MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................1
A. PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................................2
1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................................................2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài................................................................................................2
3. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài.................................................................2
3.1. Mục đích..........................................................................................................2
3.2. Ý nghĩa............................................................................................................2
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu...............................................................................3
4.1. Đối tượng.........................................................................................................3
4.2. Phương pháp....................................................................................................3
5. Phạm vi nghiên cứu.............................................................................................................3
6. Bố cục đề tài........................................................................................................................3
B. NỘI DUNG............................................................................................................................4
CHƯƠNG 1:...........................................................................................................................4
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN RIÊNG...............................4
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN................................4
1.1.1 Khái niệm về tài sản...................................................................................4
1.1.2 Khái niệm về quyền sở hữu........................................................................4
1.1.3. Các hình thức sở hữu................................................................................5
1.2. SỞ HỮU RIÊNG.............................................................................................5
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm..............................................................................5
1.2.2. Chủ thể của sở hữu riêng...........................................................................5
1.2.3. Khách thể của sở hữu riêng.......................................................................6
1.2.4. Nội dung của sở hữu riêng........................................................................6
CHƯƠNG 2:...........................................................................................................................7
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 VỀ QUYỀN SỞ HỮU....................7
TÀI SẢN RIÊNG....................................................................................................................7
2.2. ĐIỂM MỚI VỀ HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG BLDS NĂM 2015...........10
2.3. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 VỀ QUYỀN SỞ HỮU
TÀI SẢN RIÊNG.................................................................................................11
C. KẾT LUẬN..........................................................................................................................12
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN......................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................14
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế của thế kỷ 21 hiện nay vấn đề quyền sở hữu là hết sức quan trọng,
việc ban hành các chế định liên quan đến quyền sở hữu một vấn đề đang đặt ra. Để bảo
đảm tính bao quát, ổn định, minh bạch, công khai huy động và phát huy được các
nguồn lực vật chất trong các quan hệ liên quan đến tài sản, trật tự, an toàn xã hội, Bộ
luật dân sự 2015 (BLDS 2015) đã bổ sung quy định về quyền sở hữu tài sản và bất
động sản; tài sản có thể là vật, tiền, giấy có giá, quyền tài sản đối với các đối tượng sở
hữu trí tuệ. Trong hệ thống pháp luật nhiều quốc gia, quyền sở hữu luôn được ghi nhận
là quyền cơ bản của con người. Với ý nghĩa là cơ sở cho mọi quan hệ kinh tế, chi phối
chế độ kinh tế trong xã hội, quyền sở hữu được pháp luật bằng nhiều phương thức
khác nhau. Tuy nhiên, với tình hình phát triển như hiện nay, một nền kinh tế thị trường
hội nhập và đời sống của người dân không ngừng đổi mới, nảy sinh ra nhiều mối quan
hệ kinh tế - xã hội liên quan đến quyền sở hữu tài sản riêng. Để tìm hiểu về những vấn
đề về quyền sở hữu tài sản riêng, liên hệ với các quy định mới trong Bộ luật dân sự
2015 về quy định căn cứ sở hữu tài sản riêng. Tôi xin chọn đề tài về “Những điểm
mới của Bộ luật dân sự năm 2015 về quyền sở hữu tài sản riêng”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có không ít công trình nghiên cứu ở Việt Nam về vấn đề quyền sở hữu tài sản
riêng. Tuy nhiên, để tìm hiểu rõ ràng về vấn đề này, cần tiếp cận theo phương pháp
đánh giá tính khả thi của các quy định, chế định về quyền sở hữu tài sản riêng đã được
đề cập trong thời gian qua. Tìm hiểu cả về cơ sơ lí luận và cơ sở thực tiễn để nắm rõ về
tình hình quyền sở hữu tài sản riêng trong thực tế pháp luật Việt Nam hiện nay. Vì vậy
tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm rõ hơn những vấn đề những điểm mới của Bộ luật
dân sự năm 2015 về quyền sở hữu tài sản riêng.
3. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở khoa học của các của các quy định chung về quyền sở hữu tài sản riêng,
nhằm mục đích phát triển nội dung khoa học của các nội dung đó, làm rõ nội dung của
các quy định tìm ra những điểm mới trong BLDS 2015 so với BLDS 2005.
3.2. Ý nghĩa
Nghiên cứu đề tài môn học này giúp cho chúng ta hiểu được những quy định của
pháp luật về căn cứ quyền sở hữu tài sản riêng. Đề tài này cũng giúp cho chúng ta hiểu
được việc Sở hữu hay quyền hữu cần được ghi nhận và thể hiện một cách nhất quán
trong các quy định về tài sản và sở hữu cũng như các quy định liên quan. Chế định
quyền sở hữu được ghi nhận với tư cách là một chế định độc lập.
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
2
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Nghiên cứu những điểm mới trong các chế định về quyền sở hữu tài sản riêng được
quy định trong BLDS 2015 so với BLDS 2005. Đây là đối tượng của quyền sở hữu tài
sản nói chung và là khách thể của các quan hệ pháp luật dân sự.
4.2. Phương pháp
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, trên cơ sở những kiến thức lý luận và thực tiễn
của bản thân. Tôi dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng với các biện pháp
như: phân tích, tổng hợp quy phạm pháp luật, phương pháp so sánh pháp luật, liệt kê.
Bên cạnh đó, tham khảo một số giáo trình, tài liệu, trong qua trình nghiên cứu có sự
trao đổi với cô giáo bộ môn và qua thực tiễn.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này tôi chỉ nghiên cứu về các quy định của pháp
luật về quyền sở hữu tài sản riêng, trên phương diện cơ sở các quy định pháp luật dân
sự nhằm làm rõ những điểm mới của các chế định pháp lý về quyền sở hữu tài sản
riêng trong BLDS 2015.
6. Bố cục đề tài
Đề tài gồm 03 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần nội dung
bao gồm 02 Chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quyền sở hữu tài sản riêng.
Chương 2. Những điểm mới của Bộ Luật dân sự 2015 về quyền sở hữu tài sản
riêng.
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
3
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN RIÊNG
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN
1.1.1 Khái niệm về tài sản
Tài sản luôn được coi là một điều kiện vật chất để duy trì các hoạt động trong lĩnh
vực kinh tế và đời sống xã hội. Khái niệm về tài sản chắc chắn đã được hình thành từ
rất lâu, gần như song song với lịch sử hình thành loại người. Tài sản là một công cụ
của đời sống xã hội nên khái niệm về tài sản không phải là một khái niệm thuần túy có
tính học thuật mà lá một khái niệm có tính mục đích cao. Khái niệm này đáp ứng được
các nhu cầu cấp thiết của xã hội. Tài sản không thể được xem xét tách rời các giá trị xã
hội.
Có thể nói, tài sản là của cải được con người sử dụng. Theo nghĩa này thì tài sản
luôn biến đổi và phát triển cùng với sự thay đổi của thời gian, của điều kiện xã hội, của
sự nhận thức con người về giá trị vật chất nên phạm vi của tài sản qua mỗi thời kỳ lại
được nhìn nhận ở một góc độ khác nhau. Có thể nhận thấy tài sản là khách thể của
quyền sở hữu, nó có thể là đối tượng của thế giới vật chất hoặc là kết quả của các hoạt
động sáng tạo tinh thần.
Do đó ta có thể nêu khái niệm về TÀI SẢN (Căn cứ theo điều 105 Bộ luật dân sự
năm 2015) như sau:
1- Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản;
2- Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là
tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
1.1.2 Khái niệm về quyền sở hữu
Muốn hiểu được quyền sở hữu chung trước hết ta phải hiểu được quyền sở hữu.
Quyền sở hữu là chỉ tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.
Quyền sở hữu là chỉ tổng hợp các qui phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Khái niệm quyền sở hữu được hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau:
Theo nghĩa khách quan đó là toàn bộ các quy định của Nhà nước về vấn đề sở hữu,
Quy định về quyền sở hữu trong các ngành luật khác nhau.
Theo nghĩa chủ quan đó là toàn bộ những hành vi mà chủ sở hữu được pháp luật
cho phép thực hiện trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo ý chí của
mình.
Quyền sở hữu bao giờ cũng gắn liền với chủ thể nên được coi là quyền tuyệt đối.
Quyền sở hữu còn được hiểu là quan hệ pháp luật dân sự bao gồm 3 yếu tố: chủ thể,
khách thể và nội dung.
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
4
Khái niệm quyền sở hữu vừa là một phạm trù kinh tế vừa là một phạm trù pháp lý:
Là phạm trù kinh tế, sở hữu thể hiện các quan hệ sản xuất xã hội, phương thức
chiếm hữu và phân phối trong từng hình thái kinh tế- xã hội và quan hệ xã hội nhất
định. Sở hữu là việc tài sản, thành quả lao động, tư liệu sản xuất thuộc về ai, do đó nó
thể hiện quan hệ giữa người với người trong quá trình tạo ra và phân phối các thành
quả vật chất.
Là phạm trù pháp lý, quyền sở hữu mang tính chất chủ quan vì nó là sự ghi nhận
của Nhà nước, nhưng Nhà nước không thể đặt ra quyền sở hữu theo ý chí chủ quan của
mình mà quyền sở hữu được qui định trước hết bởi nội dung kinh tế xã hội, tức là thể
chế hoá những quan hệ chiếm hữu, sử dụng và định đoạt những của cải vật chất do
con người tạo ra.
Khái niệm quyền sở hữu (theo Điều 164 BLDS năm 2005) như sau:
- Quyền Sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài
sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
- Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm
hữu,quyền sử dụng,quyền định đoạt tài sản.
1.1.3. Các hình thức sở hữu
Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, các hình thức sở
hữu bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (Điều 172 BLDS 2005).
1.2. SỞ HỮU RIÊNG
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm
Trong các hình thức sở hữu được quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 thì hình thức sở
hữu riêng được quy định tại Tiểu mục 02 và 02 Điều 205, Điều 206. BLDS 2015 đưa
ra khái niệm và phân loại sở hữu riêng trong Điều 205 như sau:
“1. Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân.
2. Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị.”
Theo Điều 211, BLDS 2005 thì sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân đối với tài
sản hợp pháp của mình. Như vậy, quy định sở hữu tư nhân thực chất là sở hữu của cá
nhân là chưa đầy đủ, vì chưa bao quát được sở hữu của một loại chủ thể pháp lý khác
là pháp nhân. Về nguyên lý, sở hữu tư nhân phải được quy định như là"sở hữu
riêng" để bao quát được sở hữu của cả cá nhân lẫn của pháp nhân;là sở hữu của một cá
nhân hoặc một pháp nhân. BLDS 2015 quy định lại là chỉ có chủ thể của sở hữu riêng
là cá nhân và pháp nhân (Pháp nhân thành lập theo quy định của Bộ Luật dân sự 2015
và luật khác có liên quan. Pháp nhân phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận).
1.2.2. Chủ thể của sở hữu riêng
Chủ thể của sở hữu riêng đó là cá nhân và pháp nhân; bất kỳ cá nhân công dân nào
không phân biệt mức độ năng lực dân sự hoặc pháp nhân thành lập theo quy định
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
5
của Bộ Luật dân sự 2015 và luật khác có liên quan. Pháp nhân phải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận đều có thể
là chủ sở hữu. Tuy nhiên để thực hiện các quyền năng của quyền sở hữu thì không phải
cá nhân, pháp nhân nào cũng thực hiện được mà điều đó còn phải tùy thuộc vào khả
năng nhận thức, năng lực hành vi của cá nhân, pháp nhân. Do đó, trong một số trường
hợp nếu cá nhân, pháp nhân không thực hiện được quyền năng của quyền sở hữu thì
quyền năng này được thực hiện thông qua người đại diện...
1.2.3. Khách thể của sở hữu riêng
Khách thể của sở hữu riêng là những tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân, pháp
nhân. Tài sản thuộc sở hữu riêng được pháp luật quy định rất đa dạng về căn cứ phát
sinh, không giới hạn về số lượng và giá trị tài sản “Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu
riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị.” (Điều 205, BLDS 2015).
1.2.4. Nội dung của sở hữu riêng
Nội dung của quyền sở hữu riêng của cá nhân, pháp nhân được thể hiện ở những
việc làm như chi phối tài sản thông qua các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản. Cá nhân và pháp nhân có thể thực hiện các quyền này một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp. Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu
riêng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục
đích khác không trái pháp luật.
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
6
CHƯƠNG 2:
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 VỀ QUYỀN SỞ HỮU
TÀI SẢN RIÊNG
2.1. Sự cần thiết phải ban hành Bộ luật dân sự 2015.
Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày
14/6/2005 trên cơ sở kế thừa truyền thống của pháp luật dân sự Việt Nam, phát huy
thành tựu của BLDS năm 1995 và kinh nghiệm gần 20 năm đổi mới, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Sau hơn 09 năm thi hành,
BLDS cơ bản đã có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
cũng như đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách
nhiệm của chủ thể trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động v.v... (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự), thể hiện trên một số điểm
lớn sau đây:
Thứ nhất, BLDS đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung năm 2001) về tôn trọng, bảo vệ quyền công dân trong lĩnh vực dân sự; về thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN thông qua việc ghi nhận sự tồn tại của nhiều hình
thức sở hữu trong nền kinh tế ở nước ta, sự đa dạng và đồng bộ của các biện pháp bảo
vệ quyền sở hữu; hoàn thiện thêm một bước các quy định về quyền của người không
phải là chủ sở hữu; ghi nhận sự bình đẳng giữa các loại hình tổ chức sản xuất, kinh
doanh thuộc mọi thành phần kinh tế;
Thứ hai, BLDS đã góp phần thúc đẩy sự hình thành, phát triển của quan hệ thị
trường thông qua việc ghi nhận nguyên tắc tự do hợp đồng; hạn chế sự can thiệp quá
mức của cơ quan công quyền vào quá trình hình thành, tồn tại và vận động của các
quan hệ hàng hóa - tiền tệ; tạo cơ chế pháp lý để thực hiện tinh thần của Hiến pháp
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), theo đó, mọi cá nhân, tổ chức được làm những gì
mà pháp luật không cấm, với điều kiện các việc làm đó không vi phạm lợi ích công
cộng, đạo đức xã hội; ghi nhận nhiều biện pháp để bảo đảm sự an toàn về mặt pháp lý
cho các chủ thể trong các quan hệ dân sự nói chung và kinh doanh nói riêng. Nhờ có
các quy định có tính chất nền tảng này mà về cơ bản, các quan hệ thị trường ở nước ta
trong thời gian qua đã từng bước hình thành, phát triển;
Thứ ba, nhiều quy định trong BLDS đã có tính tương thích với thông lệ quốc tế,
góp phần thúc đẩy giao lưu dân sự, thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế
giới, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập
quốc tế;
Thứ tư, đối với hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, BLDS bước đầu
đã thể hiện được vai trò là luật chung, luật nền. Có được vai trò này là nhờ các quy
định của BLDS đã ghi nhận được những nguyên tắc và quy định cơ bản của việc điều
chỉnh pháp luật đối với quan hệ dân sự; đồng thời, đã bao quát được tương đối đầy đủ
các vấn đề của đời sống dân sự. Nhờ vậy, BLDS đã góp phần vào việc khắc phục được
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
7
một bước những mâu thuẫn, chồng chéo của hệ thống pháp luật về sở hữu, nghĩa vụ và
hợp đồng, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật dân sự nói riêng.
Tuy nhiên, bước sang giai đoạn phát triển mới của đất nước, trước yêu cầu thể chế
hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết số 48 - NQ/TW của Bộ Chính trị
về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW), Nghị quyết số 49-NQ/TW của
Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách Tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49NQ/TW) và đặc biệt là yêu cầu về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 thì BLDS hiện
hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nổi bật là các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, một trong những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN, đặc biệt sau
khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành là Nhà nước phải có cơ chế pháp lý để công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân về dân
sự. Tuy nhiên, một số quy định của BLDS hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu này
như:
(1) Chưa bảo đảm nguyên tắc quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế bởi luật trong
những trường hợp đặc biệt như Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận;
(2) Nhiều quy định về chủ thể, giao dịch, đại diện, nghĩa vụ và hợp đồng, thừa kế
còn bất hợp lý, thiếu tính khả thi;
(3) Chưa tạo được cơ chế pháp lý hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích của bên thứ ba
ngay tình, của bên thiện chí, bên yếu thế trong quan hệ dân sự… Hạn chế này lại càng
biểu hiện rõ nét trong bối cảnh hiện nay khi mà Hiến pháp năm 2013 đã đặt ra nhiều
yêu cầu mới trong việc bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công
dân;
Thứ hai, nhiều quy định của BLDS còn chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho
công cuộc xây dựng và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như:
(1) BLDS hiện hành dành rất nhiều quy định về quyền sở hữu, trong khi đó lại có
rất ít quy định về các loại quyền khác đối với tài sản (quyền của người không phải là
chủ sở hữu tài sản). Thực trạng này đã dẫn đến hậu quả là, pháp luật dân sự Việt Nam
nói chung và BLDS nói riêng chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và thuận lợi cho việc khai
thác, sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả các tài sản và các nguồn tài nguyên thiên
nhiên khác của đất nước;
(2) Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của bất cứ BLDS nào, trong đó có BLDS nước ta. Tuy nhiên, BLDS
hiện hành chưa ghi nhận đầy đủ các cơ chế pháp lý để thực hiện nhiệm vụ này, ví dụ
như chưa ghi nhận được nguyên tắc quyền của tất cả các chủ sở hữu, không phân biệt
hình thức sở hữu, thành phần kinh tế đều được pháp luật công nhận và bảo vệ như
nhau;
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
8
(3) Một số quy định của BLDS còn gò bó, không phù hợp với tính năng động của
nền kinh tế thị trường, do đó đã ảnh hưởng không tốt đến chất lượng và hiệu quả hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Ví dụ, theo quy định hiện hành về
điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì các giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố vô hiệu
do nhiều lý do khác nhau, do đó, không đảm bảo tính ổn định của quan hệ hợp đồng
như một yêu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường. Quy định hiện hành của BLDS về
việc một pháp nhân chỉ có thể có một đại diện theo pháp luật và chưa có quy định về
việc pháp nhân có thể là đại diện theo ủy quyền là không phù hợp với nhu cầu rất tự
nhiên, chính đáng của các doanh nghiệp về đại diện, chưa bảo đảm tính chuyên nghiệp
và tính nhanh nhạy trong quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, nhất là trong điều
kiện hiện nay khi mà các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng có nhu cầu và khả năng
mở rộng quy mô, địa bàn hoạt động của mình và việc tham gia tố tụng... Hạn chế này
phải được khắc phục sớm để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động
sản xuất, kinh doanh một cách thuận lợi, hiệu quả, góp phần xây dựng thành công nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta;
Thứ ba, trong hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, BLDS hiện hành
còn chưa thể hiện được một cách đầy đủ vị trí, vai trò của mình với tư cách là bộ luật
nền, luật chung, nhất là trong việc thực hiện ba chức năng:
(1) Quy định những vấn đề cơ bản nhất, chung nhất có liên quan đến tất cả các lĩnh
vực thuộc đời sống dân sự;
(2) Định hướng cho việc xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ
dân sự đặc thù;
(3) Khi các luật chuyên ngành không có quy định về một quan hệ dân sự thì quy
định của BLDS được áp dụng để điều chỉnh. Bất cập này càng được thể hiện rõ hơn
khi mà trong điều kiện hiện nay, bên cạnh BLDS, đã và đang tồn tại ngày càng nhiều
đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực dân sự đặc thù, như Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư,
Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản, Luật thương mại, Luật hôn
nhân và gia đình, Luật sở hữu trí tuệ, Bộ luật lao động,… Kết quả là, BLDS nói riêng
và hệ thống pháp luật dân sự nói chung còn chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về
tính ổn định, tính khái quát, tính hệ thống, tính dự báo và tính minh bạch trong hệ
thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền;
Thứ tư, cấu trúc của BLDS có điểm chưa hợp lý, chưa bảo đảm tính đồng bộ, tính
hệ thống, tính logic giữa các phần và chế định của Bộ luật. Nhiều quy định được lặp
lại giữa các phần và các chế định; một số quy định không bảo đảm tính rõ ràng, tạo ra
các cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật dân sự trong
thực tiễn.
Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả
của BLDS nói riêng, pháp luật dân sự nói chung; chưa thực sự tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như cho việc công nhận,
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
9
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền dân sự của người dân. Do đó, việc xây dựng
BLDS (sửa đổi) là rất cần thiết.
2.2. ĐIỂM MỚI VỀ HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG BLDS NĂM 2015
Việc xác định các hình thức sở hữu trong BLDS 2005 là chưa khoa học, tạo ra sự
phức tạp không cần thiết trong việc điều chỉnh pháp luật đối với các hình thức sở hữu.
Theo BLDS 2005, ở nước ta có 6 hình thức sở hữu (Điều 200 – Điều 232), bao
gồm: (1) sở hữu nhà nước; (2) sở hữu tập thể; (3) sở hữu tư nhân; (4) sở hữu chung;
(5) sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; (6) sở hữu của tổ chức
chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Việc phân
chia hình thức sở hữu dựa vào tính chất, chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể như vậy
là không hợp lý, cần phải thay đổi.
Thứ nhất, việc phân loại hình thức sở hữu căn cứ vào các loại hình tổ chức (như sở
hữu của tổ chức chính trị; tổ chức chính trị – xã hội; tổ chức xã hội…) là không có căn
cứ khoa học. Khi xác định một hình thức sở hữu nào đó thì phải xuất phát từ sự khác
biệt về nội dung quyền sở hữu (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt), về phương thức thực
hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản. Qua nghiên cứu cho thấy, nội
dung của quyền sở hữu được quy định trong BLDS hiện hành là không có gì khác
nhau đối với các hình thức sở hữu khác nhau, không có ý nghĩa về mặt pháp lý khi
không chỉ ra được sự khác biệt cơ bản giữa các hình thức sở hữu này, ngoại trừ việc
phân loại sở hữu riêng và sở hữu chung. Trong sở hữu chung thì khi chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản cần phải có sự thỏa thuận của các đồng chủ sở hữu; không
đồng chủ sở hữu nào được tự ý quyết định vấn đề gì. Đây là điểm khác biệt cơ bản của
hình thức sở hữu chung so với trường hợp tài sản là sở hữu riêng của một chủ thể (cá
nhân hoặc pháp nhân) vì các chủ thể này có toàn quyền quyết định các vấn đề liên
quan đến tài sản của mình mà không phải tính đến ý chí của người khác;
Thứ hai, về sở hữu tập thể (Điều 208 và Điều 209): theo quy định hiện hành thì sở
hữu tập thể là một hình thức sở hữu độc lập. Tuy nhiên, về cơ bản, đây chỉ là sở hữu
của pháp nhân là hợp tác xã. Nếu đã có quy định về sở hữu riêng là sở hữu của cá nhân
và pháp nhân thì không cần quy định một hình thức sở hữu độc lập là sở hữu tập thể
nữa vì hợp tác xã cũng là một loại hình cụ thể của pháp nhân;
Thứ ba, về sở hữu tư nhân: theo Điều 211 thì sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân
đối với tài sản hợp pháp của mình. Như vậy, quy định sở hữu tư nhân thực chất là sở
hữu của cá nhân là chưa đầy đủ, vì chưa bao quát được sở hữu của một loại chủ thể
pháp lý khác là pháp nhân. Về nguyên lý, sở hữu tư nhân phải được quy định như
là"sở hữu riêng" để bao quát được sở hữu của cả cá nhân lẫn của pháp nhân;
Thứ tư, về sở hữu chung: việc quy định về sở hữu chung hỗn hợp tại Điều 218 là
không có ý nghĩa pháp lý, vì bản chất nó là một loại sở hữu chung theo phần.
Vì vậy, chỉ nên quy định trong luật có 3 hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu nhà
nước, sở hữu riêng và sở hữu chung là phù hợp.
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
10
2.3. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 VỀ QUYỀN SỞ HỮU
TÀI SẢN RIÊNG
2.3.1. Sở hữu riêng và tài sản thuộc sở hữu riêng
Trước đây, quy định tại Điều 211, BLDS 2005, Sở hữu tư nhân là sở hữu của cá
nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể, sở
hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân.
Hiện nay, Điều 205, BLDS 2015 quy định này được gọi là “sở hữu riêng” thay vì
gọi là “sở hữu tư nhân”, quy định này nhằm bao trùm hết các đối tượng được quyền sở
hữu riêng, đó là cá nhân và pháp nhân (vì pháp nhân thành lập theo quy định của Bộ
Luật dân sự 2015 và luật khác có liên quan. Pháp nhân được thành lập theo sáng kiến
của cá nhân, pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
đăng ký pháp nhân bao gồm đăng ký thành lập, đăng ký thay đổi và đăng ký khác theo
quy định của pháp luật và phải được công bố công khai. Như vậy, pháp nhân phải
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc
công nhận nhằm tạo sự ngắn gọn, tránh rườm rà, gây trở ngại cho việc áp dụng pháp
luật). Ngoài ra, các tài sản hợp pháp của cá nhân và pháp nhân thuộc sở hữu riêng sẽ
không bị hạn chế về số lượng và giá trị, điều mà trong BLDS 2005 không nêu rõ.
“- Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân.
- Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị”.
2.3.2. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng
Bản chất nội dung của việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của tài sản thuộc sở hữu
riêng không có sự thay đổi so với Điều 213, BLDS 2005, chỉ thay đổi cụm từ “sở hữu
tư nhân” thành cụm từ “sở hữu riêng”. (Căn cứ 206 Bộ luật dân sự 2015)
“- Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu
riêng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục
đích khác không trái pháp luật.
- Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng không được gây
thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác”.
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
11
C. KẾT LUẬN
Từ trước đến nay, thái độ của Nhà nước ta và các quy định cụ thể của pháp luật
đối với từng hình thức sở hữu cụ thể cũng có những quy chế pháp lí khác nhau. Nhà
nước xác định nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đa dạng nhưng cũng xác định
các hình thức sở hữu cũng có khác nhau. Với việc nghiên cứu những quy định mới về
quyền sở hữu tài sản riêng, chúng ta sẽ có điều kiện quy định các phương thức tồn tại,
vận động của sở hữu gắn liền với các chủ sở hữu cụ thể cùng với các chế độ pháp lí có
tính chất đặc thù của hình thức sở hữu đó. Tuy còn một vài hạn chế nhất định nhưng
không thể phủ nhận những điểm hợp lí và tiến bộ của các quy định về hình thức sở
hữu riêng trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Mong rằng khi chúng ta áp dụng các quy
định mới về hình thức sở hữu riêng sẽ có những thay đổi phù hợp để đáp ứng tốt nhu
cầu của thực tế và điều chỉnh một cách phù hợp những quan hệ dân sự có liên quan
đến các hình thức sở hữu tài sản riêng.
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
12
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
…………………………………………………………………………………………...
……………,ngày ….. tháng …… năm 2017
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ luật Dân sự năm 2005;
[2] Bộ luật Dân sự năm 2015;
[3] Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 - NXB HỒNG ĐỨC,
PGS. TS Đỗ Văn Đại (Chủ biên);
[4] Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư
pháp, PGS.TS Hoàng Thế Liên (Chủ biên)
[5] Bộ luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
[6] Luật nhà ở năm 2014;
[7] />[8] />[9] />[9] />
GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết
SVTH: Vương Huy Thắng
14