Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

NHỮNG điểm mới của BLDS 2015 về sở hữu tài sản RIENG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.42 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................................2
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................................2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài..........................................................................................2
3. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài...........................................................2

3.1. Mục đích....................................................................................................2
3.2. Ý nghĩa......................................................................................................2
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu........................................................................3

4.1. Đối tượng...................................................................................................3
4.2. Phương pháp..............................................................................................3
5. Phạm vi nghiên cứu......................................................................................................3
6. Bố cục đề tài.................................................................................................................3
NỘI DUNG.......................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN SỞ HỮU................................3
TÀI SẢN RIÊNG.............................................................................................................3

1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN..........................3
1.1.1 Khái niệm về tài sản.............................................................................3
1.1.2 Khái niệm về quyền sở hữu..................................................................4
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định
đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật........................................5
1.1.3. Các hình thức sở hữu...........................................................................5
1.2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ SỞ HỮU RIÊNG..............5
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm........................................................................5
1.2.2. Chủ thể của sở hữu riêng.....................................................................6
1.2.3. Khách thể của sở hữu riêng.................................................................6
1.2.4. Nội dung của sở hữu riêng..................................................................6
CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 VỀ.......................6


SỞ HỮU RIÊNG..............................................................................................................6

2.2. ĐIỂM MỚI VỀ HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG BLDS NĂM 2015.......9
2.3. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 VỀ SỞ HỮU
RIÊNG............................................................................................................10
KẾT LUẬN.........................................................................................................................12
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................14

SVTH: Vương Huy Thắng

Lớp K713LHV.KT 1

GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế của thế kỷ 21 hiện nay vấn đề quyền sở hữu là hết sức quan
trọng, việc ban hành các chế định liên quan đến quyền sở hữu một vấn đề đang đặt
ra. Để bảo đảm tính bao quát, ổn định, minh bạch, công khai huy động và phát huy
được các nguồn lực vật chất trong các quan hệ liên quan đến tài sản, trật tự, an toàn
xã hội, Bộ luật dân sự 2015 (BLDS 2015) đã bổ sung quy định về quyền sở hữu tài
sản và bất động sản; tài sản có thể là vật, tiền, giấy có giá, quyền tài sản đối với các
đối tượng sở hữu trí tuệ. Trong hệ thống pháp luật nhiều quốc gia, quyền sở hữu
luôn được ghi nhận là quyền cơ bản của con người. Với ý nghĩa là cơ sở cho mọi
quan hệ kinh tế, chi phối chế độ kinh tế trong xã hội, quyền sở hữu được pháp luật
bằng nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, với tình hình phát triển như hiện
nay, một nền kinh tế thị trường hội nhập và đời sống của người dân không ngừng
đổi mới, nảy sinh ra nhiều mối quan hệ kinh tế - xã hội liên quan đến quyền sở hữu

tài sản riêng. Để tìm hiểu về những vấn đề về quyền sở hữu tài sản riêng, liên hệ
với các quy định mới trong Bộ luật dân sự 2015 về quy định căn cứ sở hữu tài sản
riêng. Tôi xin chọn đề tài về “Những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015 về
sở hữu riêng”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có không ít công trình nghiên cứu ở Việt Nam về vấn đề quyền sở hữu tài
sản riêng. Tuy nhiên, để tìm hiểu rõ ràng về vấn đề này, cần tiếp cận theo phương
pháp đánh giá tính khả thi của các quy định, chế định về quyền sở hữu tài sản riêng
đã được đề cập trong thời gian qua. Tìm hiểu cả về cơ sơ lí luận và cơ sở thực tiễn
để nắm rõ về tình hình quyền sở hữu tài sản riêng trong thực tế pháp luật Việt Nam
hiện nay. Vì vậy tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm rõ hơn những vấn đề những
điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015 về quyền sở hữu tài sản riêng.
3. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở khoa học của các của các quy định chung về quyền sở hữu tài sản
riêng, nhằm mục đích phát triển nội dung khoa học của các nội dung đó, làm rõ nội
dung của các quy định tìm ra những điểm mới trong BLDS 2015 so với BLDS
2005.
3.2. Ý nghĩa
Nghiên cứu đề tài môn học này giúp cho chúng ta hiểu được những quy định
của pháp luật về căn cứ quyền sở hữu tài sản riêng. Đề tài này cũng giúp cho chúng
ta hiểu được việc Sở hữu hay quyền hữu cần được ghi nhận và thể hiện một cách
nhất quán trong các quy định về tài sản và sở hữu cũng như các quy định liên quan.
Chế định quyền sở hữu được ghi nhận với tư cách là một chế định độc lập.

SVTH: Vương Huy Thắng

Lớp K713LHV.KT 2

GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết



4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Nghiên cứu những điểm mới trong các chế định về quyền sở hữu tài sản riêng
được quy định trong BLDS 2015 so với BLDS 2005. Đây là đối tượng của quyền
sở hữu tài sản nói chung và là khách thể của các quan hệ pháp luật dân sự.
4.2. Phương pháp
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, trên cơ sở những kiến thức lý luận và thực
tiễn của bản thân. Tôi dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng với các biện
pháp như: phân tích, tổng hợp quy phạm pháp luật, phương pháp so sánh pháp luật,
liệt kê. Bên cạnh đó, tham khảo một số giáo trình, tài liệu, trong qua trình nghiên
cứu có sự trao đổi với cô giáo bộ môn và qua thực tiễn.
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài này tôi chỉ nghiên cứu về các quy định của
pháp luật về quyền sở hữu tài sản riêng, trên phương diện cơ sở các quy định pháp
luật dân sự nhằm làm rõ những điểm mới của các chế định pháp lý về quyền sở
hữu tài sản riêng trong BLDS 2015.
6. Bố cục đề tài
Đề tài gồm 03 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần nội
dung bao gồm 02 Chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quyền sở hữu tài sản riêng.
Chương 2. Những điểm mới của Bộ Luật dân sự 2015 về quyền sở hữu tài sản
riêng.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN SỞ HỮU
TÀI SẢN RIÊNG
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN
1.1.1 Khái niệm về tài sản

SVTH: Vương Huy Thắng

Lớp K713LHV.KT 3

GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết


Tài sản luôn được coi là một điều kiện vật chất để duy trì các hoạt động trong
lĩnh vực kinh tế và đời sống xã hội. Khái niệm về tài sản chắc chắn đã được hình
thành từ rất lâu, gần như song song với lịch sử hình thành loại người. Tài sản là
một công cụ của đời sống xã hội nên khái niệm về tài sản không phải là một khái
niệm thuần túy có tính học thuật mà lá một khái niệm có tính mục đích cao. Khái
niệm này đáp ứng được các nhu cầu cấp thiết của xã hội. Tài sản không thể được
xem xét tách rời các giá trị xã hội.
Có thể nói, tài sản là của cải được con người sử dụng. Theo nghĩa này thì tài
sản luôn biến đổi và phát triển cùng với sự thay đổi của thời gian, của điều kiện xã
hội, của sự nhận thức con người về giá trị vật chất nên phạm vi của tài sản qua mỗi
thời kỳ lại được nhìn nhận ở một góc độ khác nhau. Có thể nhận thấy tài sản là
khách thể của quyền sở hữu, nó có thể là đối tượng của thế giới vật chất hoặc là kết
quả của các hoạt động sáng tạo tinh thần.
Do đó ta có thể nêu khái niệm về TÀI SẢN (Căn cứ theo điều 105 Bộ luật
dân sự năm 2015) như sau:
1- Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản;
2- Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có
thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.
1.1.2 Khái niệm về quyền sở hữu
Muốn hiểu được quyền sở hữu chung trước hết ta phải hiểu được quyền sở
hữu.
Quyền sở hữu là chỉ tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và

định đoạt các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.
Quyền sở hữu là chỉ tổng hợp các qui phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt các tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Khái niệm quyền sở hữu được
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
Theo nghĩa khách quan đó là toàn bộ các quy định của Nhà nước về vấn đề sở
hữu, Quy định về quyền sở hữu trong các ngành luật khác nhau.
Theo nghĩa chủ quan đó là toàn bộ những hành vi mà chủ sở hữu được pháp
luật cho phép thực hiện trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo ý
chí của mình.
Quyền sở hữu bao giờ cũng gắn liền với chủ thể nên được coi là quyền tuyệt
đối. Quyền sở hữu còn được hiểu là quan hệ pháp luật dân sự bao gồm 3 yếu tố:
chủ thể, khách thể và nội dung.
Khái niệm quyền sở hữu vừa là một phạm trù kinh tế vừa là một phạm trù
pháp lý:
Là phạm trù kinh tế, sở hữu thể hiện các quan hệ sản xuất xã hội, phương
thức chiếm hữu và phân phối trong từng hình thái kinh tế- xã hội và quan hệ xã hội
SVTH: Vương Huy Thắng

Lớp K713LHV.KT 4

GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết


nhất định. Sở hữu là việc tài sản, thành quả lao động, tư liệu sản xuất thuộc về ai,
do đó nó thể hiện quan hệ giữa người với người trong quá trình tạo ra và phân phối
các thành quả vật chất.
Là phạm trù pháp lý, quyền sở hữu mang tính chất chủ quan vì nó là sự ghi
nhận của Nhà nước, nhưng Nhà nước không thể đặt ra quyền sở hữu theo ý chí chủ
quan của mình mà quyền sở hữu được qui định trước hết bởi nội dung kinh tế xã

hội, tức là thể chế hoá những quan hệ chiếm hữu, sử dụng và định đoạt những của
cải vật chất do con người tạo ra.
Khái niệm quyền sở hữu (theo Điều 158 BLDS năm 2015) như sau:
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt
tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.
1.1.3. Các hình thức sở hữu
BLDS 2015 quy định tại Mục 02, Chương XI về các hình thức sở hữu (từ
Điều 197 đến Điều 220), trong đó có 03 hình thức sở hữu đó là sở hữu toàn dân, sở
hữu riêng và sở hữu chung. Ở mỗi hình thức sở hữu, chủ sở hữu có những cách
thức thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản trong những
giới hạn và phạm vi khác nhau.
- Hình thức sở hữu toàn dân: Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng
sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do
Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Quy định về tài sản như trên thuộc sở hữu
toàn dân để nhấn mạnh quyền sở hữu của toàn dân đối với các tài sản đó được ghi
nhận tại Điều 53, 54 của Hiến pháp năm 2013, còn Nhà nước là công cụ để nhân
dân thực hiện quyền lực dưới hình thức dân chủ đại diện.
- Sở hữu riêng: là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân. BLDS 2015
quy định lại là chỉ có chủ thể của sở hữu riêng là cá nhân và pháp nhân (Pháp nhân
thành lập theo quy định của Bộ Luật dân sự 2015 và luật khác có liên quan. Pháp
nhân phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập,
đăng ký hoặc công nhận).
- Sở hữu chung: là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản. Trong thực tế đó
là việc một tài sản nhưng thuộc sở hữu của nhiều người. Khi đó việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản của chủ thể này lại có ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ
thể khác.
1.2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ SỞ HỮU RIÊNG
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm
Trong các hình thức sở hữu được quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 thì hình

thức sở hữu riêng được quy định tại Tiểu mục 02 và 02 Điều 205, Điều 206. BLDS
2015 đưa ra khái niệm và phân loại sở hữu riêng trong Điều 205 như sau:
“1. Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân.
2. Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị.”
SVTH: Vương Huy Thắng

Lớp K713LHV.KT 5

GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết


Theo Điều 211, BLDS 2005 thì sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân đối với
tài sản hợp pháp của mình. Như vậy, quy định sở hữu tư nhân thực chất là sở hữu
của cá nhân là chưa đầy đủ, vì chưa bao quát được sở hữu của một loại chủ thể
pháp lý khác là pháp nhân. Về nguyên lý, sở hữu tư nhân phải được quy định như
là"sở hữu riêng" để bao quát được sở hữu của cả cá nhân lẫn của pháp nhân; là sở
hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân. BLDS 2015 quy định lại là chỉ có chủ
thể của sở hữu riêng là cá nhân và pháp nhân (Pháp nhân thành lập theo quy định
của Bộ Luật dân sự 2015 và luật khác có liên quan. Pháp nhân phải được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận).
1.2.2. Chủ thể của sở hữu riêng
Chủ thể của sở hữu riêng đó là cá nhân và pháp nhân; bất kỳ cá nhân công
dân nào không phân biệt mức độ năng lực dân sự hoặc pháp nhân thành lập theo
quy định của Bộ Luật dân sự 2015 và luật khác có liên quan. Pháp nhân phải được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công
nhận đều có thể là chủ sở hữu. Tuy nhiên để thực hiện các quyền năng của quyền
sở hữu thì không phải cá nhân, pháp nhân nào cũng thực hiện được mà điều đó còn
phải tùy thuộc vào khả năng nhận thức, năng lực hành vi của cá nhân, pháp nhân.
Do đó, trong một số trường hợp nếu cá nhân, pháp nhân không thực hiện được
quyền năng của quyền sở hữu thì quyền năng này được thực hiện thông qua người

đại diện...
1.2.3. Khách thể của sở hữu riêng
Khách thể của sở hữu riêng là những tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân,
pháp nhân. Tài sản thuộc sở hữu riêng được pháp luật quy định rất đa dạng về căn
cứ phát sinh, không giới hạn về số lượng và giá trị tài sản “Tài sản hợp pháp thuộc
sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị.” (Điều 205, BLDS 2015).
1.2.4. Nội dung của sở hữu riêng
Nội dung của quyền sở hữu riêng của cá nhân, pháp nhân được thể hiện ở
những việc làm như chi phối tài sản thông qua các quyền năng chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản. Cá nhân và pháp nhân có thể thực hiện các quyền này một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản thuộc sở hữu riêng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất,
kinh doanh và các mục đích khác không trái pháp luật.

CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 VỀ
SỞ HỮU RIÊNG
2.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015.
Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày
14/6/2005 trên cơ sở kế thừa truyền thống của pháp luật dân sự Việt Nam, phát huy
thành tựu của BLDS năm 1995 và kinh nghiệm gần 20 năm đổi mới, xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Sau hơn 09 năm thi
SVTH: Vương Huy Thắng

Lớp K713LHV.KT 6

GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết


hành, BLDS cơ bản đã có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước cũng như đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan

hệ xã hội được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự
chịu trách nhiệm của chủ thể trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động v.v... (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự), thể hiện
trên một số điểm lớn sau đây:
Thứ nhất, BLDS đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2001) về tôn trọng, bảo vệ quyền công dân trong lĩnh vực dân sự;
về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN thông qua việc ghi nhận sự tồn tại
của nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế ở nước ta, sự đa dạng và đồng bộ của
các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu; hoàn thiện thêm một bước các quy định về
quyền của người không phải là chủ sở hữu; ghi nhận sự bình đẳng giữa các loại
hình tổ chức sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế;
Thứ hai, BLDS đã góp phần thúc đẩy sự hình thành, phát triển của quan hệ
thị trường thông qua việc ghi nhận nguyên tắc tự do hợp đồng; hạn chế sự can
thiệp quá mức của cơ quan công quyền vào quá trình hình thành, tồn tại và vận
động của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ; tạo cơ chế pháp lý để thực hiện tinh thần
của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), theo đó, mọi cá nhân, tổ chức
được làm những gì mà pháp luật không cấm, với điều kiện các việc làm đó không
vi phạm lợi ích công cộng, đạo đức xã hội; ghi nhận nhiều biện pháp để bảo đảm
sự an toàn về mặt pháp lý cho các chủ thể trong các quan hệ dân sự nói chung và
kinh doanh nói riêng. Nhờ có các quy định có tính chất nền tảng này mà về cơ bản,
các quan hệ thị trường ở nước ta trong thời gian qua đã từng bước hình thành, phát
triển;
Thứ ba, nhiều quy định trong BLDS đã có tính tương thích với thông lệ quốc
tế, góp phần thúc đẩy giao lưu dân sự, thương mại giữa Việt Nam với các nước trên
thế giới, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về hội
nhập quốc tế;
Thứ tư, đối với hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, BLDS
bước đầu đã thể hiện được vai trò là luật chung, luật nền. Có được vai trò này là
nhờ các quy định của BLDS đã ghi nhận được những nguyên tắc và quy định cơ
bản của việc điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ dân sự; đồng thời, đã bao quát

được tương đối đầy đủ các vấn đề của đời sống dân sự. Nhờ vậy, BLDS đã góp
phần vào việc khắc phục được một bước những mâu thuẫn, chồng chéo của hệ
thống pháp luật về sở hữu, nghĩa vụ và hợp đồng, góp phần bảo đảm tính thống
nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng.
Tuy nhiên, bước sang giai đoạn phát triển mới của đất nước, trước yêu cầu thể
chế hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết số 48 - NQ/TW của Bộ
Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW), Nghị quyết số
SVTH: Vương Huy Thắng

Lớp K713LHV.KT 7

GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết


49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách Tư pháp đến năm 2020 (Nghị
quyết số 49-NQ/TW) và đặc biệt là yêu cầu về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế được ghi nhận trong Hiến pháp
năm 2013 thì BLDS hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nổi bật là các vấn
đề sau đây:
Thứ nhất, một trong những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền XHCN, đặc
biệt sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành là Nhà nước phải có cơ chế pháp
lý để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền
công dân về dân sự. Tuy nhiên, một số quy định của BLDS hiện hành chưa đáp
ứng được yêu cầu này như:
(1) Chưa bảo đảm nguyên tắc quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế bởi luật
trong những trường hợp đặc biệt như Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận;
(2) Nhiều quy định về chủ thể, giao dịch, đại diện, nghĩa vụ và hợp đồng,
thừa kế còn bất hợp lý, thiếu tính khả thi;

(3) Chưa tạo được cơ chế pháp lý hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích của bên
thứ ba ngay tình, của bên thiện chí, bên yếu thế trong quan hệ dân sự… Hạn chế
này lại càng biểu hiện rõ nét trong bối cảnh hiện nay khi mà Hiến pháp năm 2013
đã đặt ra nhiều yêu cầu mới trong việc bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con
người, quyền công dân;
Thứ hai, nhiều quy định của BLDS còn chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi
cho công cuộc xây dựng và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN như:
(1) BLDS hiện hành dành rất nhiều quy định về quyền sở hữu, trong khi đó
lại có rất ít quy định về các loại quyền khác đối với tài sản (quyền của người không
phải là chủ sở hữu tài sản). Thực trạng này đã dẫn đến hậu quả là, pháp luật dân sự
Việt Nam nói chung và BLDS nói riêng chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và thuận lợi
cho việc khai thác, sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả các tài sản và các nguồn
tài nguyên thiên nhiên khác của đất nước;
(2) Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu luôn được coi là một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu của bất cứ BLDS nào, trong đó có BLDS nước ta. Tuy nhiên,
BLDS hiện hành chưa ghi nhận đầy đủ các cơ chế pháp lý để thực hiện nhiệm vụ
này, ví dụ như chưa ghi nhận được nguyên tắc quyền của tất cả các chủ sở hữu,
không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế đều được pháp luật công
nhận và bảo vệ như nhau;
(3) Một số quy định của BLDS còn gò bó, không phù hợp với tính năng động
của nền kinh tế thị trường, do đó đã ảnh hưởng không tốt đến chất lượng và hiệu
quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Ví dụ, theo quy định
hiện hành về điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì các giao dịch dân sự có thể bị
tuyên bố vô hiệu do nhiều lý do khác nhau, do đó, không đảm bảo tính ổn định của
SVTH: Vương Huy Thắng

Lớp K713LHV.KT 8

GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết



quan hệ hợp đồng như một yêu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường. Quy định
hiện hành của BLDS về việc một pháp nhân chỉ có thể có một đại diện theo pháp
luật và chưa có quy định về việc pháp nhân có thể là đại diện theo ủy quyền là
không phù hợp với nhu cầu rất tự nhiên, chính đáng của các doanh nghiệp về đại
diện, chưa bảo đảm tính chuyên nghiệp và tính nhanh nhạy trong quản lý, điều
hành sản xuất kinh doanh, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà các doanh
nghiệp Việt Nam ngày càng có nhu cầu và khả năng mở rộng quy mô, địa bàn hoạt
động của mình và việc tham gia tố tụng... Hạn chế này phải được khắc phục sớm
để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh
một cách thuận lợi, hiệu quả, góp phần xây dựng thành công nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta;
Thứ ba, trong hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, BLDS hiện
hành còn chưa thể hiện được một cách đầy đủ vị trí, vai trò của mình với tư cách là
bộ luật nền, luật chung, nhất là trong việc thực hiện ba chức năng:
(1) Quy định những vấn đề cơ bản nhất, chung nhất có liên quan đến tất cả
các lĩnh vực thuộc đời sống dân sự;
(2) Định hướng cho việc xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan
hệ dân sự đặc thù;
(3) Khi các luật chuyên ngành không có quy định về một quan hệ dân sự thì
quy định của BLDS được áp dụng để điều chỉnh. Bất cập này càng được thể hiện
rõ hơn khi mà trong điều kiện hiện nay, bên cạnh BLDS, đã và đang tồn tại ngày
càng nhiều đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực dân sự đặc thù, như Luật doanh
nghiệp, Luật đầu tư, Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản, Luật
thương mại, Luật hôn nhân và gia đình, Luật sở hữu trí tuệ, Bộ luật lao động,…
Kết quả là, BLDS nói riêng và hệ thống pháp luật dân sự nói chung còn chưa đáp
ứng được đầy đủ các yêu cầu về tính ổn định, tính khái quát, tính hệ thống, tính dự
báo và tính minh bạch trong hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền;
Thứ tư, cấu trúc của BLDS có điểm chưa hợp lý, chưa bảo đảm tính đồng bộ,

tính hệ thống, tính logic giữa các phần và chế định của Bộ luật. Nhiều quy định
được lặp lại giữa các phần và các chế định; một số quy định không bảo đảm tính rõ
ràng, tạo ra các cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật
dân sự trong thực tiễn.
Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và
hiệu quả của BLDS nói riêng, pháp luật dân sự nói chung; chưa thực sự tạo môi
trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như
cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền dân sự của người dân.
Do đó, việc xây dựng BLDS (sửa đổi) là rất cần thiết.
2.2. ĐIỂM MỚI VỀ HÌNH THỨC SỞ HỮU TRONG BLDS NĂM 2015
Việc xác định các hình thức sở hữu trong BLDS 2005 là chưa khoa học, tạo ra
sự phức tạp không cần thiết trong việc điều chỉnh pháp luật đối với các hình thức
SVTH: Vương Huy Thắng

Lớp K713LHV.KT 9

GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết


sở hữu. Theo BLDS 2005, ở nước ta có 6 hình thức sở hữu (Điều 200 – Điều 232),
bao gồm: (1) sở hữu nhà nước; (2) sở hữu tập thể; (3) sở hữu tư nhân; (4) sở hữu
chung; (5) sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; (6) sở hữu của tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
Việc phân chia hình thức sở hữu dựa vào tính chất, chức năng, nhiệm vụ của các
chủ thể như vậy là không hợp lý, cần phải thay đổi.
Thứ nhất, việc phân loại hình thức sở hữu căn cứ vào các loại hình tổ chức
(như sở hữu của tổ chức chính trị; tổ chức chính trị – xã hội; tổ chức xã hội…) là
không có căn cứ khoa học. Khi xác định một hình thức sở hữu nào đó thì phải xuất
phát từ sự khác biệt về nội dung quyền sở hữu (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt), về
phương thức thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản. Qua nghiên

cứu cho thấy, nội dung của quyền sở hữu được quy định trong BLDS hiện hành là
không có gì khác nhau đối với các hình thức sở hữu khác nhau, không có ý nghĩa
về mặt pháp lý khi không chỉ ra được sự khác biệt cơ bản giữa các hình thức sở
hữu này, ngoại trừ việc phân loại sở hữu riêng và sở hữu chung. Trong sở hữu
chung thì khi chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản cần phải có sự thỏa thuận của
các đồng chủ sở hữu; không đồng chủ sở hữu nào được tự ý quyết định vấn đề gì.
Đây là điểm khác biệt cơ bản của hình thức sở hữu chung so với trường hợp tài sản
là sở hữu riêng của một chủ thể (cá nhân hoặc pháp nhân) vì các chủ thể này có
toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến tài sản của mình mà không phải
tính đến ý chí của người khác;
Thứ hai, về sở hữu tập thể (Điều 208 và Điều 209): theo quy định hiện hành
thì sở hữu tập thể là một hình thức sở hữu độc lập. Tuy nhiên, về cơ bản, đây chỉ là
sở hữu của pháp nhân là hợp tác xã. Nếu đã có quy định về sở hữu riêng là sở hữu
của cá nhân và pháp nhân thì không cần quy định một hình thức sở hữu độc lập là
sở hữu tập thể nữa vì hợp tác xã cũng là một loại hình cụ thể của pháp nhân;
Thứ ba, về sở hữu tư nhân: theo Điều 211 thì sở hữu tư nhân là sở hữu của cá
nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Như vậy, quy định sở hữu tư nhân thực
chất là sở hữu của cá nhân là chưa đầy đủ, vì chưa bao quát được sở hữu của một
loại chủ thể pháp lý khác là pháp nhân. Về nguyên lý, sở hữu tư nhân phải được
quy định như là"sở hữu riêng" để bao quát được sở hữu của cả cá nhân lẫn của
pháp nhân;
Thứ tư, về sở hữu chung: việc quy định về sở hữu chung hỗn hợp tại Điều
218 là không có ý nghĩa pháp lý, vì bản chất nó là một loại sở hữu chung theo
phần.
Vì vậy, chỉ nên quy định trong luật có 03 hình thức sở hữu chủ yếu là sở hữu
nhà nước, sở hữu riêng và sở hữu chung là phù hợp.
2.3. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015 VỀ SỞ HỮU
RIÊNG
2.3.1. Sở hữu riêng và tài sản thuộc sở hữu riêng
SVTH: Vương Huy Thắng


Lớp K713LHV.KT 10

GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết


Trước đây, quy định tại Điều 211, BLDS 2005, Sở hữu tư nhân là sở hữu của
cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể,
sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân.
Hiện nay, Điều 205, BLDS 2015 quy định này được gọi là “sở hữu riêng”
thay vì gọi là “sở hữu tư nhân”, quy định này nhằm bao trùm hết các đối tượng
được quyền sở hữu riêng, đó là cá nhân và pháp nhân (vì pháp nhân thành lập theo
quy định của Bộ Luật dân sự 2015 và luật khác có liên quan. Pháp nhân được
thành lập theo sáng kiến của cá nhân, pháp nhân hoặc theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền; đăng ký pháp nhân bao gồm đăng ký thành lập,
đăng ký thay đổi và đăng ký khác theo quy định của pháp luật và phải được công
bố công khai. Như vậy, pháp nhân phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận nhằm tạo sự ngắn gọn,
tránh rườm rà, gây trở ngại cho việc áp dụng pháp luật). Ngoài ra, các tài sản hợp
pháp của cá nhân và pháp nhân thuộc sở hữu riêng sẽ không bị hạn chế về số lượng
và giá trị, điều mà trong BLDS 2005 không nêu rõ.
“- Sở hữu riêng là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân.
- Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị”.
2.3.2. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng
Bản chất nội dung của việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của tài sản thuộc
sở hữu riêng không có sự thay đổi so với Điều 213, BLDS 2005, chỉ thay đổi cụm
từ “sở hữu tư nhân” thành cụm từ “sở hữu riêng”. (Căn cứ 206 Bộ luật dân sự
2015)
“- Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu
riêng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục

đích khác không trái pháp luật.
- Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng không được
gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.

SVTH: Vương Huy Thắng

Lớp K713LHV.KT 11

GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết


KẾT LUẬN
Từ trước đến nay, thái độ của Nhà nước ta và các quy định cụ thể của pháp
luật đối với từng hình thức sở hữu cụ thể cũng có những quy chế pháp lí khác
nhau. Nhà nước xác định nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đa dạng nhưng
cũng xác định các hình thức sở hữu cũng có khác nhau. Với việc nghiên cứu những
quy định mới về quyền sở hữu tài sản riêng, chúng ta sẽ có điều kiện quy định các
phương thức tồn tại, vận động của sở hữu gắn liền với các chủ sở hữu cụ thể cùng
với các chế độ pháp lí có tính chất đặc thù của hình thức sở hữu đó. Tuy còn một
vài hạn chế nhất định nhưng không thể phủ nhận những điểm hợp lí và tiến bộ của
các quy định về hình thức sở hữu riêng trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Mong rằng
khi chúng ta áp dụng các quy định mới về hình thức sở hữu riêng sẽ có những thay
đổi phù hợp để đáp ứng tốt nhu cầu của thực tế và điều chỉnh một cách phù hợp
những quan hệ dân sự có liên quan đến các hình thức sở hữu tài sản riêng.

SVTH: Vương Huy Thắng

Lớp K713LHV.KT 12


GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Kon Tum, ngày ….. tháng 4 năm 2017
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

SVTH: Vương Huy Thắng

Lớp K713LHV.KT 13


GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ luật Dân sự năm 2005;
[2] Bộ luật Dân sự năm 2015;
[3] Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 - NXB HỒNG
ĐỨC, PGS. TS Đỗ Văn Đại (Chủ biên);
[4] Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư
pháp, PGS.TS Hoàng Thế Liên (Chủ biên)
[5] Bộ luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
[6] Luật nhà ở năm 2014;
[7] />[8] />[9] />[9] />
SVTH: Vương Huy Thắng

Lớp K713LHV.KT 14

GVHD: Châu Thị Ngọc Tuyết



×