tại Điều 211, BLDS 2015:
“1. Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, bản, làng, buôn,
phum, sóc, cộng đồng tôn giáo và cộng đồng dân cư khác đối với tài sản được hình thành

theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp,
được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm
mục đích thỏa mãn lợi ích chung hợp pháp của cộng đồng.
2. Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung
theo thỏa thuận hoặc theo tập quán vì lợi ích chung của cộng đồng nhưng không được vi
phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
3. Tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia.”
Quy định về sở hữu chung của cộng đồng khẳng định rằng bản chất tài sản chung
của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất và không phân chia đối với tài sản được hình
thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên
góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật
nhằm thỏa mãn mục đích chung.
f. Sở hữu chung của các thành viên trong gia đình
Nội dung này được quy định tại Điều 212, BLDS 2015:
“1. Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành
viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu
theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.
2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình
được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động
sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa
thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần
được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại
Điều 213 của Bộ luật này.”
Nội dung này quy định các loại tài sản chung của các thành viên gia đình cùng sống
chung (tài sản do đóng góp, tài sản cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác theo
quy định…). Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia
đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận và quy định cụ thể đối với tài sản là bất
động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình….


SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

9

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


g. Sở hữu chung của vợ chồng
Nội dung này được quy định tại Điều 213, BLDS 2015:
“1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản chung.
4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết
định của Tòa án.
5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của
pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế
độ tài sản này.”
Tài sản chung của vợ chồng là Sở hữu chung hợp nhất; vợ chồng có quyền ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Trường hợp vợ chồng lựa
chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình thì
tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này. Việc bổ sung quy định
như trên nhằm tạo cơ sở thống nhất trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về tài
sản của vợ chồng (Luật Hôn nhân và gia đình).
h. Sở hữu chung trong nhà chung cư
Nội dung này được quy định tại Điều 214, BLDS 2015:

“1. Phần diện tích, trang thiết bị và các tài sản khác dùng chung trong nhà chung
cư theo quy định của Luật nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất của tất cả chủ sở hữu các
căn hộ trong nhà đó và không phân chia, trừ trường hợp luật có quy định khác hoặc tất
cả các chủ sở hữu có thỏa thuận khác.
2. Chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong
việc quản lý, sử dụng tài sản quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp luật có quy
định khác hoặc có thỏa thuận khác.
3. Trường hợp nhà chung cư bị tiêu hủy thì quyền của chủ sở hữu căn hộ chung cư
thực hiện theo quy định của luật.”
Chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong
việc quản lý, sử dụng tài sản chung (theo Luật Nhà ở) theo quy định trên, trừ trường hợp
luật có quy định khác hoặc có thỏa thuận khác
i. Sở hữu chung hỗn hợp
Nội dung này được quy định tại Điều 215, BLDS 2015:
“1. Sở hữu chung hỗn hợp là sở hữu đối với tài sản do các chủ sở hữu thuộc các
thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận.

SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

10

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


2. Tài sản được hình thành từ nguồn vốn góp của các chủ sở hữu, lợi nhuận hợp
pháp thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc từ nguồn khác phù hợp với quy
định của pháp luật là tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp.
3. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp phải tuân

theo quy định tại Điều 209 của Bộ luật này và quy định của pháp luật có liên quan đến
việc góp vốn, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý, điều hành, trách nhiệm
về tài sản và phân chia lợi nhuận.”
Nội dung này quy định về tài sản do các chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau góp vốn để sản xuất, kinh doanh thu lợi nhuận là sở hữu chung hỗn hợp. Trong
quá trình hoạt động tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp có thể được hình thành từ lợi
nhuận hoặc nguồn khác phù hợp quy định của pháp luật. Việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản thuộc sở hữu chung hỗn hợp phải tuân thủ quy đinh của BLDS và quy định
của pháp luật có liên quan đến việc góp vốn, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh,
quản lý, điều hành, trách nhiệm về tài sản và phân chia lợi nhuận.
j. Nội dung quyền sở hữu trong hình thức sở hữu chung
Nội dung quyền sở hữu trong hình thức sở hữu chung bao gồm các quy định của
luật về việc quản lý, sử dụng, định đoạt, chia tài sản và chấm dứt sở hữu chung và được
quy định từ Điều 216 - 219, BLDS 2015, theo đó:
- Việc quản lý tài sản chung theo nguyên tắc nhất trí, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.
- Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi
tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền
ngang nhau trong việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.
- Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình.
Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thỏa thuận của các chủ sở hữu
chung hoặc theo quy định của pháp luật. Trường hợp một chủ sở hữu chung theo phần
bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua.
Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với bất động sản từ bỏ phần quyền
sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở
hữu đó thuộc về Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu
chung của các chủ sở hữu chung còn lại.
Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với động sản từ bỏ phần quyền sở

hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu
đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại.

SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

11

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


- Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền
yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời
hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở
hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung
không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán
phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.
Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện
nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng
không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham
gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu không
thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn
lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở
hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
- Sở hữu chung chấm dứt trong trường hợp tài sản chung đã được chia; Một trong số
các chủ sở hữu chung được hưởng toàn bộ tài sản chung; Tài sản chung không còn hoặc
trong các trường hợp khác theo quy định của luật.

CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ HÌNH THỨC SỞ HỮU

TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015
2.1 ĐIỂM MỚI CHUNG TRONG QUY ĐỊNH VỀ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU
SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

12

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


Việc xác định các hình thức sở hữu trong BLDS 2005 là chưa khoa học, tạo ra sự
phức tạp không cần thiết trong việc điều chỉnh pháp luật đối với các hình thức sở hữu.
Theo BLDS 2005, ở nước ta có 6 hình thức sở hữu (Điều 200 – Điều 232), bao gồm: (1)
sở hữu nhà nước; (2) sở hữu tập thể; (3) sở hữu tư nhân; (4) sở hữu chung; (5) sở hữu của
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; (6) sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Việc phân chia hình thức sở hữu dựa
vào tính chất, chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể như vậy là không hợp lý, cần phải
thay đổi.
Thứ nhất, việc phân loại hình thức sở hữu căn cứ vào các loại hình tổ chức (như sở
hữu của tổ chức chính trị; tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức xã hội…) là không có căn cứ
khoa học. Khi xác định một hình thức sở hữu nào đó thì phải xuất phát từ sự khác biệt về
nội dung quyền sở hữu (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt), về phương thức thực hiện các
quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản. Qua nghiên cứu cho thấy, nội dung của quyền
sở hữu được quy định trong BLDS hiện hành là không có gì khác nhau đối với các hình
thức sở hữu khác nhau, không có ý nghĩa về mặt pháp lý khi không chỉ ra được sự khác
biệt cơ bản giữa các hình thức sở hữu này, ngoại trừ việc phân loại sở hữu riêng và sở
hữu chung. Trong sở hữu chung thì khi chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản cần phải có
sự thỏa thuận của các đồng chủ sở hữu; không đồng chủ sở hữu nào được tự ý quyết định
vấn đề gì. Đây là điểm khác biệt cơ bản của hình thức sở hữu chung so với trường hợp tài

sản là sở hữu riêng của một chủ thể (cá nhân hoặc pháp nhân) vì các chủ thể này có toàn
quyền quyết định các vấn đề liên quan đến tài sản của mình mà không phải tính đến ý chí
của người khác;
Thứ hai, về sở hữu tập thể (Điều 208 và Điều 209): theo quy định hiện hành thì sở
hữu tập thể là một hình thức sở hữu độc lập. Tuy nhiên, về cơ bản, đây chỉ là sở hữu của
pháp nhân là hợp tác xã. Nếu đã có quy định về sở hữu riêng là sở hữu của cá nhân và
pháp nhân thì không cần quy định một hình thức sở hữu độc lập là sở hữu tập thể nữa vì
hợp tác xã cũng là một loại hình cụ thể của pháp nhân;
Thứ ba, về sở hữu tư nhân: theo Điều 211 thì sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân
đối với tài sản hợp pháp của mình. Như vậy, quy định sở hữu tư nhân thực chất là sở hữu
của cá nhân là chưa đầy đủ, vì chưa bao quát được sở hữu của một loại chủ thể pháp lý
khác là pháp nhân. Về nguyên lý, sở hữu tư nhân phải được quy định như là"sở hữu
riêng" để bao quát được sở hữu của cả cá nhân lẫn của pháp nhân;
Thứ tư, về sở hữu chung: việc quy định về sở hữu chung hỗn hợp tại Điều 218 là
không có ý nghĩa pháp lý, vì bản chất nó là một loại sở hữu chung theo phần.
Vì vậy, chỉ nên quy định trong luật có 3 hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu nhà
nước, sở hữu riêng và sở hữu chung là phù hợp.
SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

13

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


2.2. ĐIỂM MỚI VỀ CÁC HÌNH THỨC SỞ HỮU
2.2.1. Điểm mới về hình thức sở hữu toàn dân
a. Tài sản thuộc sở hữu toàn dân
Trước đây, Điều 200 (BLDS 2005) quy định Tài sản bao gồm đất đai, rừng tự nhiên,

rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên
trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài
sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh
tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản
khác do pháp luật quy định là tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước, tức là Nhà nước
là đại diện cho nhân dân quản lý, nắm giữ và Nhà nước thực hiện quyền chiến hữu, sử
dụng, định đoạt đối với các tài sản đó (thực hiện theo quy định tại Điều 17 Hiến pháp
năm 1992) nay đổi tên thành “tài sản thuộc sở hữu toàn dân” nhằm mục đích để nhấn
mạnh quyền sở hữu của toàn dân đối với các tài sản đó được ghi nhận tại Điều 53, 54 của
Hiến pháp năm 2013, còn Nhà nước với những đặc trưng vốn có của mình, là thiết chế
trung tâm của hệ thống chính trị, là công cụ để nhân dân thực hiện quyền lực nhân dân
dưới hình thức dân chủ đại diện. Vì vậy, Nhà nước là thiết chế đại diện cho nhân dân thực
hiện quyền chủ sở hữu đối với những tài sản trên.
“Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời,
tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. (Điều
197 Bộ luật dân sự 2015)
b. Thực hiện các quyền đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân
* Thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân (tại Điều
198, của BLDS 2015):
“- Nhà nước CHXHCNVN là đại diện, thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài
sản thuộc sở hữu toàn dân.
- Chính phủ thống nhất quản lý và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tiết
kiệm tài sản thuộc sở hữu toàn dân”.
Tương ứng với khái niệm trên (tại Điều 197, của BLDS 2005), trong BLDS 2015 đã
cơ bản giữ nguyên nội dung như Điều 201, BLDS 2005; chỉ thay thế các cụm từ “tài sản
thuộc hình thức sở hữu nhà nước” bằng cụm từ “tài sản thuộc sở hữu toàn dân”.
* Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân (tại Điều 199, của
BLDS 2015):
“Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu toàn dân được thực hiện

trong phạm vi và theo trình tự do pháp luật quy định”.

SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

14

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


Tương tự, trong BLDS 2015 đã cơ bản giữ nguyên nội dung như Điều 202, BLDS
2005; thay thế các cụm từ “tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước” bằng cụm từ “tài
sản thuộc sở hữu toàn dân”; “quản lý” bằng “chiếm hữu” nhằm khẳng định rằng chủ thể
có quyền làm chủ, kiểm soát và chi phối tài sản theo ý chí của mình và về nguyên tắc là
không bị hạn chế và gián đoạn về thời gian.
* Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được đầu tư vào doanh nghiệp
(tại Điều 200, của BLDS 2015):
Tại Điều 203, BLDS 2005 chỉ quy định việc thực hiện quyền sở hữu Nhà nước đối
với tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước, được đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước thì
Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật
về doanh nghiệp. Nhưng tại Điều 200, BLDS 2015 quy định lại nội dung này là đối với
các doanh nghiệp mà có tài sản thuộc sở hữu toàn dân (Nhà nước là thiết chế đại diện cho
nhân dân thực hiện quyền chủ sở hữu) được đầu tư vào (tức là nhà nước đầu tư vốn vào
doanh nghiệp, không nhất thiết phải là doanh nghiệp nhà nước) thì Nhà nước thực hiện
quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định pháp luật về doanh nghiệp. Ngoài
ra, để phù hợp với những quy định trong các văn bản Luật có liên quan đã có hiệu lực
trong thời gian vừa qua như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư... thì việc quản lý, sử dụng
vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và quy định khác của
pháp luật có liên quan.

- Điều 203, BLDS 2005 chỉ quy định Doanh nghiệp thực hiện việc quản lý, sử dụng
vốn, đất đai, tài nguyên và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư theo quy định của pháp
luật về doanh nghiệp. Nhưng tại Điều 200, BLDS 2015 thì theo quy định của pháp luật có
liên quan.
* Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được giao cho cơ quan nhà
nước, đơn vị vũ trang nhân dân (tại Điều 201, của BLDS 2015):
Tương ứng với khái niệm trên (tại Điều 197, của BLDS 2005), trong BLDS 2015 đã
cơ bản giữ nguyên nội dung như Điều 204, BLDS 2005; chỉ thay thế các cụm từ “tài sản
thuộc hình thức sở hữu nhà nước” bằng cụm từ “tài sản thuộc sở hữu toàn dân”.
* Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được giao cho tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội - nghề nghiệp (tại Điều 202, của BLDS 2015):
“- Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được giao cho tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp thì Nhà nước thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng tài sản đó.
- Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp,
tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp thực hiện việc quản lý, sử dụng tài sản được
SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

15

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


Nhà nước giao đúng mục đích, phạm vi, theo cách thức, trình tự do pháp luật quy định,
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được quy định trong điều lệ”.
Tương tự như trên, trong BLDS 2015 đã cơ bản giữ nguyên nội dung như Điều 205,
BLDS 2005; chỉ thay thế các cụm từ “tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước” bằng cụm

từ “tài sản thuộc sở hữu toàn dân”.
* Quyền của cá nhân, pháp nhân đối với việc sử dụng, khai thác tài sản thuộc sở
hữu toàn dân (tại Điều 203, của BLDS 2015):
Tại Điều 206, BLDS 2005 quy định quyền của các chủ thể doanh nghiệp, hộ gia
đình, tổ hợp tác và cá nhân đối với việc sử dụng, khai thác tài sản thuộc hình thức sở hữu
nhà nước. BLDS 2015 quy định lại là chỉ có 02 đối tượng là cá nhân và pháp nhân có
quyền sử dụng, khai thác tài sản thuộc sở hữu toàn dân, vì pháp nhân thành lập theo quy
định của Bộ Luật dân sự 2015 và luật khác có liên quan. Pháp nhân được thành lập theo
sáng kiến của cá nhân, pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền; đăng ký pháp nhân bao gồm đăng ký thành lập, đăng ký thay đổi và đăng ký khác
theo quy định của pháp luật và phải được công bố công khai. Như vậy, pháp nhân phải
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công
nhận. Việc quy định này giúp thống nhất quyền của đối tượng được phép sử dụng, khai
thác tài sản thuộc sở hữu toàn dân và đều phải có sự quản lý của Nhà nước. Ngoài ra, còn
nhằm tạo sự ngắn gọn, tránh rườm rà, gây trở ngại cho việc áp dụng pháp luật.
* Tài sản thuộc sở hữu toàn dân chưa được giao cho cá nhân, pháp nhân quản lý
(tại Điều 204, của BLDS 2015):
“Đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân mà chưa được giao cho cá nhân, pháp nhân
quản lý thì Chính phủ tổ chức thực hiện việc bảo vệ, điều tra, khảo sát và lập quy hoạch
đưa vào khai thác”.
Nội dung của Điều 204, BLDS 2015 đã kế thừa với nội dung của Điều 207, BLDS
205 và chỉ thay thế các cụm từ “tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước” bằng cụm từ
“tài sản thuộc sở hữu toàn dân”
2.2.2. Điểm mới về hình thức sở hữu riêng
a. Sở hữu riêng và tài sản thuộc sở hữu riêng
Trước đây, quy định tại Điều 211, BLDS 2005, Sở hữu tư nhân là sở hữu của cá
nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu
tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân.
Hiện nay, Điều 205, BLDS 2015 quy định này được gọi là “sở hữu riêng” thay vì
gọi là “sở hữu tư nhân”, quy định này nhằm bao trùm hết các đối tượng được quyền sở

hữu riêng, đó là cá nhân và pháp nhân (giống với quy định về pháp nhân tại điều 203,

SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

16

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


BLDS 2015). Ngoài ra, các tài sản hợp pháp của cá nhân và pháp nhân thuộc sở hữu
riêng sẽ không bị hạn chế về số lượng và giá trị, điều mà trong BLDS 2005 không nêu rõ.
“- Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân.
- Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị”.
b. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng
Bản chất nội dung của việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của tài sản thuộc sở hữu
riêng không có sự thay đổi so với Điều 213, BLDS 2005, chỉ thay đổi cụm từ “sở hữu tư
nhân” thành cụm từ “sở hữu riêng”. (Căn cứ 206 Bộ luật dân sự 2015)
“- Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu
riêng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục đích
khác không trái pháp luật.
- Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng không được gây
thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác”.
2.2.3. Điểm mới về hình thức sở hữu chung
a. Sở hữu chung của cộng đồng.
- Điều 220, BLDS 2005 nêu sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ,
thôn, ấp, làng, bản, buôn, sóc, cộng đồng tôn giáo và các cộng đồng dân cư khác đối với
tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau

đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định
của pháp luật nhằm mục đích thoả mãn lợi ích chung hợp pháp của cả cộng đồng. Các
thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thoả thuận
hoặc theo tập quán, vì lợi ích của cộng đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã
hội. Tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất.
- Điều 211, BLDS 2015 ngoài những quy định được kế thừa lại từ BLDS 2005 về sở
hữu chung của cộng đồng còn khẳng định rằng bản chất tài sản chung của cộng đồng là
tài sản chung hợp nhất và không phân chia đối với tài sản được hình thành theo tập quán,
tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho
chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật.
b. Sở hữu chung của vợ chồng
- Điều 219, BLDS 2005 quy định sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp
nhất tức là phần quyền sở hữu của vợ chồng không được xác định đối với tài sản chung.
- Điều 213, BLDS 2015 khẳng định bản chất tài sản chung của vợ chồng là sở hữu
chung hợp nhất và có thể phân chia.
- Ngoài ra, Điều 213, BLDS 2015 còn bổ sung thêm quy định sau: Trường hợp vợ
chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định pháp luật về hôn nhân và gia
SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

17

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này. Việc bổ sung
quy định như trên nhằm tạo cơ sở thống nhất trong việc áp dụng các quy định của pháp
luật về tài sản của vợ chồng (Luật Hôn nhân và gia đình).
c. Sở hữu chung trong nhà chung cư

- Điều 225, BLDS 2005 quy định phần diện tích, trang thiết bị dùng chung trong
nhà chung cư thuộc sở hữu chung của tất cả chủ sở hữu các căn hộ trong nhà đó và không
thể phân chia, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc có sự thoả thuận của tất cả
các chủ sở hữu. Chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền và nghĩa vụ ngang
nhau trong việc quản lý, sử dụng phần diện tích và thiết bị chung. Trong trường hợp nhà
chung cư bị tiêu huỷ thì chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền sử dụng diện
tích mặt đất của nhà chung cư theo quy định của pháp luật.
- Tại Điều 214, BLDS 2015, ngoài những nội dung tiếp thu của BLDS 2005 còn bổ
sung thêm một số quy định cần thiết trong việc sở hữu chung trong nhà chung cư cho phù
hợp với quy định của Luật Nhà ở, Luật Đất đai và các quy định khác có liên quan:
- Phần diện tích, trang thiết bị và các tài sản khác dùng chung trong nhà chung
cư theo quy định của Luật nhà ở thuộc sở hữu chung hợp nhất của tất cả chủ sở hữu các
căn hộ trong nhà đó và không phân chia, trừ trường hợp luật có quy định khác hoặc tất cả
các chủ sở hữu có thoả thuận khác.
- Chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong
việc quản lý, sử dụng tài sản quy định trên, trừ trường hợp luật có quy định khác hoặc có
thỏa thuận khác.
- Trường hợp nhà chung cư bị tiêu huỷ thì quyền của chủ sở hữu căn hộ chung cư
thực hiện theo quy định của luật.
d. Định đoạt tài sản chung
- Điều 223, BLDS 2005 quy định mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định
đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Việc
định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu
chung hoặc theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán
phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong
thời hạn ba tháng đối với tài sản chung là bất động sản, một tháng đối với tài sản chung là
động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các
điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán
cho người khác. Trong trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu
tiên mua thì trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên

mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Toà
án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải
SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

18

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp một trong các chủ sở hữu chung từ bỏ phần quyền
sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở
hữu đó thuộc Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu
chung của các chủ sở hữu chung còn lại.
- Ngoài những nội dung phù hợp của BLDS 2005 về việc định đoạt tài sản chung
được giữ lại, Điều 218, BLDS 2015 còn bổ sung thêm các quy định sau:
Việc thông báo phải được thể hiện bằng văn bản và các điều kiện bán cho chủ sở
hữu chung khác phải giống như điều kiện bán cho người không phải là chủ sở hữu chung.
Việc quy định này nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp giữa các
chủ sở hữu chung và người không phải là chủ sở hữu chung khi thực hiện các giao dịch
mua bán.
- Tại Khoản 04, Điều 218, BLDS 2015 phân định rõ trường hợp từ bỏ phần quyền
sở hữu đối với bất động sản, động sản:
+ Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với BĐS từ bỏ phần quyền sở
hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu
đó thuộc về Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu
chung của các chủ sở hữu chung còn lại.
+ Trường hợp một trong các chủ sở hữu chung đối với động sản từ bỏ phần quyền
sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở

hữu đó thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu còn lại.
- Đồng thời, thêm quy định cho trường hợp tất cả các chủ sở hữu chung từ bỏ quyền
sở hữu của mình đối với tài sản chung:
Trường hợp tất cả các chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản chung
thì việc xác lập quyền sở hữu được áp dụng theo quy định về xác lập quyền sở hữu đối
với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu (Khoản 6, Điều 218, BLDS
2015 và Điều 228, BLDS 2015).
e. Chia tài sản thuộc sở hữu chung
- Điều 224, BLDS 2005 quy định trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia
thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu các chủ sở hữu
chung đã thoả thuận không phân chia tài sản chung trong một thời hạn thì mỗi chủ sở hữu
chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung
không thể chia được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để chia. Trong trường hợp
có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán
khi người đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người
yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia
vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu không thể
SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

19

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại
phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu
của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
- Điều 219, BLDS 2015 quy định rõ nội dung của việc chia tài sản thuộc sở hữu

chung, đồng thời không thể chia bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có
quyền bán phần quyền sở hữu của mình:
Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền
yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời
hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở
hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung
không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán
phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.

KẾT LUẬN
Từ trước đến nay, thái độ của Nhà nước ta và các quy định cụ thể của pháp luật đối
với từng hình thức sở hữu cụ thể cũng có những quy chế pháp lý khác nhau. Nhà nước
xác định nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đa dạng nhưng cũng xác định sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng, việc bảo hộ của pháp luật trong một chừng mực
nhất định cũng có khác nhau.
SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

20

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


Với việc quy định các hình thức sở hữu cụ thể, chúng ta sẽ có điều kiện quy định
các phương thức tồn tại, vận động của sở hữu gắn liền với các chủ sở hữu cụ thể cùng với
các chế độ pháp lý có tính chất đặc thù của từng hình thức sở hữu đó.
Trong thời gian thi hành BLDS 2005 bên cạnh một vài hạn chế nhất định cũng đã
cho thấy nhiều hiểm hợp lý và tiến bộ của các quy định về các hình thức sở hữu. Những
hạn chế nhất định đã được BLDS 2015 bổ sung, sửa đổi phù hợp với tình hình thực tế

hiện nay để đáp ứng tốt nhu cầu và điều chỉnh một cách phù hợp những quan hệ dân sự
có liên quan đến các hình thức sở hữu./

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ luật Dân sự năm 2005;
[2] Bộ luật Dân sự năm 2015;
[3] Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 - NXB HỒNG ĐỨC,
PGS. TS Đỗ Văn Đại (Chủ biên);

SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

21

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung


[4] Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư
pháp, PGS.TS Hoàng Thế Liên (Chủ biên)
[5] />[6] />[7] />[8] />
SVTH: Phan Thị Thanh Thảo

Lớp K713LHV.KT

22

GVHD: Trương Thị Hồng Nhung




×