Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.27 KB, 28 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là những vấn đề lý luận có ý
nghĩa lịch sử và thời đại hết sức sâu sắc. Độc lập dân tộc thực chất là vấn đề
dân tộc. Chủ nghĩa xã hội thực chất là vấn đề giai cấp. Đây là hai vấn đề lớn,
hai nguồn sức mạnh,vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt
Nam. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, lần đầu tiên, bài
học này được nêu lên: “Đảng Cộng sản Việt Nam, từ khi ra đời đến nay, vẫn
loan loan giương cao ngọn cờ độc lập l dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là
đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc thắng lợicủa cách mạng Việt Nam”1.
Đây là bài học lớn, nhất quán, xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam.
Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nhân tố bản chất
trong đường lối sách lược cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Kết quả
cuộc khảo cứu thế giới đã đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
nhận rõ chân lý của thời đại: muốn độc lập thất sự cho dân tộc, tự do hạnh
phúc hoàn toàn cho nhân dân chỉ có con đường độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: Trong thời đại ngày nay, cách
mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản
thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã
hội chủ nghĩa thì mới giành được độc lập hoàn toàn. Theo Hồ Chí Minh, chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị
áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Vì vậy, toàn bộ
hoạt động tư duy và thực tiễn của Người chỉ tập trung vào “chống thực dân,
đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội”.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị Đại hội IV, Nxb ST, H, năm 1977,
trang.40.



Tư tưởng Hồ Chí Minh - con đường Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn với chủ nghĩa xã hội là sản phẩm của thời đại, không chỉ đáp ứng
nguyện vọng Tổ quốc được độc lập, mọi người dân Việt Nam được tự do,
hạnh phúc, mà còn phù hợp với thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới sau mở đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917.
Như vậy, ở Việt Nam, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề cập tới con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội Hơn thế, Hồ Chí Minh
là người đi tiên phong đóng góp lớn nhất trong cuộc đấu tranh cho hiện thực
con đường đó. Tư tưởng Hồ Chí Mnih về độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội - giành độc lập dân tộc để lên chủ nghĩa xã hội được thực tiễn
cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua chứng minh là con đường duy nhất
đúng đắn. Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18-2-1998 của Bộ Chính trị Đảng
Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn”.
II. Tình hình nghiên cứu của đề tài:
Vấn đề độc lập dân tộc và CNXH đã được quan tâm nghiên cứu. Đặc
biệt từ khi độc lập dân tộc và CNXH ở Viết Nam thì vấn đề này trở thành
vấn đề thời sự cấp bách. Đồng thời đề tài sẽ đi sau vào phân tích một tư
tuởng cụ thể của nhà sáng lập tư tưởng Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
đã đề ra độc lập dân tộc và CNXH.
III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
1. Mục đích.
- Đề tài nhằm giúp cho bản thân nhận được sâu hơn về độc lập dân tộc
và CNXH mà nhà tư tưởng đã trình bày trong các dân tộc.
- Qua nghiên cứu về đề tài, bản thân sẽ nắm được sơ lược sự hình
thành và phát triển tư tưởng đôc lập dân tộc và CNXH của Mác- Lênin; Tư


tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời biết được qua trình vạn dựng lý luận thời đại

của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Nhiệm vụ.
- Đề tài đi sau và làm rõ quá trình phát triển tư tưởng độc lập dân tộc
của Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong công cuộc đổi mới đất nược.
IV. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài không có tham vọng nhiều mà chỉ nghiêu cứu toàn bộ các tư
tưởng mà các nhà sáng lập CNXH KH đã trình bày về luận điểm ngọn cờ
độc lập dân tộc và CNXH là những các dân tộc tiêu biểu như: “Tư tưởng
HồChí Minh đã được Đảng Cộng sản Việt Nam phê phán độc lập dân tộc là
hai ngọn cờ của cuộc cách mạng”.
V. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài chủ yếu dùng phương pháp phân tích tổng hơn, ngoài ra còn sư
dụng kết hộp các phương pháp khác.
VI. Kết cấu đề tài.
Ngoại phần mở đầu-nội dung và kết luận, đề tài được chia ra làm 3
phận.
1. Dương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở Viết Nam.
2. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH trong công cuộc xây
dựng CNXH ở Viết Nam.
3. Kết luận.


B. NỘI DUNG
I. DƯƠNG CAO NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI TRONG CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn kiền với chủ nghĩa
xã hội

- Không có gì quý hơn độc lập tự do:
Là điểm xuất phát của tư tưởng Hồ Chí Minh, từ một thành niện thuộc
địa, mất nước, ra đi tìm đường cứu nước, mục tiêu trước mắt của Người là
giải phóng dân tộc. Vấn đề đặt ra là trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở
thành một hệ thống thế giới, các dân tộc thuộc địa có thể bằng con đường
nào giành được thắng lợi? Dưới ánh sáng luận cương về vấn đề này để dân
tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin và tấm gương cách mạng Tháng Mười
Nga, Người đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc mình và cho đất
nước tất cả các dân tộc thuộc địa. Người khẳng định: “chỉ có chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai
cấp công nhân toàn thế giới”1.
Người đưa ra hình ảnh ao ánh nổi tiếng. Chủ nghĩa đế quốc là “con
đỉa hai vời”, do đó cách mạng giải phóng dân tộc muốn thăng lợi với vô sản
ở chính quốc nhịp nhàng như hai cánh của một con chim. Vì bóc lột thuộc
địa là một trong hai nguồn sống chủ nghĩa tư bản, cho nên muốn đánh đổ
chủ nghĩa đế quốc trước hết phải xoá bỏ thuộc địa của chúng đi. Do đó, cách
mạng cách mạng thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng.
1

Tất cả những cần trách không có chú thính đều được rút ra từ trong bộ Hồ Chí Minh
toàn tập.


- Muốn có độc lập dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sảncách mạng xã hội chủ nghĩa:
Thực tiễn lịch sử của các cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp đến đầu
thế kỷ XX đã chứng tỏ rằng: không thể giành độc lập dân tộc dựa trên những
quan điểm phong kiến, hay tư sản. Trải qua qúa trình khảo sát thực tiễn và lý
luận từ Đông sang Tây, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng đình: “Chỉ có chủ nghĩa
Cộng Sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng
tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất,

việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc”1.
Trong “Chánh cương vắn tắt”của Đảng được thông qua tại Hội nghị
hợp nhất dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “chủ trương làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”2.
Gắn mục tiêu giải phóng dân tộc với con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội là thành quả lý luận cơ bản đã mở ra một trang sử mới cho cách mạng
Việt Nam. Thực tiễn cách mạng sinh động sau khi Đảng ra đời đã khẳng
định: mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là vấn đề mang tính
nguyên tắc của cách mạng Việt Nam trong qúa trình vận động đó, độc lập
dân tộc từng bước được khẳng định là nhiệm vụ hàng đầu. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ VIII (tháng 5-1941) đã chỉ rõ: “Trong lúc này
quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của
quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân
tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng
những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi
của cán bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”3

1
2
3

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, t.1, tr. 461.
Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 1998, t.2,tr.2.
Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, t.7,tr.113.


Mục tiêu độc lập dân tộc được đặt ra và giải quyết trên cơ sở lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, thông qua đội tiên phong của giai cấp công nhân
là Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thúc tỉnh, lôi cuốn cả dân tộc Việt Nam vào
cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thắng lợi của Cách mạng Tháng

Tám năm 1945 cũng đồng thời là thắng lợi đầu tiên của việc kết hợp mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Sau Cách mạng Tháng Tám, với dã tâm xâm lược và thống trị thuộc
địa, thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược Việt Nam. Độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội đứng trước thử thách mới. Giữ vững những thành quả của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân cả nước
tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Độc lập dân tộc lúc này là
sự sống còn đối với đất nước. Bảo vệ nền độc lập dân tộc đã trở thành nhiệm
vụ thiêng liêng của tất cả mọi người dân. Trong giai đoạn này, chủ nghĩa xã
hội tuy chưa có điều kiện để đặt ra một cách trực tiếp, nhưng luôn luôn là
phương hướng để cách mạng Việt Nam tiến tới: “ Cách mạng dân tộc dân
chủ Việt Nam sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội” 1. Cùng với việc
chiến thắng chủ nghĩa thực dân cũ, giải quyết vấn đề độc lập dân tộc bằng
chiến tranh cách mạng, Đảng ta cũng đã tạo ra những tiền đề đầu tiên của
chủ nghĩa xã hội. Đó chính là xác lập hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin,
là sự hình thành bước đầu những mầm mống kinh tế, xã hội; là sự xuất hiện
những quan hệ, tình cảm, nếp nghĩ, cách làm mới theo phương hướng của
cách mạng xã hội. Những định hướng chủ yếu về chủ nghĩa xã hội đã góp
phần khắc phục được hạn chế của các con đường cứu nước trong quá khứ.
Đồng thời khẳng định tính liên tục trong các giai đoạn cách mạng và tính
chất triệt để của sự nghiệp giải phóng dân tộc ở giai đoạn tiếp theo.

1

Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2001, t.12,tr.411.


Tìm ra con đường cách mạng Việt Nam - giải phóng dân tộc theo quỹ
đạo của cách mạng vô sản, giành độc lập dân tộc để đi tới xây dựng xã hội
chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đã chỉ ra điều cần phải có đầu tiên của con đường

cách mạng này là: “Phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nơi”. Sau khi tìm thấy con đường cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
tích cực chuẩn bị cho sự ra đời đảng cách mạng ở nước ta. Sau nhiều năm
chuẩn bị, Hồ Chí Minh đã chiệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng vào
mùa xuân năm 1930. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã thông qua Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo. Cương lĩnh
khẳng định: Việt Nam làm “tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa cách
mệnh để đi tới xã hội cộng sản” nhằm “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và
bọn phong kiến”, “làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”, “dựng ra chính
phủ công nông binh” để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Năm 1959, trong Báo Cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp
thứ 11 Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí
Minh lại khẳng định, năm 1930, ngay từ khi thành lập, Đảng ta “đã vạch rõ
cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ và
cách mạng xã hội chủ nghĩa”. Đây là “lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có
một cương lĩnh chính trị toàn diện do Đảng của giai cấp công nhân đề ra.
Cách mạng từ đó được giai cấp công nhân và chính đảng của nó thống nhất
lãnh đạo, đã phát triển nhanh chóng và vững chắc”.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một tiến trình liên tục gồm hai giai
đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là “Giai đoạn giai cấp vô sản tự xây dựng thành
giai cấp thống trị, là giai đoạn giành lấy dân chủ” 1. Vấn đề giành chính
1

C. Mác và Ph. Ăngghen: Sđd, 1995, t.1, tr.567


quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Chính quyền trở thành mục
tiêu trực tiếp của các lực lượng đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của

giai cấp công nhân thông qua chính đảng của nó, khi tình thế cách mạng
xuất hiện.
Tình thế cách mạng xuất hiện với những đặc trưng chủ yếu: Một là,
các giai cấp thống trị đã tỏ ra bất lực, không thể duy trì được nền thống trị
của mình như cũ; sự bất bình và lòng phẫn nộ của các giai cấp bị áp bức bóc
lột công khai và gay gắt. Như vậy, một trong những biểu hiện của tình thế
cách mạng là cùng một lúc các “tầng lớp dưới không muốn sống như trước”
và tầng lớp trên cũng không thế nào sống như cũ được nữa. Hái là, nỗi cùng
khổ và quẫn bách của các giai cấp bị áp bức trở nên nặng nề hớn mức bình
thường. Ba là, do những nguyên nhân trên, tính tích cực của quần chúng này
trong thời kỳ “hoà bình” phải sống nhẫn nhục để cho người ta cướp bóc, đến
thời kỳ bão táp, họ bị toàn bộ cuộc khủng hoảng cũng như bị chính “tầng lớp
trên” đẩy tới chỗ phải có hành động quyết định.
Tuy vậy, để cách mạng giành được thắng lợi, việc nắm bắt đúng thời
cơ để phát động quần chúng nổi dậy giàng thắng lợi quyết định cho cách
mạng có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thời cơ cách mạng, xét từ bên trong, là thời điểm mà địa vị thống trị
của lực lượng phản cách mạng tỏ ra luy lay nhất, bản thân chúng bị chia sẻ
bởi sự giằng xé của những mâu thuẫn nội bộ, chúng bị choáng váng và tỏ ra
hoang mang trước sự lớn mạnh của các lực lượng cách mạng: còn các lực
lượng cách mạng thì đã sẵn sàng hành động với lòng quả cảm và thái độ tự
giác cao. Đồng thời, xét từ bên ngoài, thời cơ cách mạng là thời điểm mà
những nhân tố quốc tế, khu vực,... ảnh hưởng mạnh mẽ theo chiều hướng
tích cực tạo nên điều kiện thuận lợi cho cách mạng bùng nổ và thắng lợi.
- Xây dựng xã hội chủ nghĩa phải trên cơ sở độc lập tự do:


Từ lịch sử của các cuộc cách mạng trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc
phát hiện: “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân
tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của các chủ nghĩa

cộng sản và cách mạng thế giới”1. Xác định đúng vị trí của độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong qúa trình lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng.
Độc lập dân tộc là mục tiêu đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Mất
độc lập dân tộc là mất tất cả. Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải giải
quyết vấn đề đầu tiên là giành độc lập dân tộc. Chủ nghĩa xã hội sẽ là không
tưởng khi đất nước chưa giành được độc lập dân tộc. Nhân tố mang tính chất
tiền đề, nền tảng của cách mạng xã hội đó chính là độc lập dân tộc. Nhưng
độc lập dân tộc không phải là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam.
Mục tiêu cuối cùng của sự nghiệp cách mạng chính là chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản. Kể từ khi ra đời và trở thành Đảng cầm quyền
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc, Đảng ta luôn luôn xác định
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là đích đến của dân tộc Việt Nam. Đây
không chỉ là dự báo khoa học mà là đường lối cách mạng được xây dựng từ
cơ sở lý luận và thực tiễn của đất nước và xu thế của thời đại. Chủ nghĩa xã
hội đồng thời là phương hướng đi tới, là nhân tố quyết định tương lai của đất
nước. Nhưng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải dựa trên cơ sở độc
lập dân tộc. Thực tế lịch sử của nhân loại khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới bảo đảm được độc lập dân tộc thật sự và bền vững.
Để có một nền độc lập thật sự thì chỉ chủ nghĩa xã hội mới có đẩy đủ
các điều kiện bảo đảm. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm bản chất triệt
để để cho độc lập dân tộc. Đó chính là sự thống nhất biện chứng của độc lập
1

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, t. 1, tr. 416


dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người.

Về vai trò lãnh đạo của Đảng, luận cương chính trị khẳng định: “Điều
cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một
Đảng cộng sản có đường lối chính trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết
liên lạc với quần chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là một
đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm gốc”1
Cao trào cách mạng 1930-1931 đã khẳng định đường lối cách mạng
Việt Nam do Đảng đề ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên là hoàn toàn
đúng đắn. Nó chỉ ra cho quần chúng cách mạng thấy rõ con đường cứu nước
duy nhất đúng ở Việt Nam là con đường cách mạng theo chủ nghĩa MácLênin, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cao trào cách mạng 1930-1931 và Xôviết Nghệ- Tĩnh đã để lại cho
cách mạng Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý báu cả thành công và chưa
thành công về kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, bất khuất, quật
cương của dân tộc, quyết không cam chịu làm nô lệ; về tinh thần độc lập tự
chủ và sáng tạo; về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức lực lượng,
đoàn kết toàn dân, thống nhất ý chí và hành động tạo ra cao trào cách mạng
trong cả nước.
2. Quan điểm của Đảng Cộng sản về độc lập dân tộc vàCNXH trong
công cuộc xây dựng xã hội Việt Nam.
- Về độc lập dan tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn
kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của
dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2002, t. 2, tr. 103


vật chất và tinh nhần nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây

dựng Đảng trong sạch, vững mạng, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Trong quá trình đổi mới
phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước những khó khăn, thách thức,
những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta luôn
kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách đổi mới đúng
đắn, phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và những thành tựu
cách mạng đã đạt được, giữ vững độc lập dân tộc, vững bước đi lên CNXH.
Sau khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi, đất nước
thống nhất, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH đã trở thành hiện thực trên
đất nước Việt Nam. Độc lập dân tộc và CNXH lúc này được thể hiện ở hai
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN khắc
phục được khó khăn và hạn chế của lịch sử, toàn Đảng, toàn dân tìm tòi,
khảo nghiệm thực tiễn để tiến hành sự nghiệp xây dựng CNXH. Song hành
với quá trình đó là công cuộc bảo vệ nền độc lập của đất nước, làm thất bại
mọi âm mưu của các thế lực phạm động quốc tế nhằm phá hoại sự nghiệp
xây dựng CNXH trên đất nước Việt Nam. Trong giai đoạn 10 năm cả nước
Việt Nam đi lên CNXH 1975-1986, sự kết hợp độc lập dân tộc và CNXH
góp phần quyết định vào quá trình đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn,
bước đầu tạo nên tiền đề cho công cuộc đổi mới.
II. NẮM VỮNG NGỌN CỜ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.

1. Muốn giữ vững độc lập dân tộc phải đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội (Bảo vệ Tổ quốc - xây dựng chủ nghĩa xã hội có những nhiệm vụ):


+ Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
cần nắm vững những mục tiêu cụ thể trên các lĩnh vực như sau:
Về chính trị: Giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng của Đảng

và Nhà nước, của các lực lượng vũ trang, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực quản lý của Nhà nước đối với xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, xã hội,
kiên định con đường xã hội chủ nghĩa; tăng cường khối đại đoàn kết toàn
dân; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phá hoại
nội bộ ta, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Về kinh tế - xã hội: Đảm bảo vững chắc sự ổn định và phát triển kinh
tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa; làm thất bại âm mưu của các
thế lực thù địch thông qua kinh tế để chuyển hoá chính trị. Kết hợp giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, thu hẹp dần khoảng cách
giàu- nghèo, giải quyết tốt nạn thất nghiệp ở thành phố, tình trạng nông dân
mất ruộng đất và thiếu việc làm ở nông thôn. Hạn chế những tiêu cực của
kinh tế thị trường, đấu tranh có hiệu quả với các tội phạm kinh tế, thực hiện
tiết kiệm, chống lãng phí.
Về tư tưởng, văn hoá: Kiên định, phát huy truyền thống và bản sắc
văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại; làm thất bại
âm mưu hoạt động xuyên tạc chủ nghĩa xã hội, phủ nhận lịch sử, tuyên
truyền, những giá trị tư sản về tự do, dân chủ, nhân quyền, đa nguyện, đa
đảng của các thế lực chống chủ nghĩa xã hội, đấu tranh bài trừ các nọc độc
văn hoá phản động, đồi trụy.
Về đối ngoại: Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
phương hoá, đa dạng hoá của Đảng, thực hiện hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới vì sự phát triển vào bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ, lợi ích dân
tộc; tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ cho công cuộc công


nghiệp hoá, hiện đại hoá, củng cố và nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế
giới.
Về an ninh, quốc phòng: Xây dựng vững chắc nền an ninh nhân dân
và thế trận an ninh nhân dân gắn với nền quốc phòng toàn dân và thế trận
quốc phòng toàn dân; xây dựng lực lượng công an nhân dân và quân đội

nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Chống âm
mưu của các thế lực thù địch phi chính trị hoá và chia rẽ lực lượng vũ trang.
Dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn những năm qua và yêu cầu nhiệm vụ
mới của cách mạng cần nắm vững những quan điểm, tư tưởng sau đây trong
chỉ đạo công tác an ninh, quốc phòng:
- Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam
là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đây là tư tưởng chỉ đạo bao trùm, quy định các mối quan hệ trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ an ninh quốc phòng. Sự kết hợp này được đúc kết từ
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin; xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi
với bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã hội, và từ kinh nghiệm lịch sử
hàng ngàn năm của dân tộc ta: dựng nước phải đi đôi với giữ nước.
Hai nhiệm vụ này quan hệ mật thiết với nhau, là điều kiện và cơ sở
của nhau, nếu được kết hợp chặt chẽ sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo đảm
cho Tổ quốc, cho chủ nghĩa xã hội phát triển nhanh chóng và vững chắc.
- Kết hợp an ninh quốc phòng với kinh tế - xã hội.
Xác định phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm, song không
được xem nhẹ, buông lơi nhiệm vụ an ninh quốc phòng. Phải lấy việc ổn
định và pts kinh tế - xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước làm nền tảng giữ vững ổn định chính trị, củng cố an


ninh quốc phòng; và đồng thời lấy việc ổn định chính trị, củng cố an ninh
quốc phòng làm điều kiện để giữ vững ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
Việc kết hợp an ninh quốc phòng với kinh tế - xã hội như trong từng
ngành và vùng lãnh thổ, sao cho mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một
bước tăng thêm, tiềm lực an ninh, quốc phòng. Ngược lại, an ninh, quốc
phòng ngày càng vững chắc lại tạo thêm môi trường thuận lợi để phát triển xã hội:
- Gắn nhiệm vụ an ninh với nhiệm vụ quốc phòng; phối hợp chặt chẽ
hoạt động an ninh quốc phòng với hoạt động đối ngoại.

An ninh và quốc phòng là hai mặt có quan hệ khăng khít với nhau trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, vì các thẻ lực thù địch ở bên trong và bên ngoài
luôn cấu kết với nhau chống phá cách mạng. Sự kết hợp này phải được thể
hiện trong việc xây dựng tiềm lực vật chất và tinh thần của an ninh quốc
phòng, trong cơ chế phối hợp xây dựng nền an ninh và thế trận an ninh nhân
dan với xây dựng nền quốc phòng và thế trận quốc phòng toàn dân.
Sự phối hợp giữa hoạt động an ninh quốc phòng với hoạt động đối
ngoại được đặt ra một cách khách quan trong điều kiện mở rộng giao lưu,
hội nhập với thế giới. Trong quan hệ đối ngoại phải bảo đảm độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không để nước ngoài can thiệp vào công việc nội
bộ của nước ta, không để các thế lực thù địch lợi dụng để thực hiện âm mưu
“diễn biến hoà bình”. Ngược lại, cũng không vì yêu cầu bảo đảm an ninh,
quốc phòng mà hạn chế quan hệ đối ngoại, bỏ lỡ thời cơ hội nhập và sự phân
công lao động quốc tế, nhưng luôn phải lấy sự ổn định bên trong làm nền
tảng, làm điều kiện để nâng cao hiệu quả và mở rộng quan hệ quốc tế.
- Củng cố an ninh quốc phòng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên
của Đảng, Nhà nước và toàn tân.


Bảo vệ an ninh quốc gia, chống “diễn biến hoà bình”, củng cố quốc
phòng, chống hoạ xâm lăng của các thế lực thù địch không phải là nhiệm vụ
riêng của công an và quân đội. Đây là nhiệm vụ riêng của toàn Đảng, toàn
dân, của cả hệ thống chính trị, của cả hệ thống chính trị, của khối đại đoàn
kết toàn dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành thống nhất
của Nhà nước, trong đó quân đội nhân dân và công an nhân dân có vai trò
đặc biệt quan trọng. Nhiệm vụ này cũng không phải chỉ đặt ra trong tình
huống có chiến tranh hay bạo loạn lật đổ, mà là nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên của toàn Đảng, toàn dân.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang và sự
nghiệp an ninh quốc phòng là lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện. Bảo

đảm sự lãnh đạo như trên sẽ xây dựng được các lực lượng vũ trang trong
sạch, vững mạnh và phát huy được sức mạnh tổng hợp xây dựng nền an ninh
và quốc phòng của đất nước.
- Kết hợp sức mạnh tổng hợp của dân tộc với sức mạnh của thời đại,
sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố
hiện đại trong nhiệm vụ an ninh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh lớn lên khi đất nước Việt Nam
đã mất độc lập, nhân dân phải sống thân phận trâu ngựa, tủi nhục. Là người
có lòng yêu nước nhiệt thành, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cho mình cái
cần nhất trên đời là đồng bào được tự do, Tổ quốc được độc lập.
Hồ Chí Minh xem xét, suy ngẫm về những xu hướng, ngả đường céu
nước giải phóng dân tộc của cha anh khi đó, Người đã rút ra kết luận: “khâm
phục các cụ, nhưng không hoàn toàn tán thành cách của một người nào”.
Các con đường cứu nước xuất hiện trước Hồ Chí Minh, từ văn thân, sĩ phu,


rồi đến hai cụ Phân Châu Trinh, Phan Bội Châu và cả Việt Nam Quốc dân
Đảng đều mới chỉ nói đến độc lập dân tộc, chưa có sự gắn bó giữa độc lập
với tiến bộ xã hội - mà chủ nghĩa xã hội là tiêu biểu cho sự tiến bộ ấy. Đó
chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thất bại, sự bế tắc của các xu
hướng, các ngả đường cứu nước Hồ Chí Minh.
Kết quả cuộc khảo cứu thế giới đã đưa Hồ Chí Minh đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin, nhậ rõ chân lý của thời đại: muốn có độc lập thực sự cho
dân tộc, tự do hạnh phúc hoàn toàn cho nhân dân chỉ có con đường độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: trong thời
đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của
cách mạng vô sản thế giới, cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển
thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Vì vậy, toàn bộ hoạt

động tư duy và thực tiễn của Người chỉ tập trung vào mục tiêu “chống thực
dân đế quốc, phong kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh - con đường Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sản phẩm của thời đại, không chỉ đáp ứng
nguyện vọng Tổ quốc được độc lập, mọi người dân Việt Nam được tự do,
hạnh phúc, mà còn phù hợp với thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới sau mở đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Như vậy, ở Việt Nam, Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề cập tới con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hơn thế, Hồ Chí Minh
là người đi tiên phong đóng góp lớn nhất trong cuộc đấu tranh cho sự hiện
thực con đường đó. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội - giành độc lập dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội được


thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua chứng minh là con đường
duy nhất đúng đắn. Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18-2-1995 của Bộ Chính
trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn”.
- Về cách mạng: Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, xuất
phát từ thực tế xã hội Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ
Chí Minh chỉ rõ mâu thuẫn chủ yếu, nổi bật, cấp bách cần giải quyết là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và bọn tay sai
bán nước. Từ đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ dân tộc, xác định mục
tiêu cốt yếu của cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam là giành độc lập dân
tộc, nhưng không quên nhiệm vụ dân chủ, trong khi thực hiện nhiệm vụ dân
chủ, trước hết phải nhằm phục vụ nhiệm vụ dân tộc. Đây là quan điểm mà
Hồ Chí Minh kiên trì và nhất quán từ khi Người tìm ra con đường cách
mạng Việt Nam. Cương lĩnh đầu tiên do Hồ Chí Minh soạn thảo được thông
qua ở Hội nghị thành lập Đảng năm 1930, chủ trương làm “tư sản dân quyền

cách mạng và thổ địa cách mạng” cho thấy thực chất của cách mạng dân tộc
dân chủ là cách mạng giải phóng dân tộc bao hàm cả nội dung dân chủ. Năm
1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người
đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 của
Đảng (5-1941). Quan điểm nhất quán được Hội nghị nhấn mạnh là: hơn bao
giờ hết vấn đề dân tộc giải phóng, đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập dân
tộc lúc này là cao hơn hết thảy. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự
do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu
mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng
không đòi lại được”.


Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nhưng thực dâp Pháp trở lại xâm
lược nước ta một lần nữa, nhiệm vụ dân tộc của ta chưa hoàn thành. Tring
tình hình đó, Hồ Chí Minh xác định và nhấn mạnh “Về mục đích trước mắt,
Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho
đén thắng lợi hoàn toàn, tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn”(2).
Như vậy, với Hồ Chí Minh, ở một nước thuộc địa nửa phong kiến,
mâu thuẫn dân tộc nổi lên hàng đầu, cần phải giải quyết trước tiên, độc lập
dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết của cách mạng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: độc lập tự do là khát vọng của con người, là khát
vọng của mọi dân tộc trên thế giới. Độc lập dân tộc là mục tiêu của mọi cuộc
đấu tranh để thoát khỏi áp bức bó lột của ngoại xâm. Giành được độc lập, tự
do, hoà bình mới có điều kiện xây dựng, phát triển kinh tế và văn hoá, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Độc lập dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh mang nội dung sâu sắc
triệt để. Theo Hồ Chí Minh, một nền độc lập dân tộc cơ bản được bảo đảm,
độc lập phải trên ngăn tắc nước Việt Nam của người Việt Nam; độc lập phải
gắn liến với quyền tự quyết của dân tộc. Bởi vậy, độc lập dân tộc là quyền

thiêng liêng, bất khả xâm phạm; độc lập dân tộc phải gắn liền với hoà bình
thực sự; các dân tộc đều bình đẳng, quan hệ hoà bình, hữu nghị và giúp đỡ
nhau.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội: Theo Hồ Chí Minh, độc lập là mục tiêu
gần, là tiền đề đi lên chủ nghĩa xã hội, còn chủ nghĩa xã hội là phương
hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu xa của
cách mạng Việt Nam. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là làm cho cách mạng
dân tộc dân chủ được tiến hành triệt để; đồng thời tạo ra những cơ sở bảo
2()

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, t.6, tr.174


đảm cho nền độc lập của dân tộc được giữ vững và ngày càng củng cố, phát
triển. Như vậy, chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới đảm bảo cho nền độc
lập thực sự. Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xoá bỏ
mọi chế độ bóc lột người ở nước ta, nhắm đưa lại đời sống no ấm cho toàn
dân ta. Đó là một cuộc cách mạng vĩ đại và vẻ vang nhất trong lịch sử loài
người, nhưng đồng thời cũng là một cuộc cách mạng gay go, phức tạp và
khó khăn nhất”(3).
Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo đảm vững chắc nhất cho độc lập
dân tộc được thể hiện từ bản chất của nó. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã
hội là một xã hội tốt đẹp, xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột; một xã hội công bằng
hợp lý; một xã hội bảo đảm phúc lợi cho người già yếu, tàn tật, trẻ mồ côi;
đó là một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân lao động; một xã hội đạo đức, văn minh, mọi người được
phát triển hết khả năng của mình; chủ nghĩa xã hội đem lại sự phát triển tự
do toàn diện cho mọi người; một xã hội do nhân dân lao động làm chủ dưới
sự lãnh đạo của Đảng.

Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội với những yếu tố trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội là tạo ra những điều kiện phát
triển của dân tộc, tạo ra những khả năng loại bỏ được chiến tranh giữa các
dân tộc. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, thì dân tộc có tiềm lực mạng
về kinh tế, quốc phòng, địa vụ chính trị trên trường quốc tế được nâng cao.
Với các thiết chế kinh tế, chính trị và nền tảng tinh thần riêng, chủ nghĩa xã
hội có khả năng vận động phát triển liên tục, bảo vệ vững chắc các thành
quả cách mạng của nhân dân và nền độc lập của dân tộc.
3

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H,2000, t.9, tr.156


Dưới thời minh, Hồ Chí Minh đã thực hiện một chương trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
Về chính trị, tư tưởng nhất quán của Người là hình thành một nhà nước dân
chủ trực tiếp và gián tiếp, bảo đảm mọi quyền lợi thực tế thuộc về nhân dân
lao động Trong kinh tế, Hồ Chí Minh chăm lo xây dựng và phát triển kinh tế
quốc doanh, kinh tế tập thể, tiếp tục và duy trì các loại hình kinh tế khác, xây
dựng cơ cấu kinh tế công nông nghiệp hợp lý, thực hiện chế độ khoán trong
quản lý sản xuất. Trong lĩnh vực văn hoá xã hội, Hồ Chí Minh chú trọng xây
dựng một nền văn hoá mang bản sắc dân tộc có nội dung xã hội chủ nghĩa.
Người đặc biệt quan tâm chăm lo giáo dục con người, coi đó vừa là mục
đích vừa là động lực quyết định thắng lựo của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Nhưng nhân tố xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí Minh chăm lo, củng cố
đã làm gia tăng nhanh chóng nguồn lực sức mạnh dân tộc trong cuộc chiến
tranh nhân dân, giành lại độc lập tự do cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc và
sau đó là công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Đó là những biểu hiện sinh động, chính xác và sâu sắc xủa tư
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

+ Về vấn để bảo vệ Tổ quốc:
- Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây là bài học xuyên suất quá trình cách mạng nước ta, có giá trị cả
trong cách mạng dân tộc dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thực
tiễn cho thấy nắm chắc bài học này sẽ tạo ra sức mạnh to lớn giành thắng
lợi.
Không ngừng cổng cố, tăng cường đoàn kết; đoàn kết toàn Đảng,
đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là truyền
thống quí báu và là bài học lịch sử lớn, lâu dài của nhân dân, được Đảng ta,


Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên sức mạnh to lớn giành
thắng lợi.
Cuộc đấu tranh của các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát
triển chống nghèo nàn, lạc hậu, chống chủ nghĩa thực dân mới, chống can
thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ độc lập, chủ quyền dân
tộc đang tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức và khó khăn phức tạp.
- Nhiều vấn đề toàn cầu cấp bách cần phải giải quyết
- Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu
tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội đang đứng
trước nhiều khó khăn, thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước
quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát
triển văn hoá.
Nền văn hoá tiên tiến là nền văn hoá yêu nước và tiến bộ mà nội dung
cốt lõi của nó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bản
sắc dân tộc là những giá trị tinh thần bền vững mà lịch sử hàng năm của dân
tộc đã hun đúc nên. Đối với dân tộc Việt Nam đó là lòng yêu nước nồng nàn,

ý chí tự lực tự cường, tinh thần đoàn kết cộng đồng gắn chặt cá nhân với gia
đình, làng xã, Tổ quốc, là tinh thần ham học tập cầu tiến bộ, là lối sống giản
dị khiêm tốn, là lòng nhân ái thuỷ chung, trọng nghĩa tình đạo lý.
Những phương hướng cơ bản mà Cương lĩnh chỉ ra vừa mang tính
nguyên tắc, bảo đảm không chênh hướng xã hội chủ nghĩa, vừa quán triệt
tinh thần đổi mới để không ngừng tiến lên vững chắc và không lăp lại sai
lầm cũ.


Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực
hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân
dân.1
Vấn đề xây dựng Nhà nước đặt lên hàng đầu, vì vấn đề chính quyền
luôn luôn là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng; nước ta từ một nước lạc
hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, cần biết phát huy ưu thế của chế độ chính trị,
của chính quyền Nhà nước để khắc phục tình trạng yếu kém về trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Phương hướng này chỉ rõ bản chất giai cấp, tính nhân dân của Nhà
nước ta. Chỉ có một Nhà nước như vậy, nhân dân ta mới có công cụ mạnh
mẽ, sắc bén để thực hiện quyền làm chủ của mình, đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Điểm mới ở đây là tầng lớp tri thức cùng với giai cấp công nhân và
nông dân hợp thành liên minh, là cơ sở xã hội của Nhà nước, là nền tảng và
chỗ dựa của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ,
vai trò trí thức đã quan trọng, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội - nhất là khi
cuọc cách mạng khoa học - công nghệ đang tác động mạnh đến nhịp độ phát
triển của các dân tộc - thì vai trò trí thức càng quan trọng. Song, sẽ phạm sai

lầm nghiêm trọng nếu tuyệt đôi hoá vai trò trí thức hạ thấp vai trò công nông.

1

Sđd, tr.9


Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, cần chống lại thứ dân chủ chung
chung, phi giai cấp mà thực chất là để thực hiện dân chủ tư sản nhằm xoá
bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu
nghi với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế cua giai cấp cônh
nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”1
Đó là phương hướng nhằm huy động mọi lực lượng cả dân tộc, mọi
tiềm năng sáng tạo của con người Việt Nam, tạo môi trường quốc tế thuận
lợi, tranh thủ tối đa sức mạnh của bên ngoài, kết hợp có hiệu quả sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại để phát triển nhanh và bền vững.
Đồng thời, góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây
dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc
phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và
thành quả cách mạng.
Hai nhiệm vụ chiến lược trên có vị trí riêng, nhưng có quan hệ thống
nhất với nhau. Xác định đúng từng nhiệm vụ trong mối quan hệ đó, để một
mặt, tập trung sức lực, trí tuệ cho việc xây dựng đất nước, mặt khác, có đủ
khả năng đập tan mọi hoạt động phá hoại, làm thất bại mọi âm mưu và thủ

đoạn :diễn biến hoà bình: của các thế lực thù địch, đảm bảo cuộc sống hạnh
phúc cho nhân dân.
1

Sđd, tr.10


Đặt nhiệm vụ xây dựng đất nước lên hàng đầu không phải là coi nhẹ
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bởi vì làm tốt nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã
hội là xây dựng cơ sở vật chất và tinh thần, bảo đảm tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc. Cần kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với nhiệm vụ an
ninh, quốc phòng.
2. Muốn xây dựng thành công CNXH phải giữ vững được độc lập
dân tộc.
Thực tiễn lịch sử của cáccuộc đấu tranh chống thực dân Pháp đến đầu
thế kỷ XX đã chứng tỏ rằng: không thể giành độc lập dân tộc dựa trên những
quan điểm phong kiến, hay tư sản. Trải qua quá trình khảo sát thực tiễn và lý
luận từ Đồng sang Tây, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Chỉ só chủ nghĩa
cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng
tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất,
việc là cho mọi người và vì mọi ngừô, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc.1
Trong “Chánh cương vắn tắt” của Đảng được thông qua tại Hội nghị
hợp nhất dưới sự chủ trì của Nguyễn ái Quốc đã chỉ rõ: “Chủ trường làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.2
Gắn mục tiêu giải phóng dân tộc với con người đi lên chủ nghĩa xã hội
là thành quả lý luận cơ bản đã mở ra một trang sử mới cho cách mạng Việt
Nam. Thực hiện cách mạng sinh động sau khi Đảng ra đời đã khẳng định:
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là vấn đề mang tính nguyên tắc
của cách mạng Việt Nam trong quá trình vận động và phát triển. Trong sự
vận động đó, độc lập dân tộc từng bước được khẳng định là nhiệm vụo hàng

đầu. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5 - 1941) đã chỉ rõ:
“Trong lúc này quyền lợi của vộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử,
1
2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, t.1, tr416
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 1998, t.2, tr.2


tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết
được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.3
Mục tiêu độc lập dân tộc được dặt ra và giải quyết trên cơ sở lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, thông qua đội tiên phong của giai cấp công
nhân là Đảng cộng sản Việt Nam đã thức tỉnh, lôi cuốn cả dân tộc Việt Nam
vào cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thắng lợi của cách mạng Tháng
Tám năm 1945 cũng đồng thời là thắng lợi đầu tiên của việc két hợp mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Sau Cách mạng Tháng Tám, với dã tâm xâm lược và thống trị thuộc
địa, thực dân Pháp đã quay trở lại xâm lược Việt Nam. Độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội đứng trước thử thách mới. Giữ vững những thành quả cuả
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân cả nước
tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Độc lập dân tộc lúc này là
sự sống còn đối với đất nước. Bảo vệ nền độc lập dân tộc đã trở thành nhiệm
vụ thiêng liêng của tất cả mọi người dân. Trong giai đoạn này, chủ nghĩa xã
hội tuy chưa có điều kiện để đặt ra một cách trực tiếp, nhưng luôn luôn là
phương hướng để cách mạng Việt Nam tiến tới: “Cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân Việt Nam sẽ đưa Việt Nam tiến rới chủ nghĩa xã hội” 1. Cùng với
việc chiến thắng chủ nghĩa thực dân cũ, giải quyết vấn đề độc lập dân tộc

bằng chiến tranh cách mạng, Đảng ta cũng đã tạo ra những tiền đề đầu tiên
của chủ nghĩa xã hội. Đó chính là xác lập hệ tư tưởng của chủ nghĩa MácLênin, là sự hình thành bước đầu những mầm mống kinh tế, xã hội; là sự
xuất hiện những quan hệ, tình cảm, nếp nghĩ, cách làm mới theo phương
3
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, t.7, tr.113
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H2001, t.12, tr.411


×