BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN XUÂN THÙY
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CÚ SỐC GIÁ DẦU ĐẾN
CÁC YẾU TỐ KINH TẾ VĨ MÔ Ở
CÁC QUỐC GIA CHÂU Á -THÁI BÌNH DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN XUÂN THÙY
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CÚ SỐC GIÁ DẦU ĐẾN
CÁC YẾU TỐ KINH TẾ VĨ MÔ Ở
CÁC QUỐC GIA CHÂU Á -THÁI BÌNH DƯƠNG
Chuyên ngành: Tài chính- Ngân hàng
Mã Số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.NGUYỄN THỊ UYÊN UYÊN
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Trong quá trình thực hiện Luận văn Thạc sĩ với đề tài “Ảnh hưởng của các cú sốc
giá dầu đến các yếu tố kinh tế vĩ mô ở các quốc gia Châu Á- Thái Bình Dương”,
tôi đã vận dụng các kiến thực học tập của mình và với sự trao đổi, hướng dẫn góp ý
của Giáo viên hướng dẫn để thực hiện đề tài Luận văn Thạc sĩ này.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các số liệu và kết quả trong
Luận văn Thạc sĩ này là hoàn toàn trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Các kết quả của Luận văn chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nghiên cứu
nào. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
TP.HCM, Ngày 15 Tháng 10 Năm 2016
Học viên thực hiện Luận văn
Nguyễn Xuân Thùy
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁCHÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. 1
TÓM TẮT .............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ................................................................................... 2
1.1 Lý do thực hiện nghiên cứu ............................................................................ 2
1.2 Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu ............................................................... 5
1.3 Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 5
1.4 Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài ........................................................................ 6
1.5 Kết cấu của đề tài ........................................................................................... 7
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ..................... 8
2.1 Các loại cú sốc giá dầu ................................................................................... 8
2.2 Các kênh truyền dẫn của cú sốc giá dầu đến nền kinh tế vĩ mô ..................... 10
2.3 Những bằng chứng thực nghiệm về tác động của các cú sốc giá dầu đến nền
kinh tế vĩ mô ...................................................................................................... 16
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU......................... 26
3.1 Ảnh hưởng của các loại cú sốc giá dầu đến các yếu tố kinh tế vĩ mô - phân
tích SVAR ......................................................................................................... 28
3.2 Dữ liệu phân tích và mô tả biến .................................................................. 34
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM ................................. 40
4.1 Kiểm định tương quan chéo ........................................................................ 40
4.2 Kiểm định tính dừng ................................................................................... 41
4.3 Kết quả ước lượng mô hình VAR- SVAR .................................................... 45
4.3.2 Kiểm định tính ổn định của mô hình .................................................... 48
4.3.3 Kết quả ước lượng ma trận ràng buộc của mô hình ............................. 49
4.3.4 Kết quả phân tích ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các yếu tố kinh
tế vĩ mô ở các quốc gia Châu Á - Thái Bình Dương. ....................................... 52
4.3.5 Kiểm định mô hình ước lượng ................................................................ 64
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN ................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
CPI
: Consumer Price Index
: Chỉ số giá tiêu dùng
GDP
: Gross Domestic Product
: Tổng sản phẩm quốc nội
IRF
: Impulse response function
: Hàm phản ứng xung
OLS
: Ordinary least squares
: Phương pháp bình phương bé
VAR
: Vector autoregression
: Mô hình vec-tơ tự hồi quy.
SVAR
: Structural vector autoregressive : Mô hình vec-tơ tự hồi quy cấu trúc
nhất.
PSVAR : Panel structural vector autoregressive models : Mô hình vec-tơ tự
hồi quy dữ liệu bảng.
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng
Bảng 2.1
Tên Bảng
Bảng tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm về tác động
Trang
22 - 23
của cú sốc giá dầu đến các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế
Bảng 2.2
Bảng tóm ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các yếu
24
tố kinh tế vĩ mô
Bảng 2.3
Kỳ vọng kết quả ảnh hưởng của cú sốc giá dầu đến các
25
yếu tố kinh tế vĩ mô ở các quốc gia Châu Á – Thái Bình
Dương
Bảng 3.1
Những cú sốc giá dầu khác nhau
29
Bảng 3.2
Thứ tự các biến trong mô hình SVAR
32
Bảng 3.3
Kỳ vọng về chiều hướng tác động của các cú sốc giá
33
dầu lên các yếu tố kinh tế vĩ mô
Bảng 3.4
Tóm tắt các biến chính sử dụng trong bài
37 - 38
Bảng 3.5
Thống kê mô tả các biến
39
Bảng 4.1
Kiểm định tương quan chéo (cross-section
40
independence)
Bảng 4.2
Kết quả kiểm định tính dừng Pesaran (2007)
42
Bảng 4.3
Kết quả kiểm định tính dừng Levin–Lin–Chu, 2002
43
Bảng 4.4
Độ trễ tối ưu cho mô hình PVAR –PSVAR
47
Bảng 4.5
Kiểm định tính ổn định mô hình
48
Bảng 4.6
Kết quả ước lượng ma trận ràng buộc
50 - 51
Bảng
Tên Bảng
Trang
Bảng 4.7
Kết quả ước lượng ma trận ràng buộc C
52
Bảng 4.8
Kết quả ước lượng VAR
53
Bảng 4.9
Kết quả phân tích phân rã phương sai sự ảnh hưởng của
56
các cú sốc giá dầu đến tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Bảng 4.10
Kết quả phân tích phân rã phương sai sự ảnh hưởng của
57
các cú sốc giá dầu đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Bảng 4.11: Kết quả phân tích phân rã phương sai sự ảnh hưởng của
58
các cú sốc giá dầu đến sự biến động trong tỷ giá (EX)
Bảng 4.12
Kết quả phân tích phân rã phương sai sự ảnh hưởng của
60
các cú sốc giá dầu đến sự biến động trong trong lãi suất
chiếu khấu (DR)
Bảng 4.13
Bảng tổng hợp kết quả nghiên cứu
64
Bảng 4.14
Kết quả kiểm định hiện tượng tự tương quan LM Test
65
Statistic
Bảng 4.15
Kết quả kiểm định hiện tượng tự tương quan
66
Portmanteau Test
Bảng 4.16
Kết quả kiểm định hiện tượng phương sai thay đổiKiểm định White
67
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình vẽ
Tên hình
Trang
Hình 2.1
Sơ đồ kênh truyền dẫn của cú sốc giá dầu đến nền
11
kinh tế vĩ mô
Hình 4.1
Đồ thị biểu diễn sự thay đổi theo thời gian của
44
chuỗi dữ liệu
Hình 4.2
Đồ thị phân tích phản ứng xung (impulse) giữa các
cú sốc giá dầu và các yếu tố kinh tế vĩ mô ở các
quốc gia Châu Á- Thái Bình Dương
55
1
TÓM TẮT
Dựa theo bằng chứng thực nghiệm trong nghiên cứu “Ảnh hưởng của các cú sốc giá
dầu đến các yếu tố kinh tế vĩ mô ở Châu Á” của Cunado, J., và các cộng sự (2015)
với mẫu nghiên cứu gồm 13 quốc gia Châu Á- Thái Bình Dương, bài nghiên cứu
này được thực hiện với mục tiêu phân tích ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu (cú sốc
cung dầu - oil supply shocks, cú sốc tổng cầu dầu - aggregate demand shocksvà
những cú sốc phát sinh do nhu cầu phòng ngừa rủi ro giá dầu - oil market specific
demand shocks) đến các yếu tố kinh tế vĩ mô, bao gồm, tổng sản phẩm quốc nội
(GDP), tỷ giá hối đoái (EX),chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và lãi suất chiết khấu (DR).
Thông qua mô hình SVAR với dữ liệu bảng, có tần suất theo năm, từ năm 1997 đến
năm 2015, bài nghiên cứu “Ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các yếu tố kinh tế
vĩ mô ở các nước Châu Á- Thái Bình Dương” đã đạt được những kết quả chính như
sau: Thứ nhất, khi xảy ra ba cú sốc giá dầu, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) chỉ
giảm dưới 0.5%, nhưng CPI tăng trung bình trên 15%. Bởi vì, 13 quốc gia trong
mẫu là những quốc gia có sản lượng dầu mỏ nhập khẩu chiếm đến 33% trong tổng
nhu cầu năng lượng sử dụng, nên giá dầu là yếu tố cấu thành chủ yếu trong chi phí
sản xuất. Do đó, khi giá dầu tăng bắt nguồn từ các cú sốc giá dầu, thì chi phí sản
xuất gia tăng, làm giá cả tăng và sản lượng của nền kinh tế sụt giảm. Thứ hai, khi
xảy ra các cú sốc giá dầu đã làm lãi suất chiết khấu (DR) tăng từ 2%- 3% và tỷ giá
hối đoái (EX) giảm trung bình 3%. Đây chính là hiệu ứng cân bằng thực (Mork,
1994) và trong trường hợp này lãi suất là một công cụ thực thi chính sách tiền tệ của
các cơ quan điều hành (Cunado, J., và các cộng sự 2015), biểu hiện các quốc gia
trong khu vực đang có biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ để thúc đẩy cho sự phát
triển kinh tế, hạn chế sự sụt giảm của sản lượng (Brown và Yule, 2002) hoặc hiệu
ứng ngoài kỳ vọng (Milani, 2009), cũng như là do người dân đang gia tăng tiết
kiệm vì lo sợ sự tác động mạnh của giá dầu theo hiệu ứng chuyển giao thu nhập và
tổng cầu (Dohner, 1981).
Từ khóa chính: Cú sốc, giá dầu, kinh tế vĩ mô, mô hình VAR, PSVAR
2
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 Lý do thực hiện nghiên cứu
Kể từ thập niên 80, có rất nhiều nghiên cứu về tác động của cú sốc giá dầu1đến các
yếu tố kinh tế vĩ mô như tăng trưởng GDP, tỷ giá, chỉ số giá tiêu dùng, thị trường
chứng khoán… được thực hiện tại các quốc gia như Mỹ, các nước Châu Âu, chẳng
hạn nghiên cứu của Hamilton (1983); Sadorsky (1999); Hooker (2002); Barsky và
Kilian (2004); Akram (2004). Những nghiên cứu tiên phong này chỉ tập trung phân
tích ảnh hưởng của giá dầu hoặc một loại cú sốc giá dầu duy nhất đến các yếu tố
kinh tế vĩ mô của các quốc gia như Mỹ, các nước Châu Âu. Mặc dù, Hamilton
(1983); Sadorsky (1999); Hooker (2002);Barsky và Kilian (2004); Akram (2004),
Blanchard và Gali (2007); Filis. G (2010) đã đưa ra những bằng chứng thực nghiệm
khác nhau cho thấy cú sốc giá dầu có tác động đến các yếu tố kinh tế vĩ mô, có thể
tổng hợp lại trong bốn kết luận cơ bản sau đây:
Thứ nhất, khi xảy ra cú sốc giá dầu, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có xu hướng
giảm, theo lý giải của Mork (1994); Brown và Yule (2002).
Thứ hai, khi xảy ra cú sốc giá dầu, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có xu hướng tăng theo
lý thuyết lạm phát chi phí đẩy (Jones và Kaul, 1996).
Thứ ba, đối với tỷ giá (EX), cú sốc giá dầu tạo ra sự ảnh hưởng khác nhau, phụ
thuộc vào việc quốc gia đó nhập khẩu dầu mỏ hay xuất khẩu dầu mỏ. Với quốc gia
nhập khẩu dầu mỏ, khi xảy ra cú sốc giá dầu sẽ làm giảm giá trị đồng nội tệ và tỷ
giá danh nghĩa tăng. Đối với quốc gia xuất khẩu dầu mỏ, khi cú sốc giá dầu xảy ra
không làm thay đổi tỷ giá danh nghĩa. Đây chính là hiệu ứng chuyển giao thu nhập
và tổng cầu theo quan điểm của Fried và Schulze (1975); Dohner (1981).
Thứ tư, khi xảy ra cú sốc giá dầu,lãi suất chiết khấu (DR) có xu hướng tăng theo.
Ngoài ra, nếu các nhà điều hành chính sách thực thi công cụ của chính sách tiền tệ
1
Từ những năm 1980 cho đến những năm 2009, các nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu
một loại cú sốc duy nhất, vì vậy trong chương này, tác giả đề cập cú sốc giá dầu có nghĩa
là chỉ một loại cú sốc giá dầu duy nhất.
3
để hạn chế ảnh hưởng của cú sốc giá dầu đến nền kinh tế thì lãi suất chiết khấu có
xu hướng giảm (Kilian, 2009).
Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương với dự báo sẽ vượt Tây Âu trở thành khu vực
giàu thứ hai trên toàn cầu vào năm 2017, chỉ sau Bắc Mỹ. Vì vậy, đi kèm với các cơ
hội phát triển về kinh tế, thu nhập người dân cũng sẽ được cải thiện, số triệu phú gia
tăng và nhu cầu dầu mỏ cần cho phát triển kinh tế cũng như cho nhu cầu đi lại của
người dân tại khu vực này cũng có xu hướng tăng trong những năm trở lại đây.
Công ty Tư vấn Năng lượng - Wood Mackenzie (WM) - dự báo nhu cầu dầu ở Châu
Á- Thái Bình Dương (bao gồm Australia) sẽ tăng trưởng chậm lại ở mức 0,72 triệu
thùng/ngày vào năm 2016 và 0,62 triệu thùng/ngày vào năm 2017 do khu vực này
vẫn còn phải đối mặt với khó khăn về kinh tế. Tuy nhiên, sang giai đoạn từ năm
2018-2020, nhu cầu dầu tại khu vực Châu Á- Thái Bình Dương dự báo sẽ tăng lại là
9,1 triệu thùng/ngày (tương đương 1.6%/năm), giai đoạn 2020-2035 sẽ lên đến 43,3
triệu thùng/ngày.Vì vậy, khi xảy ra sự biến động về nguồn cung cấp dầu mỏ thì
không chỉ ảnh hưởng đến những quốc gia lớn tại khu vực Châu Mỹ hay Châu Âu,
mà còn ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác tại khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của cú sốc giá dầu đến các yếu tố
kinh tế vĩ mô ở một vài quốc gia thuộc khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, như
nghiên cứu của: Burbidge và Harrison (1984); Blanchard và Gali (2007); Cunado và
Gracia (2005); Chou, Tseng (2011); Cunado, J. và các cộng sự (2015). Nhưng
những nghiên cứu của các tác giả này chỉ mới tập trung ở những quốc gia như là
Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Ngoài ra, sau khi kết quả nghiên cứu của Kilian (2009) được công bố, chứng minh
rằng có ba nguyên nhân gây ra sự thay đổi trong cú sốc giá dầu. Do vậy, cú sốc giá
dầu không còn là một cú sốc giá dầu duy nhất, mà được phân thành ba loại cú sốc
khác nhau, bao gồm cú sốc từ nguồn cung dầu (oil supply shocks), cú sốc phát sinh
từ nhu cầu dầu mỏ (aggregate demand shocks), cú sốc sốc phòng ngừa rủi ro giá
dầu(oil-specific demand shocks). Trong số những nghiên cứu thực nghiệm từ sau
năm 2009, có một nghiên cứu nổi bất của Cunado, J., và các cộng sự (2015), là phân
4
tích sự ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu lên các yếu tố vĩ mô của khu vực Châu Á,
bao gồm Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Indonesia và Trung Quốc. Và như vậy, đối
với khu vực Châu Á- Thái Bình Dương cho đến thời điểm hiện tại, cũng chỉ có ba
quốc gia gồm Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc là có đề tài nghiên cứu về sự ảnh
hưởng của các cú sốc giá dầu lên các yếu tố vĩ mô.
Từ những lập luận trên đây, tác giả giả mong muốn thực hiện nghiên cứu này với
mục tiêu là tập trung phân tích sự ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu lên các yếu tố
kinh tế vĩ mô ở các quốc gia Châu Á- Thái Bình Dương. Bởi vì trong nghiên cứu
mới nhất được công bố của của Cunado, J., và các cộng sự (2015), các quốc gia
phát triển của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương bao gồm Nhật Bản, Trung Quốc
và Hàn Quốc đã được phân tích, nên mẫu dữ liệu của tác giả được chọn lọc lại, bao
gồm 13 quốc gia, đó là: Australia, Fiji, Malaysia, New Zealand, Papua New Guinea,
Philippines, Samoa, Singapore, Solomon Islands, Thái Lan, Tonga, Vanuatu và Việt
Nam. Lý do của việc chọn 13 quốc gia này là bởi vì những quốc gia này đa số là
những quốc gia đang phát triển hoặc ít được biết đến. Và vì thế, cho đến nay cũng
có rất ít nghiên cứu được thực hiện đối với dữ liệu của 13 quốc gia này. Nghiên cứu
của tác giả sử dụng phương pháp phân tích đối với dữ liệu bảng, và đánh giá sự tác
động của các cú sốc giá dầu lên các yếu tố vĩ mô của toàn bộ 13 quốc gia (Australia,
Fiji, Malaysia, New Zealand, Papua New Guinea, Philippines, Samoa, Singapore,
Solomon Islands, Thái Lan, Tonga, Vanuatu và Việt Nam) tại khu vực Châu ÁThái Bình Dương, chứ không đánh giá riêng lẻ đối với từng quốc gia. Dựa trên quan
điểm của Cunado, J., và các cộng sự (2015), các cú sốc giá dầu sẽ bao gồm ba loại
khác nhau, đó là cú sốc cung dầu (oil supply shocks), cú sốc tổng cầu dầu
(aggregate demand shocks); và những cú phát sinh do nhu cầu phòng ngừa rủi ro
giá dầu (oil market specific demand shocks). Tác giả hi vọng kết quả nghiên cứu sẽ
bổ sung cho những nghiên cứu hiện tại về đề tài các cú sốc giá dầu ảnh hưởng đến
các yếu tố kinh tế vĩ mô, cũng như sẽ là một tiền đề cơ bản cho những nghiên cứu
được thực hiện sau này đối với các quốc gia khác tại khu vực Châu Á- Thái Bình
Dương, trong giai đoạn sau khi hiệp định TPP được ký kết. Từ đó giúp những nhà
5
hoạch định chính sách tại mỗi một quốc gia biết được khi có sự biến động về nguồn
cung dầu mỏ thì toàn bộ các biến vĩ mô của nền kinh tế khu vực Châu Á- Thái Bình
Dương sẽ phản ứng như thế nào, và quốc gia của mình khi phân tích riêng lẻ thì sự
tác động của cú sốc giá dầu lên nền kinh tế vĩ mô có giống như khi cú sốc giá dầu
tác động lền nền kinh tế vĩ mô của mẫu chung là khu vực Châu Á- Thái Bình
Dương hay không. Và, khi những nhà hoạch định có cái nhìn tổng thể và cá thể thì
sẽ đưa ra những chính sách phù hợp cho mỗi quốc gia khi giao thương với nhau
trong giai đoạn thi hành hiệp định TPP, cũng như là hạn chế thiệt hại về kinh tế khi
xảy ra sự biến động về nguồn cung cấp dầu mỏ.
1.2 Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của tác giả là phân tích ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu,
gồm: cú sốc cung dầu-oil supply shocks, cú sốc tổng cầu dầu-aggregate demand
shocks; và những cú phát sinh do nhu cầu phòng ngừa rủi ro giá dầu- oil market
specific demand shocks- đến các yếu tố kinh tế vĩ mô ởcác quốc gia Châu Á- Thái
Bình Dương, dựa theo quan điểm của Cunado, J., và các cộng sự (2015).
Bằng kết quả phân tích thực nghiệm thông qua mô hình SVAR với dữ liệu bảng, tác
giả sẽ làm sáng tỏ mục tiêu nghiên cứu thông qua việc giải đáp các câu hỏi sau:
Thứ nhất, sự thay đổi của các loại cú sốc khác nhau trong giá dầu sẽ tạo ra sự thay
đổi đối với các các yếu tố kinh tế vĩ mô của 13 quốc gia, tại khu vực Châu Á- Thái
Bình Dương như thế nào? Nếu tạo ra sự thay đổi thì xu hướng tác động làm tăng
hay giảm và với tỷ lệ bao nhiêu?.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu tại khu vực Châu Á- Thái Bình Dương có tương đồng
với quan điểm của các tác giả đã nghiên cứu tại khu vực Châu Mỹ, Châu Âu hay
những nước Châu Á khác hay không?
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu này tác giả sẽ sử dụng mô hình SVAR kết hợp với phản ứng xung
và phân rã phương sai để phân tích ảnh hưởng của các loại cú sốc giá dầu đếncác
yếu tố kinh tế vĩ mô ở các quốc gia Châu Á- Thái Bình Dương. Ngoài ra, dữ liệu
trong nghiên cứu là dữ liệu bảng, sử dụng cho 13 quốc gia thuộc khu vực Châu Á-
6
Thái Bình Dương. Mặt khác, khi phân tích mô hình SVAR cho dữ liệu bảng
(PSVAR), bài nghiên cứu sử dụng hai ràng buộc chính: ràng buộc đối với các cú
sốc giá dầu được tổng hợp theo bảng 3.1, dựa trên nghiên cứu của Cunado.J và các
cộng sự (2015) và ràng buộc sự ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các yếu tố
kinh tế vĩ mô. Chi tiết về phương pháp nghiên cứu sẽ được thảo luận rõ trong
chương ba của nghiên cứu này.
1.4 Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
Về mặt lý luận, đề tài sẽ hệ thống hóa các nghiên cứu về tác động của cú sốc giá
dầu lên các yếu tố kinh tế vĩ mô và ngược lại. Đồng thời chỉ ra cơ chế truyền dẫn
của cú sốc giá dầu lên các yếu tố kinh tế vĩ mô. Từ đó rút ra kết luận về những ảnh
hưởng và tác động của các các cú sốc giá dầu đối với các yếu tố kinh tế vĩ mô ở các
nước thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Về mặt thực tiễn, đề tài tiến hành xây dựng một mô hình định lượng để xác định các
tác động của cú sốc giá dầu đến các yếu tố kinh tế vĩ mô ở các nước châu Á Thái
Bình Dương có tầm quan trọng ngày càng lớn trên thị trường thế giới và cũng là
một điểm nóng trong thời gian quan cả về dầu mỏ lẫn chính trị. Từ đó cung cấp
những cơ sở để đưa ra các chính sách phù hợp điều hành lãi suất phù hợp với diễn
biến lạm phát và tăng trưởng.
Ngoài ra, điểm mới của đề tài là phân tích cú sốc giá dầu thành ba loại khác nhau,
sau đó ước lượng ảnh hưởng của các cú sốc giá dầu đến các yếu tố kinh tế vĩ mô ở
các quốc gia Châu Á - Thái Bình Dương, thông quan mô hình SVAR với dữ liệu
bảng (PSVAR).
Đặc biệt hơn, dù nghiên cứu chỉ cung cấp bằng chứng thực nghiệm một cách tổng
quan khi đặt Việt Nam trong mẫu chung với các quốc gia khác tại khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương, nhưng những nhà hoạch chính sách tại Việt Nam vẫn có thể sử
dụng kết quả để làm cơ sở so sánh.
7
1.5 Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Phụ lục, danh mục bảng, danh mục viết tắt, danh mục hình, tài liệu
tham khảo, Nghiên cứu được tổ chức theo cấu trúc như sau:
Chương 1: Giới thiệu. Trong chương này, tác giả giới thiệu chung về nghiên cứu
trình bày lý do, mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và kết
cấu của đề tài.
Chương 2: Tổng quan các nghiên cứu trước đây. Trong chương này, tác giả trình
bày các lý thuyết nền tảng và tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng
của các cú sốc giá dầu đến các yếu tố kinh tế vĩ mô của các quốc gia.
Chương 3: Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu. Trong chương này, tác giả trình bày
phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu, mô tả cụ thể nguồn thu thập số liệu
cũng như mô hình nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả Phân tích thực nghiệm. Trong chương này, tác giả trình bày và
thảo luận kết quả nghiên cứu đã đạt được, so sánh kết quả với các nghiên cứu trước
đó để rút ra kết luận.
Chương 5: Kết luận. Trong chương này, tác giả trình bày những kết luận của bài
nghiên cứu; một số hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu mở rộng.
8
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Trong chương hai, tác giả tập trung thảo luận các lý thuyết nền tảng cho thấy có tồn
tại các cú sốc khác nhau trong giá dầu, các cú sốc có vai trò thế nào trong sự biến
động của giá dầuvà các cú sốc này sẽ tác động đến các yếu tố vĩ mô của nền kinh tế
theo một chu trình như thế nào. Chương này cũng điểm lại một số nghiên cứu thực
nghiệm của các tác giả khác trên thế giới từ trước đến nay.
2.1 Các loại cú sốc giá dầu
Theo quan điểm của Kilian (2009),tồn tại ba cú sốc khác nhau trong giá dầu, ảnh
hưởng đến sự biến động của giá dầu, bao gồm cú sốc từ nguồn cung dầu (oil supply
shocks), cú sốc từ tổng nhu cầu dầu (aggregate demand shocks); và những cú sốc
phát sinh do nhu cầu phòng ngừa rủi ro giá dầu (oil market specific demand shocks
/precautionary demand shocks). Để tìm hiểu xem giá trị thực của dầu được quyết
định bởi yếu tố nào, Kilian (2009) sử dụng một vector tự hồi quy (VAR) với ba
biến, nguồn cung dầu, giá thực tế của dầu và một biến trung gian đại diện cho nhu
cầu toàn cầu đối với các mặt hàng công nghiệp. Với tác dụng đo lường hoạt động
kinh tế toàn cầu thực sự, Kilian (2009) xác định, dựa trên một cấu trúc đệ quy, ba cú
sốc giá dầu bao gồm: một cú sốc từ nguồn cung cấp dầu, một cú sốc dầu cụ thể thị
trường và một cú sốc nhu cầu toàn cầu. Kilian (2009) đã chỉ ra, cú sốc phát sinh do
nhu cầu phòng ngừa rủi ro giá dầu ảnh hưởng nhiều nhất đến sự thay đổi trong giá
dầu. Tiếp theo đó là giá dầu chịu ảnh hưởng của cú sốc tổng nhu cầu dầu và cuối
cùng là chịu ảnh hưởng của cú sốc phát sinh do nguồn cung dầu mỏ. Như vậy, có ba
nhân tố góp phần tạo nên sự thay đổi trong giá dầu.
Thứ nhất, cú sốc từ nguồn cung dầu. Cú sốc nguồn cung dầu chính là sự sụt giảm
trong ngắn hạn trong việc cung ứng dầu mỏ của những nước xuất khẩu dầu mỏ,
chẳng hạn xuất hiện những mâu thuẫn chính trị hay thay đổi trong hạn ngạch xuất
khẩu của khối OPEC (Cunado và các cộng sự, 2015). Khi xảy ra sự sụt giảm nguồn
cung dầu sẽ khiến cho giá dầu thay đổi theo chiều hướng tăng. Khi giá dầu đã tăng
thì sẽ gây ra sự sụt giảm trong hoạt động kinh tế trễ hơn sau đó.
9
Thứ hai, cú sốc từ tổng nhu cầu dầu mỏ.Khi nền kinh tế mở rộng, nhu cầu dầu mỏ
có xu hướng tăng, thúc đẩy giá dầu tăng. Tiếp sau đó, khi giá dầu tăng thì lại làm
chotổng nhu cầu dầu mỏ thay đổi theo chiều hướng giảm. Khi nhu cầu tiêu thụ dầu
mỏ sụt giảm sẽ tạo ra áp lực làm giá giảm về điểm cân bằng mới (Kilian, 2009).
Thứ ba, cú sốc phòng ngừa. Theo Kilian (2009), khi giá trị thực của dầu không
được giải thích dựa vào cú sốc cung dầu hoặc cú sốc cầu dầu, thì giá trị thực của
dầu sẽ được giải thích từ những thay đổi trong chính giá dầu (giá bán dầu trên thị
trường). Đây chính là những cú sốc phát sinh từ nhu cầu phòng ngừa. Khi những
nhà cung cấp dầu mỏ dự báo rằngnhu cầu tiêu thụ dầu giảm, sẽ cắt giảm nguồn
cung dầu. Còn đối với những người có nhu cầu sử dụng dầu mỏ trong tương lai sẽ
lo sợ gánh chịu tổn thất từ sự sụt giảm nguồn cung, từ đó sẽ phát sinh nhu cầu
phòng ngừa. Có nghĩa rằng, khi thị trường không chắc chắn về nguồn cung dầu hay
nguồn cầu dầu sắp tới, sẽ phát sinh nhu cầu phòng ngừa cho những điều thay đổi
không chắc chắn này. Vì vậy, cú sốc có nguồn gốc từ nhu cầu phòng ngừa về sự
không chắc chắn trong nguồn cung dầu ở tương lai. Hay nói cách khác cú sốc phòng
ngừa về bản chất cũng bắt nguồn từ sự thay đổi nguồn cung dầu, nhưng ở tương lai.
Tiếp đến, trong nghiên cứu được công bố vào năm 2011, bằng việc sử dụng mô
hình Bayesian VAR, Baumeister và các cộng sự đã chứng mình rằng sự gia tăng
trong giá dầu là do nguồn cung dầu sụt giảm và sự gia tăng nhu cầu dầu mỏ trong
ngắn hạn. Gần đây nhất, Kilian (2015) cho thấy, cú sốc từ nguồn cung dầu phát
sinh, trước tiên sẽ làm giá dầu tăng, sau đó trễ hơn việc giá dầu tăng sẽ gây ra sự sụt
giảm trong hoạt động kinh tế (làm sụt giảm nhu cầu dầu mỏ cho sản xuất).
Từ những lập luận trên có thể thấy, mặc dù có ba cú sốc khác nhau ảnh hưởng đến
sự thay đổi trong giá dầu, nhưng nguyên nhân sâu xa ảnh hưởng đến hoạt động kinh
tế của các quốc gia là từ sự thay đổi trong nguồn cung dầu mỏ (Kilian, 2015). Phần
2.2 tiếp theo sau, tác giả sẽ trình bày sự truyền dẫn của các cú sốc giá dầu đến nền
kinh tế của các quốc gia.
10
2.2Các kênh truyền dẫn của cú sốc giá dầu đến nền kinh tế vĩ mô
Như thảo luận ở phần 2.1, giá dầu thay đổi theo chiều hướng tăng do ảnh hưởng từ
cú sốc nguồn cung dầu (oil supply shocks), hoặc nhu cầu dầu mỏ (aggregate
demand shocks). Khi giá dầu tăng sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với các chỉ số vĩ
mô khác của nền kinh tế? Cụ thể, dựa theo nghiên cứu của Cunado và các cộng sự
(2015), các biến được chọn làm đại diện cho nền kinh tế vĩ mô trong nghiên cứu
bao gồm: tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tỷ giá hối đoái (EX), chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) và lãi suất chiết khấu (DR).
Theo Cunado và các cộng sự (2015), Tang và cộng sự (2010), bốn biến này được
chọn để đại diện cho nền kinh tế vĩ mô là vì:
-
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế sẽ thể hiện qua sự tăng trưởng sản
lượng, hay đó chính là tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
-
Áp lực lạm phát: đại diện cho sự biến động giá cả của nền kinh tế, thể hiện
qua chỉ số giá tiêu dùng (CPI).
-
Tỷ giá hối đoái (EX) thể hiện sự lưu chuyển dòng vốn giữa các nền kinh tế
-
Chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát được phân tích dựa trên sự biến
động của lãi suất chiết khấu (DR)
Như vậy, cũng dựa trên nghiên cứu của Tang và cộng sự (2010), mối liên hệ sữ giá
dầu và các biến kinh tế vĩ mô sẽ được mô tả một cách tổng quát theo sơ dồ 2.1 và
sáu kênh truyền dẫn được trình bày chi tiết bên dưới, bao gồm Ảnh hưởng của cú
sốc cung dầu, Hiệu ứng chuyển giao thu nhập và tổng cầu, Áp lực lạm phát, Hiệu
ứng cân bằng thực, Cú sốc giá dầu và ảnh hưởng bất đối xứng và Hiệu ứng ngoài kỳ
vọng.
11
Hình 2.1. Sơ đồ kênh truyền dẫn của cú sốc giá dầu đến nền kinh tế vĩ mô
Nguồn: Nghiên cứu của Tang và cộng sự (2010),Nguyễn Thị Liên Hoa (2012)
Dựa theo nghiên cứu của Brown và Yücel (2002), Tang và cộng sự (2010) chỉ ra giá
dầu thay đổi sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế vĩ mô theo sáu kênh truyền dẫn chính
như sau:
- Ảnh hưởng của cú sốc cung dầu (A Classic Supply-Side Shock): ảnh hưởng trực
tiếp đến sản lượng đầu ra vì cú sốc nguồn cung làm giá dầu thay đổi, từ đó chi phí
sản xuất biên cũng thay đổi theo (Tang và các cộng sự, 2010). Đó chính là cú sốc
cung dầu. Cụ thể hơn, sự tăng giá dầu có thể được xem là một chỉ báo từ một cú sốc
trong tổng nguồn cung dầu. Sự tăng giá chính là báo hiệu cho sự khan hiếm của
nguồn năng lượng vốn được xem là nguyên liệu đầu vào cơ bản của sản xuất. Do
đó, tốc độ tăng trưởng sản lượng và năng suất của các ngành công nghiệp sẽ sụt
giảm. Điều này dẫn đến giảm mức tăng lương thực và tăng tỷ lệ thất nghiệp (Brown
và Yule, 2002). Tiếp đến, nếu người tiêu dùng kỳ vọng rằng việc tăng giá dầu chỉ là
tạm thời và trong dài hạn sẽ ảnh hưởng mạnh đến sản lượng đầu ra, họ sẽ có khuynh
hướng hạn chế tiết kiệm và gia tăng vay mượn, điều này làm lãi suất tăng.
12
Như vậy,giá dầu tăng do cú sốc từ nguồn cung dầu, sẽ làm giảm sự tăng trưởng
GDP, tức gây ra sự sụt giảm trong hoạt động kinh tế và tăng lãi suất thực trong dài
hạn (Brown và Yule, 2002).
- Hiệu ứng chuyển giao thu nhập và tổng cầu (Income Transfers and Aggregate
Demand)
Trong nghiên cứu của Fried và Schulze (1975); Dohner (1981) đề cập, sự tăng giá
dầu sẽ chuyển giao thu nhập từ các nước nhập khẩu dầu thô sang các nước xuất
khẩu dầu thô, điều này làm giảm cầu tiêu dùng ở nước nhập khẩu và tăng cầu ở
nước xuất khẩu, tuy nhiên mức độ tăng lại ít hơn, từ đó làm tổng cầu của cả thế giới
đối với sản phẩm của nước nhập khẩu giảm, làm tăng cung tiết kiệm. Cung tiết
kiệm tăng gây áp lực giảm lãi suất thực và mức giảm này có thể lấn át mức tăng lãi
suất thực do người tiêu dùng ổn định chi tiêu. Lãi suất giảm sẽ kích thích đầu tư,
điều này sẽ bù đắp cho mức giảm trong tiêu dùng, vì vậy tổng cầu không thay đổi ở
các nước nhập khẩu dầu thô.
Tuy nhiên, nếu giá cả khó điều chỉnh giảm, sự sụt giảm trong tiêu dùng hàng hóa
sản xuất ở những nước nhập khẩu dầu mỏ sẽ làm tăng trưởng GDP giảm hơn nữa.
Tiêu dùng giảm sẽ tạo áp lực làm giá giảm về điểm cân bằng mới.
Mặt khác, nếu giá dầu tăng cung nội tệ tại nước nhập khẩu dầu mỏ sẽ có xu hướng
tăng, điều này cũng góp phần ảnh hưởng đến tỷ giáhối đoái danh nghĩa tại nước
nhập khẩu dầu mỏ.
Còn tại nước xuất khẩu dầu mỏ, cung ngoại tệ sẽ nhiều hơn, sẽ ảnh hưởng tạm thời
đến tỷ giá hối đoái danh nghĩa tại nước xuất khẩu dầu mỏ. Nhưng, không phải lúc
nào giá dầu tăng cũng mang lại thu nhập nhiều hơn cho nước xuất khẩu dầu mỏ.
Chẳng hạn như trong nghiên cứu của Abeysinghe (2001),với dữ liệu nghiên cứu
gồm10 nền kinh tế Châu Á (Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan, Hồng
Kông, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản) và Mỹ đã cho thấy
ngay cả những nước xuất khẩu dầu mỏ như Indonesia và Malaysia cũng không thể
thoát khỏi sự ảnh hưởng tiêu cực nếu giá dầu giữ ở mức cao.Mặc dù giá dầu tăng có
thể góp phần chuyển giao thu nhập từ nước nhập khẩu sang cho nước xuất khẩu.
13
Nhưng, trong dài hạn, vì có thêm những hiệu ứng bổ sung trong phản ứng của giá
dầu nên sự thay đổi của giá dầu góp phần ảnh hưởng tới nền kinh tế của các quốc
gia xuất khẩu dầu mỏ theo hướng tiêu cực.
Như vậy, theoBrown và Yule (2002),cú sốc giá dầu có thể tác động đến hoạt động
kinh tế của các quốc gia xuất khẩu và nhập khẩu dầu mỏ, thông qua hiệu ứng
chuyển giao sức mua từ những nước nhập khẩu dầu thô sang những nước xuất khẩu
dầu thô.
- Áp lực lạm phát: giá dầu tăng sẽ tạo áp lực tăng lạm phát trong nền kinh tế. Có
thể giải thích điều này thông qua lý thuyết lạm phát do chi phí đẩy:
Theo lý thuyết lạm phát do chi phí đẩy, ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là:
tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập khẩu.Dầu được xem là nguyên
liệu nhập khẩu đầu vào của mọi ngành sản xuất kinh doanh. Giá dầu sẽ góp phần
trong việc quyết định chi phí sản xuất của nền công nghiệp, và cũng nằm trong yếu
tố cấu thành nên giá trị của sản phẩm đầu ra. Jones và Kaul (1996) chỉ ra, khi giá
dầu cao hơn đồng nghĩa với việc nhiên liệu đắt đỏ hơn, có thể tạo nên chi phí cao
hơn trong vận chuyển, làm cho giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ gia tăng theo. Hiệu
ứng này có thể lần lượt mang đến các lo ngại về lạm phát. Do đó, người tiêu dùng
sẽ có nhiều hạn chế trong chi tiêu của họ và có thể làm giảm nhu cầu đối với hàng
hóa và dịch vụ.
Mặt khác, khi giá dầu tăng, kỳ vọng lạm phát sẽ tăng, do chi phí đầu vào của doanh
nghiệp tăng, tiếp theo đó khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
bị thu hẹp. Theo thời gian, nếu giá dầu tiếp tục tăng cao sẽ làm giảm tốc độ tăng
trưởng và giá trị doanh nghiệp, để từ đó gây ra sự sụt giảm trong giá cổ phiếu của
các công ty.Giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp sụt giảm làm giảm lợi nhuận thực và
kỳ vọng của nhà đầu tư đối với chứng khoán và thị trường chứng khoán sẽ có xu
hướng sụt giảm lợi nhuận tổng thể. Cuối cùng, đầu tư của nền kinh tế giảm.
Vậy, khi lạm phát tăng xuất phát từ cú sốc tăng giá của dầu thì chi phí sản xuất tăng,
làm lợi nhuận giảm và đầu tư cũng giảm theo. Nếu người tiêu dùng nhìn nhận đây là
một cú sốc ngắn hạn, họ sẽ giữ ổn định chi tiêu bằng cách tiết kiệm ít hơn và tăng
14
vay mượn, điều này làm tăng lãi suất thực cân bằng. Tăng trưởng sản lượng chậm
lại, lãi suất thực tăng sẽ làm giảm lượng cầu đối với số dư tiền mặt thực tế và với
mức tăng trưởng cung tiền nhất định, tỷ lệ lạm phát sẽ tăng. Như vậy, giá dầu tăng
sẽ làm giảm tăng trưởng GDP, làm tăng lãi suất thực và nguy cơ lạm phát.
Nếu tiền lương danh nghĩa khó thay đổi theo hướng giảm đi (sticky downward), sự
suy giảm trong tăng trưởng GDP sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp và làm tăng trưởng
GDP giảm hơn nữa - nếu lạm phát tương lai không bằng đúng mức sụt giảm trong
tăng trưởng. Sự suy giảm ban đầu trong tăng trưởng GDP đi cùng với sự sụt giảm
năng suất lao động vàdoanh nghiệp có xu hướng cắt giảm nhân công, làm tăng tỷ lệ
thất nghiệp và giảm GDP. Điều này gây áp lực làm tăng lạm phát.
Như vậy, giá dầu tăng sẽ làm giảm tăng trưởng GDP, làm tăng lãi suất thực và nguy
cơ tăng lạm phát. Nếu người dân và các nhà sản xuất nhìn thấy lạm phát có xu
hướng tăng sẽ phát sinh nhu cầu phòng ngừa rủi ro lạm phát, bằng cách cắt giảm
nhu cầu dầu mỏ trong dài hạn. Và tiếp đến, các nhà sản xuất sẽ điều chỉnh sản lượng
cung dầu. Khi cung dầu và cầu dầu thay đổi thì giá dầu sẽ thay đổi theo. Đây cũng
có thể chính là cú sốc phòng ngừa rủi ro giá dầu theo như quan điểm của Kilian
(2009).
- Hiệu ứng cân bằng thực (Real balances effect): Mork (1994) cho rằng, hiệu ứng
cân bằng thực chính là câu trả lời cho lý do tại sao cú sốc giá dầu lại ảnh hưởng đền
toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Khi giá dầu tăng làm tăng nhu cầu tiền. Khi nhu
cầu tiền tăng thì lãi suất cũng tăng theo. Lúc này, chính sách tiền tệ được sử dụng
bằng cách tăng cung tiền. Việc tăng cung tiền cũng góp phần duy trì tỷ lệ tăng
trưởng GDP danh nghĩa (Brown và Yule, 2002). Nếu cơ quan điều hành chính sách
tiền tệ tiếp tục duy trì tăng tỷ lệ cung tiền, lãi suất giảm và GDP danh nghĩa tăng
làm tăng lạm phát. Nếu mức tăng lạm phát cao hơn mức tăng của GDP danh nghĩa
thì GDP thực sẽ giảm. Khi đó lãi suất sẽ tăng để ổn định lạm phát. Vì vậy, nếu
chính sách tiền tệ không có tác dụng thì lãi suất vẫn giữ mức tăng và đi kèm theo đó
là sản lượng sụt giảm.
15
- Cú sốc giá dầu và ảnh hưởng bất đối xứng (The asymmetry in oil-price shock
impact). Khi giá dầu tăng sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế không giống như trường
hợp giá dầu giảm. Mory (1993) đã phân tích hai khía cạnh khác nhau trong sự thay
đổi của giá dầu. Bằng phân tích Granger, Mory (1993)đã kiểm định được, khi giá
dầu có xu hướng tăng thì sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế, nhưng khi giá dầu có xu
hướng giảm thì lại không ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế. Tiếp sau đó, Ferderer
(1996) đã chứng minh khi giá dầu tăng thì sẽ giải thích được sự thay đổi trong hoạt
động sản xuất công nghiệp, còn khi giá dầu giảm thì rất khó giải thích được sự thay
đổi trong hoạt động sản xuất công nghiệp.
Như vậy, khi cú sốc giá dầu tăng hoặc giảm sẽ có những tác động không giống
nhau đến nền kinh tế vĩ mô.
- Hiệu ứng ngoài kỳ vọng (Unexpected effects): trường hợp giá dầu thay đổi
ngoài mong đợivà có những thay đổi không theo một xu hướng nàothì sẽ tác động
thế nào đến nền kinh tế. Kilian (2009) đã đề cập, khi thị trường không chắc chắn về
nguồn cung dầu hay nguồn cầu dầu sắp tới, sẽ phát sinh nhu cầu phòng ngừa cho
những điều thay đổi không chắc chắn này. Từ đây, sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu thực
tế của dầu mỏ và góp phần tạo nên sự thay đổi giá cả dầu mỏ ở hiện tại. Giá dầu ở
hiện tại thay đổi sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế trong tương lai.Trường
hợp khác, Milani (2009) đã phát hiện giá dầucó thêm một hiệu ứng bổ sung tác
động đến nền kinh tế. Hiệu ứng này hoạt động thông qua tác động của sự thay đổi
giá dầu tới sự hình thành kỳ vọng trong tương lai về sản lượng, lạm phát. Kỳ vọng
là giá dầu sẽ ngày càng ảnh hưởng nhiều tới sản lượng và lạm phát, từ đó chính sách
tiền tệ được đưa ra để đối phó với trường hợp này. Sẽ có hai trường hợp, chính sách
tiền tệ quá mạnh sẽ góp phần khuếch đại tác động của giá dầu đến nền kinh tế theo
hướng trầm trọng hơn nữa hoặc chính sách tiền tệ sẽ phát huy tác dụng và làm giảm
sự tác động của biến động giá dầu đối với nền kinh tế. Kết quả nghiên cứu của
Milani (2009) tại Mỹ cho thấy:giá dầu biến động sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế thông
qua nhiều kênh khác nhau nhưng theo thời gian khi các nhà điều hành chính sách thi
hành các chính sách để kiểm soát các ảnh hưởng của giá dầu đến nền kinh tế, vì vậy
16
tác động của giá dầu đối với nền kinh tế vĩ mô có thay đổi. Giá dầu được phát hiện
là có ảnh hưởng lớn tới sản lượng và lạm phát trước những năm 1970 và ảnh hưởng
không đáng kể sau giữa năm 1980. Có nghĩa rằng, những hiệu ứng bổ sung ngoài
dự đoán của giá dầu đã được các nhà điều hành chính sách kiểm soát được.
Như vậy, dựa trên lý thuyết về sự truyền dẫn của thay đổi giá dầu đến nền kinh tế vĩ
mô được trình bày bên trên, tóm gọn lại giá dầu thay đổi có nguyên nhân từ những
cú sốc khác nhau. Khi giá dầu thay đổi sẽ tạo ra sự ảnh hưởng đến sản lượng
(GDP), tỷ giá hối đoái, lãi suất, lạm phát (CPI), thu nhập, đầu tư, thất nghiệp và ảnh
hưởng như thế nào thì tùy theo sự thay đổi của giá dầu theo chiều hướng tăng hay
giảm.
2.3 Những bằng chứng thực nghiệm về tác động của các cú sốc giá dầu đến nền
kinh tế vĩ mô
Nhìn chung các nghiên cứu về tác động của cú sốc giá dầuđến nền kinh tế vĩ mô,
đều dựa trên lý thuyết cơ bản về truyền dẫn của cú sốc giá dầu. Bên cạnh những
nghiên cứu đã được liệt kê ở phần 2.2, còn có những bằng chứng thực nghiệm nổi
bật về tác động của cú sốc giá dầu đến nền kinh tế vĩ mô.
Tại khu vực Châu Mỹ, ngay từ thập niên 80, Hamilton đã thực hiện nghiên cứu
đánh giá tác động của giá dầu đến sáu biến đại diện cho nền kinh tế Mỹ, bao gồm
hai biến đại diện cho sản lượng đầu ra là GNP (Tổng sản lượng quốc gia) thực và tỷ
lệ thất nghiệp; ba biến giá cả là giảm phát tính trên lợi nhuận của khu vực phi nông
nghiệp, lương tính theo giờ của người lao động và giá nhập khẩu; và biến cung tiền
M1 đại diện cho nhân tố tài chính. Mặc dù, Hamilton (1993) không tìm thấy bằng
chứng cho thấy các biến kinh tế vĩ mô có thể dự đoán cho những biến động trong
tương lai của giá dầu, cũng như cho những cuộc suy thoái tiếp sau đó. Nhưng tổng
sản lượng của Mỹ cũng đã được tìm thấy là có mối quan hệ không cân xứng với sự
thay đổi của giá dầu.
Tiếp đến Sadorsky (1999), khi sử dụng mô hình VAR để phân tích mối quan hệ giữa
giá dầu, lãi suất, sản xuất công nghiệp và chỉ số giá tiêu dùng và thị trườngchứng