Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

bài thu hoạch lớp cảm tình đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.9 KB, 45 trang )

Câu 1: Phân tích hoàn cảnh ra đời và vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự hình thành
Đảng Cộng Sản Việt Nam?
Câu 2: Từ khi ra đời đến nay, ĐCSVN đã lãnh đạo nhân dân giành những thắng lợi vĩ đại nào? Khái
quát các thắng lợi đó trong hơn 85 năm qua
Câu 3: Phân tích những truyền thống vẻ vang của ĐCSVN
Câu 4: Phân tích và nêu rõ bối cảnh quốc tế của sự quá độ lên CNXH ở nước ta
Câu 5: Phân tích những đặc trưng cơ bản của mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng?
Câu 6: Phân tích những phương hướng cơ bản đi lên CNXH và những mqh cần nắm vững, xử lí tốt
để đạt được mục tiêu đặt ra
Câu 7: Trình bày định hướng về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của đảng
Câu 8: Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện ở những điểm chủ yếu nào trong điều lệ Đảng
Câu 9: ĐCSVN tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó được
điều lệ Đảng quy định ntn?
Câu 10: Hệ thống tổ chức Đảng được lập ntn
Câu 11: Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên ntn
Câu 12: Vì sao cần học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong gia đoạn
hiện nay?
Câu 13: Trình bày tóm tắt nội dung tư tưởng, đạo đức, phong cách HCM
Câu 14: Phân tích nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách HCM trong giai đoạn
hiện nay
Câu 15: Những người ntn thì có thể được xét để kết nạp vào đảng
Câu 16: Vì sao vấn đề xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa
quyết định đối với việc phấn đấu để trở thành đảng viên
Câu 17: Cần làm gì và phấn đấu ntn để trở thành đảng viên (Trình bày hiểu biết của Anh, Chị trong
việc phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam? Liên hệ bản thân trong việc phấn đấu
trở thành Đảng viên?)
Câu 18: Vấn đề mà Anh, Chị tâm đắc nhất khi tham gia lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng; Anh, Chị có
những kiến nghị, đề xuất gì cho công tác tổ chức, truyền đạt nội dung, v.v... với Ban tổ chức lớp học
nhằm rút kinh nghiệm tổ chức tốt hơn các lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng cho sinh viên sau này?
TRẢ LỜI
Câu 1: Phân tích hoàn cảnh ra đời và vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự hình


thành Đảng Cộng Sản Việt Nam?
 Hoàn cảnh lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1. Hoàn cảnh quốc tế:
- Trên thế giới lúc này Chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ và chuyển sang Đế quốc chủ
nghĩa, chúng tiến hành đi xâm chiếm các nước khác, nhiều dân tộc bị áp bức thống trị. Vấn đề dân
tộc nổi lên và trở thành vấn đề của thời đại.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin lúc này đã phát triển mạnh mẽ, Cách Mạng Tháng 10 Nga thành công
và một nước Xã Hội Chủ Nghĩa đầu tiên ra đời, mở ra một thời đại mới trong lịch sử phát triển của
loài người, thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng. Cuộc cách mạng
đó đã đem lại cho nhân dân một cuộc sống mới tốt đẹp hơn.
- Nhiều nước học tập kinh nghiệm của Cách Mạng Tháng 10 (Cách Mạng Vô Sản đã làm thay
đổi toàn bộ bộ mặt của nước Nga biến một nước Nga tiền Tư bản rất lạc hậu, người dân vô cùng cực
khổ thành một nước Xã Hội Chủ Nghĩa hoàn toàn và trong đó có Việt Nam, sự học tập này kinh
nghiệm đúng đắn của Cách Mạng Tháng 10 Nga đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Các Đảng Cộng Sản liên kết với nhau thành lập Quốc tế Cộng Sản, trong quốc tế Cộng Sản
có rất nhiều Đảng Cộng Sản rất nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam, trong đó nổi bật nhất là: Đảng
Cộng Sản Pháp, Đảng Cộng Sản Ấn Độ, Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Thái Lan.
2. Hoàn cảnh trong nước:
a. Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa
- Từ đâu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây, trong đó có đế quốc Pháp, đã âm mưu
xâm lược nước ta, mở đầu bằng việc khai thông buôn bán và truyền giáo.
- Nǎm 1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà Nguyễn từng
bước đầu hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà Nguyễn đã ký Hiệp ước Patơnốt,


hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở thành thuộc địa của đế quốc Pháp.
Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
- Về chính trị thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế. Mọi quyền hành đều nằm trong
tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn. Chúng thi hành chính sách chia để
trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, rồi lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp

nhằm xoá tên các nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới.
- Về kinh tế tư bản Pháp không phát triển công nghiệp ở nước ta, mà chỉ mở mang một số
ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài nguyên để cung cấp nguyên liệu cho
nền công nghiệp của nước Pháp.
- Chính sách độc quyền kinh tế Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc, nơi
vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt.
- Bên cạnh sự bóc lột nhân công và cướp đoạt tài nguyên, đất đai, bọn thực dân Pháp còn duy
trì chế độ phong kiến để giúp chúng bóc lột địa tô, lợi tức và các hình thức thuế khoá rất nặng nề.
- Các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông
dân, với giai cấp phong kiến địa chủ chưa được giải quyết, thì mâu thuần giữa dân tộc ta với bọn đế
quốc Pháp thống trị và phong kiến tay sai của chúng lại phát sinh, càng đẩy nhanh quá trình cách
mạng của nhân dân ta.
- Đánh giá về hiện tượng xã hội nói trên, đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết: "Sự tàn bạo của chủ
nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của
công cuộc giải phóng nữa thôi"
- Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương thức sản xuất
phong kiến lỗi thời đã làm phân hoá các giai cấp cũ, tạo ra kết cấu giai cấp mới.
b. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hoá, giai cấp công nhân ra đời
- Giai cấp địa chủ phong kiến trong những thế kỷ trước đã từng giữ vai trò tiến bộ nhất định
trong lịch sử. Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng đế quốc Pháp thì bản thân giai cấp này cũng bị
phân hóa. Một bộ phận can tâm làm tay sai cho đế quốc Pháp để duy trì quyền lợi của bản thân, một
bộ phận không ít tiếp tục truyền thống dân tộc, đề xướng và lãnh đạo các phong trào Vǎn thân, Cần
vương chống đế quốc Pháp xâm lược, khôi phục triều đình phong kiến. Một số trở thành những lãnh
tụ của phong trào quần chúng nông dân, vừa đấu tranh chống đế quốc Pháp, vừa chống lại triều đình
bán nước.
- Một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư sản Việt
Nam xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã bị sự
chèn ép của tư bản Pháp và phân hoá thành hai bộ phận. Một số ít ôm chân đế quốc, tham gia vào các
cơ quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư sản mại bản. Một bộ phận khác tuy có
mâu thuẫn nhất định với tư bản Pháp và triều đình phong kiến, nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, què quặt,

phụ thuộc, khuynh hướng chính trị cải lương. Do vậy, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam tuy có tinh
thần yêu nước, chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ không có khả nǎng lãnh đạo cách mạng. Họ
chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất định.
- Tầng lớp trí thức và tiểu tư sản là những người vốn được chế độ phong kiến và thực dân đào
tạo. Nhưng do truyền thống yêu nước chi phối, họ khao khát độc lập, tự do, dân chủ, nên cũng bị
phân hoá. Một số ít cam tâm làm tay sai. Số đồng vẫn giữ được khí tiết dù ở hoàn cảnh nào cũng
không nguôi lòng cứu nước. Khi có điều kiện, những trí thức yêu nước thường đóng vai trò truyền bá
những tư tưởng mới và là ngòi pháo của các cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến.
- Giai cấp nông dân khao khát độc lập và ruộng đất, hǎng hái chống đế quốc và phong kiến.
Sau phong trào Vǎn thân, Cần vương, nhất là sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên thế (1913), phong
trào nông dân bị phân tán. Nông dân là một lực lượng đông đảo, yêu nước, nhưng không thể tự vạch
ra đường lối đúng đắn để tự giải phóng và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng.
- Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng
một số cơ sở công nghiệp, đồn, trại và thành phố phục vụ cho cuộc xâm lược và binh định nước ta.
- Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông dân và các tầng lớp
lao động khác, giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư
sản, phần lớn xuất thân từ nông dân. Đó là cơ sở khách quan thuận lợi cho hai giai cấp cơ bản này có
sự liên minh tự nhiên từ khi ra đời và phát triển trong quá trình đấu tranh cách mạng.


- Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, không có cơ sở xã hội cho chủ nghĩa công đoàn và chủ
nghĩa cải lương thâm nhập, lũng đoạn từ bên trong, do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn trẻ,
số lượng ít, trình độ vǎn hoá, kỹ thuật còn thấp, nhưng ở nước ta đó là giai cấp đại biểu cho lực lượng
sản xuất tiến bộ nhất, sống tập trung, có ý thức kỷ luật, có nǎng lực cách mạng triệt để và có tinh thần
quốc tế vô sản.
- Là con đẻ của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới, khi mà giai cấp công nhân
Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Bônsêvích đã giành được chính quyền, Quốc tế cộng sản đã
thành lập, lại được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giác ngộ, giai cấp công nhân Việt Nam đã từ giác ngộ
dân tộc đến giác ngộ giai cấp, nhanh chóng phát triển từ tự phát đến tự giác.

c. Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dàn tộc, nhiều đảng phái xuất hiện
- Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế kỷ này đã
chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống đế quốc Pháp xâm lược.
Nhưng cuối cùng đều không giành được thắng lợi vì không có một đường lối cứu nước đúng đắn.
- Trước kia, chế độ phong kiến khi đang ở giai đoạn hưng thịnh, giai cấp phong kiến đã từng
lãnh đạo dân tộc đánh thắng bọn phong kiến phương bắc lớn mạnh xâm lược. Nhưng khi chế độ
phong kiến đã suy tàn và phải đối phó với một kẻ thù mới, một đế quốc thuộc loại cường quốc thế
giới, thì giai cấp phong kiến bất lực và trở thành phản động.
- Thất bại của phong trào Cần vương là do thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ chức cách mạng
có khả nǎng dắt dẫn dân tộc đến thắng lợi. Thất bại của phong trào này đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ
dấu tranh chống ngoại xâm trong khuôn khổ hệ tư tưởng phong kiến. Thất bại của cuộc khởi nghĩa
Yên Thế dưới sự lãnh đạo của cụ Hoàng Hoa Thám cũng chứng tỏ đó không phải là con đường giành
thắng lợi.
- Khi các phong trào trên chấm dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước ở nước ta bộc
lộ sâu sắc. Sau khi từng bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến,
nhiều người yêu nước Việt Nam hướng ra nước ngoài, tìm đến nhưng con đường mới để mưu sự
nghiệp giải phóng dân tộc như: con đường Duy Tân của Nhật Bản (1860), con đường Cách mạng tư
sản Pháp (1789), con đường Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc (1911)...
- Ý thức hệ tư sản phương Tây đã thâm nhập vào Việt Nam. Một số sĩ phu tiến bộ tiếp thu tràn
lưu tư tưởng này, mong muốn nước mạnh, dân giàu theo con đường tư bản chủ nghĩa. Họ muốn noi
theo con đường phát triển của Nhật Bản, dựa vào Nhật để đánh Pháp. Tiêu biểu cho khuynh hướng
này là hội Duy Tân do cụ Phan Bội Châu sáng lập, với mục đích cổ động phong trào, tổ chức lực
lượng chống Pháp theo tôn chỉ "mở mang dân trí, chấn hưng dân khí, vun trồng nhân tài". Số khác
như các cụ: Lương Vǎn Can, Nguyễn Quyền... mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội nhằm cổ
động tinh thần yêu nước, bài xích chính sách cai trị của thực dân Pháp, khuyến khích cải cách, chế
diễu lũ phong kiến, cường hào v.v.. Là một nhà yêu nước nhiệt thành, nhưng chủ trương của cụ Phan
Chu Trinh khác hẳn với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan Chu Trinh tiêu biểu cho xu hướng cải cách dân
chủ tư sản (1789), phản đối việc vũ trang bạo động chống Pháp. Cụ nói: "Bất bạo động, bạo động tắc
tử, bất vọng ngoại, ngoại vọng tất vong". Đó là lời tuyên bố của cụ Phan Chu Trinh sau khi đi Nhật
về (15-8-1906). Phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, chống đi phu, nộp thuế ở Trung Kỳ là

kết quả của khuynh hướng tư tưởng tư sản.
- Tính chất phong trào dân tộc ở thời kỳ này có chuyển biến khác trước Một số tổ chức yêu nước ra
đời như hội Duy Tân (1904), trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), hội Đông Á đồng minh (1908),
Việt Nam quang phục Hội (1912-1924) v.v.. Song, vì đường lối chính trị của các tổ chức này không
rõ ràng, nhất là không dựa vào quần chúng lao động, mà dựa vào uy tín cá nhân, nên không tạo ra
được sự thống nhất trong những người đề xướng phong trào. Vì vậy, khi những người thủ lĩnh bị đế
quốc Pháp bắt thì phong trào cũng tan rã theo.
- Cách Mạng Tháng 10 Nga thành công (1917) đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử
nhân loại. Quốc tế cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới
được thành lập. ở Trung Quốc, sau phong trào Ngũ Tứ, Đảng cộng sản Trung Quốc ra đời (1921). ở
Pháp, Đảng cộng sản Pháp được thành lập (1920), sự kiện lịch sử này không chỉ là thắng lợi của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp, mà còn là thắng lợi của các dân tộc thuộc địa Pháp.
- Đồng thời, với những chuyển biến trên thế giới, cách mạng Việt Nam lúc này cũng bắt đầu
có những chuyển biến mới. Tuy nhiên để tránh những sai lầm về đường lối, chủ trương, Cách Mạng
Việt Nam cần tìm được con đường cứu nước đúng đắn, phản ánh đúng nhu cầu phát triển của của xã
hội Việt Nam.


Tất cả các bối cảnh trên đã đặt ra một nhu cầu nóng bỏng cho dân tộc và Cách mạng Việt Nam đó
là cần một tổ chức có đường lối đúng đắn, xây dựng cơ sở đường lối chính trị phù hợp với sự phát
triển của Cách Mạng Việt Nam và đối với phong trào Cách Mạng thế giới. Và tổ chức đó chính là
Đảng Cộng Sản Việt Nam, tuy nhiên để chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng Sản cần trải qua một
giai đoạn chuẩn bị dài và kỹ càng về mặt lý luận. Và người có công lớn đối với sự ra đời của Đảng
Cộng Sản Việt Nam đó là Nguyễn Ái Quốc.
 Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự hình thành của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1. Chuẩn bị về mặt tư tưởng chính trị:
a) Tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa.
- Người viết nhiều bài đăng trên các báo: "Người cùng khổ", "Đời sống công nhân", "Nhân
đạo", tạp chí "Cộng sản", "Thư tín quốc tế", đặc biệt là năm 1925 người viết tác phẩm "Bản án chế độ
thực dân Pháp" đã gây tiếng vang và ảnh hưởng lớn đến các phong trào yêu nước ở trong nước và các

thuộc địa. . .
- Trong nội dung của các bài báo, các tác phẩm, Người đều tập trung lên án chủ nghĩa thực
dân, vạch trần bản chất xâm lược, phản động, bóc lột, đàn áp tàn bạo của chúng. Người tố cáo đanh
thép trước thế giới và nhân dân Pháp tội ác tày trời của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các thuộc địa
và thức tỉnh lòng yêu nước, ý chí phản kháng của các dân tộc thuộc địa.
b) Phát thảo đường lối cứu nước (thể hiện tập trung trong tác phẩm "Đường cách mệnh", năm
1927). Nội dung cơ bản của tác phẩm:
- Đi sâu vạch rõ bản chất phản động của chủ nghĩa thực dân. Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù
chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, là kẻ thù
trực tiếp và nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa...
- Con đường đi lên của Cách mạng Việt Nam là làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tiến
lên làm cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Hai giai đoạn cách mạng này có
quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau.
- Mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa có mối quan hệ khăng khít
với nhau. Phải thực hiện sự liên minh chiến đấu giữa các lực lượng cách mạng ở thuộc địa và chính
quốc. Đặc biệt Người chỉ rõ, cách mạng thuộc địa có tính chủ động, độc lập, có thể giành thắng lợi
trước cách mạng chính quốc, góp phần đảy mạnh cách mạng ở chính quốc.
- Về lực lượng cách mạng: công nông là chủ, là gốc của cách mạng; còn người học trò, nhà
buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Cách mạng là công việc chung của dân chúng chứ
không phải là việc của một hai người.
- Mục tiêu cách mạng: quyền lực thuộc về nhân dân.
- Về đoàn kết quốc tế: đặt Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới; phải
thực hiện liên minh, đoàn kết với các lực lượng cách mạng thế giới.
- Về Đảng, tác phẩn nhấn mạnh: cách mạng muốn thắng lợi trước hết phải có Đảng Cộng Sản
lãnh đạo. Đảng đó phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm hệ tư tưởng và vận dụng học thuyết đó vào Việt
Nam.
Đó là những hoạt động chính trị và những tư tưởng chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc được truyền
bá vào Việt Nam đầu thế kỷ XX, hướng cho các phong trào giải phóng dân tộc theo Cách mạng Vô
Sản, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
 2. Chuẩn bị về mặt tổ chức

- Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng ở các nước thuộc địa Pháp lập ra Hội liên
hiệp các dân tộc thuộc địa, nhằm tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa thực dân.
- Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu. Người đã cùng những nhà lãnh đạo cách mạng Trung
Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Indônêxia...thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á
Đông.
- Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên để huấn luyện
cán bộ trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân, phong trào yêu nước ở
Việt Nam. Đây là tổ chức tiền thân của Đảng.
- Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên và tác phẩm "Đường Cách Mệnh" đã trực tiếp chuẩn bị về
chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam, dẫn đến sự ra đời của
các tổ chức cộng sản ở Việt Nam: Đông Dương cộng sản đảng (6-1929), An nam cộng sản đảng (71929), Đông dương cộng sản liên đoàn (1-1930). Từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất


các tổ chức cộng sản đã họp ở Cửu Long-Hương Cảng-Trung quốc dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái
Quốc, đã nhất trí thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội nghị thông qua Chính Cương vắn tắt, sách
lược tóm tắt, điều lệ vắn tắt của đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng.
- Các văn kiện quan trọng của đảng được hội nghị thông qua là cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
 3. Kết quả của sự chuẩn bị đó:
- Chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cách mạng vô sản được truyền bá ngày càng sâu rộng vào Việt
Nam.
- Tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên đã phát triển rất mạnh mẽ khắp các miền đất nước và kiểu
bào nước ngoài với hàng ngàn hội viên với một hệ thống tổ chức cơ sở đến cả nước. Đó là các chiến
sỹ yêu nước trẻ tuổi đầy nhiệt huyết đang đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường Cách Mạng
Vô Sản và đang tự giác phấn đấu để trở thành các chiến sĩ cộng sản.
- Phong trào đấu tranh của quần chúng dưới sự hướng dẫn của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
phát triển ngày càng mạnh mẽ với hàng trăng cuộc đấu tranh và đang có sự thay đổi về chất lượng
các phong trào, và Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội đã không còn kiểm soát được các
phong trào nữa nên cần phải có một đội ngũ thành lập Đảng Cộng Sản (3/2/1930) . Đây là tổ
chức tiên phong có đủ thế và lực để làm điều này.


Câu 2: Từ khi ra đời đến nay, ĐCSVN đã lãnh đạo nhân dân giành những thắng
lợi vĩ đại nào? Khái quát các thắng lợi đó trong hơn 85 năm qua
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ là hệ tư tưởng
lý luận của giai cấp công nhân, phong trào công nhân mà còn là vũ khí giải phóng giai cấp công
nhân, giải phóng dân tộc, giải phóng toàn xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Việc thành lập
Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng
giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.
Như lịch sử đã thể hiện, trong suốt nhiều thập kỷ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các phong trào đấu
tranh yêu nước và cách mạng Việt Nam, tuy nổ ra liên tiếp và theo nhiều khuynh hướng tư tưởng, con
đường khác nhau, nhưng đều thất bại. Nguyên nhân chung là do tư tưởng dẫn đường của các phong
trào đó và những con đường giải phóng dân tộc, phát triển đất nước do các phong trào đó vạch ra
không còn phù hợp với nhu cầu và xu thế vận động của thế giới trong thời đại mới. Cuộc khủng
hoảng về đường lối và sự bế tắc về con đường cách mạng đã được giải quyết với sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam chủ trương làm cách mạng vô sản, gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách
mạng xã hội chủ nghĩa; gắn mục tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu chủ nghĩa xã hội; gắn cách mạng
Việt Nam với cách mạng thế giới mà đội tiên phong là Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga
vĩ đại. Sự lựa chọn con đường cách mạng đó là sự lựa chọn của chính lịch sử, đáp ứng nguyện vọng
và lợi ích của đông đảo nhân dân Việt Nam. Nhờ vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong hơn 80 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi
vĩ đại:
Một là, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Đây là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm
sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào Xô viết Nghệ – Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 đến
phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945, mặc dù cách mạng có những lúc bị dìm trong máu lửa.
Chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta bị xóa bỏ, một kỷ nguyên mới mở ra, kỷ nguyên độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh
thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện

thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kế
thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi còn chiến tranh và
trong những năm đầu sau khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm sáng kiến của
nhân dân, Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế.


Với những thắng lợi giành được trong hơn tám thập kỷ chiến đấu và chiến thắng vẻ vang dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập,
tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng
quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ
đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển và vững bước trên con
đường Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhìn lại chặng đường hơn 80 năm xây dựng và phát triển của Đảng và của cách mạng nước ta, chúng
ta tự hào về những thắng lợi vĩ đại mà Đảng ta, dân tộc ta đã giành được trong sự nghiệp đấu tranh
giành độc lập dân tộc cũng như trong dựng xây đất nước. Chúng ta tự hào về Đảng Cộng sản Việt
Nam quang vinh, một đảng luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, trung thành với giai cấp
và lợi ích dân tộc, vững vàng trước mọi thách thức, sáng suốt trong vai trò lãnh đạo của mình. Càng
tự hào về truyền thống vẻ vang của Đảng, chúng ta càng phải quyết tâm làm theo lời căn dặn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Một là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là: Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất,
nòng cốt là liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Ba là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và hệ thống chính trị,
xây dựng Nhà nước cách mạng thật sự của dân, do dân, vì dân.
Bốn là: Nêu cao chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại.
Năm là: Chú trọng xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Câu 3: Phân tích những truyền thống vẻ vang của ĐCSVN
Trước hết phải khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đó là sản phẩm sàng lọc nghiêm
khắc của lịch sử đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam dưới ánh sáng của thời đại mới;
Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin; Phong trào công nhân và Phong trào yêu nước ở
nước ta trong những năm 20 của thế kỷ XX. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết
Mác-Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến và có truyền thống
yêu nước từ ngàn năm.
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã thật sự là đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân
và của cả dân tộc Việt Nam. Sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập chứng tỏ giai cấp vô
sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng cộng sản Việt Nam không những
là đội tiên phong lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn là đại biểu chân chính cho lợi ích
của toàn thể dân tộc Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ mang bản chất giai cấp công nhân
mà còn là lực lượng dẫn dắt phong trào dân tộc chân chính, một Đảng cách mạng vì nước vì dân.
Chặng đường vẻ vang hơn bảy thập kỷ qua của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân ta đã đạt được những
thành tựu kỳ diệu. Tuy nhiên, Đảng cũng còn có những yếu kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm
của mình nhưng đã đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời. Đảng đã công khai tự phê
bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng
vẫn được nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính
duy nhất của cả dân tộc. Ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản không lực lượng nào có thể lãnh đạo cách
mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng tôi luyện và trưởng thành và đã xây

dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Trong những truyền
thống đó nổi bật nhất là 6 truyền thống cơ bản sau:
Thứ nhất là; Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.
Hai là; Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo.


Ba là; Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Bốn là; Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, phải gắn bó mật thiết với nhân dân.
Năm là; Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
Sáu là; Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế…
Để thấy rõ những điểm nổi bật của sáu truyền thống trên ta thấy rằng: Từ khi ra đời đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, thắng lợi mà nhân dân, dân tộc ta đánh đổi
bằng cả xương máu của các lớp thế hệ con Lạc cháu Hồng.
Đó là thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam
dân chủ Cộng hoà. Đây là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15
năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào cách mạng 1930 – 1931. Đặc biệt là phong trào Xô viết
Nghệ Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945. Như
ba cuộc tổng diễn tập, với khí thế cách mạng vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với
một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa
Cách mạng tháng Tám thành công trọn vẹn, đã xoá bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến ở nước ta,
mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc,
đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thực hiện
thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đó là thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi còn chiến tranh
và trong những năm đầu sau khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi khảo nghiệm sáng kiến

của nhân dân, Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.

Câu 4: Phân tích và nêu rõ bối cảnh quốc tế của sự quá độ lên CNXH ở nước ta
Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm 1954 ở miền bắc và từ năm
1975 trên phạm vi cả nước, sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn thành thắng
lợi, đất nước đã hòan thành thắng lợi, đất nước đã hòa bình thống nhất quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia xây dựng chủ
nghĩa xã hội, dù điểm xuất phát ở trình độ phát triển cao hay thấp.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử. Bởi vì:
Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách quan của lịch
sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh tế- xã hội: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế- xã hội là quá trình lịch sử tự
nhiên và hình thái kinh tế- xã hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tế- xã hội trước nó. Sự biến
đổi của các hình thái kinh tế- xã hội nói trên đều tuân theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp
với
tính
chất

trình
độ
phát
triển
của
lực
lượng
sản
xuất.
Cho dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm nhiều ưu thế về vốn, khoa học, công nghệ và thị trường,
đang cố gắng điều chỉnh trong chừng mực nhất định quan hệ sản xuất để thích nghi với tình hình

mới, nhưng không vượt ra khỏi những mâu thuẫn vốn có của nó, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất
xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này không những không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu
sắc. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xã hội hóa lao động làm cho các tiền đề vật
chất, kinh tế, xã hội ngày càng chín muồi cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của xã hội
mới - chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Theo quy luật tiến
hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp với xu thế của thời đại,
mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam: cách mạng dân tộc, dân chủ gắn liền với
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước hết là giải phóng dân tộc, giành
độc lập, tự do, dân chủ... đồng thời nó là tiền đề để “ làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng,
làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no, và sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, cuộc cách mạng xã


hội chủ nghĩa là sự tiếp tục hợp lôgíc cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách mạng dân tộc,
dân chủ được thực hiện triệt để.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với mọi quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội,
nhưng nó lại có đặc điểm riêng đối với mỗi quốc gia ; do điều kiện xuất phát riêng của mỗi quốc gia
quy định. Trước đây, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ với “đặc điểm lớn nhất là từ một
nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa”. Khi cả nước thống nhất cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội, đặc điểm trên vẫn còn tồn tại.
Phân tích rõ hơn thực trạng kinh tế, chính trị của đất nước, trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “nước ta quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất
rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực
dân phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội và nền
độc lập của nhân dân ta”.
Như vậy, đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất của thời kỳ quá độ ở nước ta là bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Nhưng, thế nào là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa? Gỉai quyết vấn đề này có ý nghĩa

lớn cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Sẽ là sai lầm và phải trả giá nếu quan niệm “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” theo kiểu phủ định
sạch trơn, đem đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, bỏ qua cả những cái “không thể bỏ
qua” như đã từng xảy ra ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Vì vậy, báo cáo chính trị tại Đại hội
Đảng IX Đảng cộng sản Việt Nam đã nói rõ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị
trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công
nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là phát triển theo con đường “rút ngắn” quá trình lên
chủ nghĩa xã hội. Nhưng “rút ngắn” không phải là đốt cháy giai đoạn, duy ý chí, coi thường quy luật,
như muốn xóa bỏ nhanh sở hữu tư nhân và các thành phần kinh tế “phi chủ nghĩa xã hội” hoặc coi
nhẹ sản xuất hàng hóa,... Trái lại, phải tôn trọng quy luật khách quan và biết vận dụng sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để tìm ra con đường, hình thúc,
bước đi thích hợp. Phát triển theo con đường “rút ngắn” là phải biết kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được ở chủ nghĩa tư bản không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả về quan hệ sản xuất,
cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, như Lênin đã nói về chủ nghĩa xã hội ở nước Nga với kỹ thuật
hiện đại trong các tơrớt của Mỹ và nghệ thuật quản lý trong ngành đường sắt ở Đức.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội
mà phải qua con đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng loạt các hình thức quá độ. Sự cần thiết
khách quan và vai trò tác dụng của hình thức kinh tế quá độ được Lênin phân tích sâu sắc trong lý
luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thực hiện các hình thức kinh tế quá độ, các khâu trung gian...
vừa có tác dụng phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, vừa cần thiết để chuyển từ các quan hệ
tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nó là hình thúc vận dụng các quy luật kinh tế phù hợp với điều kiện
cụ thể.
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta tạo ra sự biến đổi
về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó khăn, phức tạp, tất yếu “phải trải qua
một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ”.
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường rút ngắn để xây dựng
đất nước văn minh, hiện đại. Nhưng khả năng tiền đề để thực hiện con đường đó như thế nào? Phân

tích tình hình đất nước và thời đại cho thấy mặc dù kinh tế còn lạc hậu, nước ta vẫn có khả năng và
tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Về khả năng khách quan.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão và toàn cầu hoá kinh
tế đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu; nó mở ra khả năng thuận
lợi để khắc phục những hạn chế của nước kém phát triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng
và kinh nghiệm quản lí yếu kém ..., nhờ đó ta có thể thực hiện “ con đường rút ngắn”.
Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách quan của loài người. Đi trong
dòng chảy đó của lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ nhận được sự đồng tình, ủng hộ ngày càng mạnh


mẽ của loài người, của các quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến bộ
của mình.
Về những tiền đề chủ quan
Nước ta có nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần cù và thông minh, trong đó
đội ngũ làm khoa học, công nghệ, công nhân lành nghề có hàng chục ngàn người ... là tiền đề rất
quan trọng để tiếp thu, sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Nước ta
có nguồn tài nguyên đa dạng, vị trí địa lí thuận lợi và những cơ sở vật chất - kĩ thuật đã được xây
dựng là những yếu tố hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế. Những tiền đề vật chất trên tạo điều
kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, tiếp
thu
kinh
nghiệm
quản

tiên
tiến
của
các
nước

phát
triển.
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội không những phù hợp với quy luật phát triển lịch sử mà còn phù hợp với
nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam đã chiến đấu, hi sinh không chỉ vì độc lập dân
tộc mà còn vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những
yêu cầu ấy chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được. Quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng
vật chất để vượt qua khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng giàu tinh
thần cách mạng và sáng tạo, có đường lối đúng đắn và gắn bó với nhân dân, có Nhà nước xã hội Chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng được củng cố vững mạnh và khối đại đoàn kết toàn dân, đó
là những nhân tố chủ quan vô cùng quan trọng bảo đảm thắng lợi côngcuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kì qúa độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam :
Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kì cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện xã
hội cũ thành xã hội mới. Về kinh tế, những nhiệm vụ cơ bản là :
a- Phát triển lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung
tâm của cả thời kì quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội:
Cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội theo V.I.Lênin, là nền sản xuất đại cơ khí ở trình độ
hiện đại được áp dụng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, kể cả trong nông nghiệp.
Ngày nay, cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội phải thể hiện được những thành tựu tiên tiến
nhất của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Chỉ khi lực
lượng sản xuất phát triển đến trình độ cao mới tạo ra được năng suất lao động cao trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, nhờ đó những mục tiêu và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mới được thực hiện
ngày càng tốt hơn trên thực tế.
Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, khi đất nước ta chưa có tiền đề về
cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra; do đó phát triển lực lượng
sản xuất nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng trở thành nhiệm vụ trung tâm của suốt
thời kì quá độ. Nó có tính chất quyết định đối với thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác của phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phát triển nguồn lực con người - lực lượng sản xuất cơ bản của

đất nước, yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế, tạo đội ngũ lao động có khả năng sáng tạo, tiếp thu,
sử dụng, quản lí có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại. Vì vậy, phải phát huy nguồn
lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là “ quốc sách hàng
đầu” trong chiến lược phát triển đất nước.
b- Xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới theo đinh hướng xã hội chủ nghiã:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một chế độ xã hội mới có nền kinh tế phát triển dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Chế độ công hữu tư
liệu sản xuất chủ yếu là đặc trưng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghiã; nó là sản phẩm của nền
kinh tế phát triển với trình độ xã hội hoá cao, các lực lượng sản xuất hiện đại, nó sẽ chiếm ưu thế
tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Vì vậy, không thể nôn nóng, vội vàng,
duy ý chí trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Nó chỉ được hình thành trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao.
Như vậy, xây dựng quan hệ sản xuất mới định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải đảm bảo
các yêu cầu sau đây :


Một là, quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát triển lực lượng
sản xuất, “ bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo
nên những lực lượng sản xuất mới”.
Hai là, quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lí và phân
phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản xuất mới phải được xây dựng một cách đồng bộ cả ba mặt đó.
Ba là, tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là ở hiệu quả của nó: thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân
dân, thực hiện công bằng xã hội.
Trong thời kì quá độ ở nước ta, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, hình thành nhiều
thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Do
đó, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời phải tôn trọng và sử dụng lâu
dài và hợp lí cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
c- Mở rộng và nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế ;

Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu đối với các quốc gia.
Nền kinh tế nước ta không thể khép kín mà phải tích cực mở rộng và ngày càng nâng cao hiệu quả
của quan hệ kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hoá kinh tế và cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tạo ra những thách thức và
nguy cơ cần phải đề phòng, khắc phục; mặt khác, tạo ra cho nước ta những cơ hội, thuận lợi cho quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo con đường “ rút ngắn”. Đó là thu hút các nguồn
vốn từ bên ngoài, nhập được các loại công nghệ hiện đại và những kinh nghiệm quản lí tiên tiến ...
nhờ đó, khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, thu hẹp
khoảng cách lạc hậu so với các nước khác. Đó là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế quốc tế, phải nâng cao sức cạnh tranh quốc
tế, khai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu, đa dạng hoá quan hệ kinh tế với
các tổ chức và các quốc gia trong khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, phải xử lí đúng mối quan hệ giữa
mở rộng kinh tế quốc tế với độc lập tự chủ, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc với kế thừa, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại ..

Câu 5: Phân tích những đặc trưng cơ bản của mô hình CNXH mà nhân dân ta
xây dựng?
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của
Đảng, mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng đã được phác họa với sáu đặc trưng.
Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng đã bổ sung, phát triển, làm cho mô hình chủ nghĩa xã hội
Việt Nam toàn diện hơn, gồm tám đặc trưng. Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển 2011)
Đảng ta tiếp tục xác định tám đặc trưng trên cơ sở kết hợp, bổ sung, phát triển những đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội trong hai Văn kiện nêu trên.
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo Cương
lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi mới
nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó là thành quả của sự kết
hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù,” cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình: chủ
nghĩa xã hội Việt Nam .

Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng đã thể hiện tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội Việt Nam.
- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh .
Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được biểu hiện cụ thể
thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Marx-Lenin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận
dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước
mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời
hạnh phúc…
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc hiện thực
hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Tư tưởng
xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với dân tộc


Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh thật sự. Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành được
độc lập và thống nhất Tổ quốc.
- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt
chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của chủ nghĩa
Marx-Lenin sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền
thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong nhận thức
của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với việc bảo đảm tất
cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân là chủ thể của mọi quyền lực).
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa
là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và
từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực

thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp…”.
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta
đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn vốn có của
chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất
với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở
nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.
Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ nghĩa xã hội
mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công hữu. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần
kinh tế.
- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái quát,
nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc
lập, tự do, tự cường dân tộc...).
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những
giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người
Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những
giá trị tiên tiến với những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân
dân ta đang xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng
của phát triển.
- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển

toàn diện.
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể hiện trong
đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn được thể hiện qua
đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội
đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con
người toàn diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con
người xã hội chủ nghĩa. Để có con người xã hội chủ nghĩa phải xác định và hiện thực hóa hệ giá trị
phản ánh nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây
dựng.


Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã xác định hệ giá trị phản
ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con người Việt Nam hiện nay là: có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong
đặc trưng này là quan điểm nhân văn, vì con người, chăm lo xây dựng con người, phát triển toàn diện
con người (đức, trí, thể, mỹ) của Đảng và Nhà nước ta.
- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và
giúp nhau cùng phát triển.
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân
tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam.
Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong giải quyết các quan hệ dân
tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận
trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.
- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân
dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân
dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu
sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân…
- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối ngoại, chính sách đối ngoại của
Đảng và Nhà nước ta.
Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và nhân dân các
nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế…Đảng
và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ
chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế.
Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn đàn quốc tế và
khu vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang
xây dựng, thể hiện trong đặc trưng về quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa được nêu trên vừa thể hiện tính toàn diện và sự
thống nhất của các đặc trưng đó trong một chỉnh thể, phản ánh được bản chất của chủ nghĩa xã hội
mà chúng ta đang xây dựng. Những đặc trưng ấy trả lời câu hỏi xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
là gì? Tính phổ biến và tính đặc thù của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thể hiện như thế nào?
Có thể nói, tính toàn diện và tính thống nhất của các đặc trưng thể hiện ở chỗ các đặc trưng này
phản ánh toàn diện các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quan hệ đối ngoại, và sự thống
nhất biện chứng giữa kinh tế và chính trị, kinh tế, chính trị và xã hội, đối nội và đối ngoại.
Còn về bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam là gì? Chúng ta có thể tìm thấy trong các
đặc trưng về chế độ chính trị và nhà nước.
Trước hết phải kể đến bản chất của chế độ chính trị mà cốt lõi của chế độ chính trị là Nhà nước.
Ở nước ta, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là cộng

hoà xã hội chủ nghĩa) ra đời xác lập địa vị mới của nhân dân, từ nô lệ làm thuê thành người làm chủ;
đồng thời xác lập địa vị mới của Đảng ta, Đảng cầm quyền. Vì thế, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là bộ
phận nòng cốt của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta khẳng định vai trò của Đảng Cộng sản cầm quyền. Với
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo là điều kiện tiên quyết để nhân
dân làm chủ, nhà nước đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng Cộng sản


lãnh đạo, Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý, nhân dân làm chủ thể hiện bản chất chính trị của xã hội
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.
Hai là, bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế là chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu.
Trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) đã kế thừa đặc trưng thứ hai của Cương
lĩnh 1991 "Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu". Chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu thể hiện bản chất của
chế độ kinh tế xã hội của xã hội xã hội chủ nghĩa. Vì chỉ có chế độ công hữu tư liệu sản xuất với lực
lượng kinh tế thuộc về xã hội, về nhân dân mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa là người đại diện mới thực
hiện được các mục tiêu chính trị, xã hội, văn hoá ngày càng sâu rộng của chủ nghĩa xã hội. Nó khác
bản chất nền kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa với mục đích là lợi
nhuận tối đa và phương thức là bóc lột giá trị thặng dư đối với giai cấp công nhân, cạnh tranh khốc
liệt kiểu cá lớn nuốt cá bé, kể cả gây các cuộc chiến tranh xâm lược, chạy đua vũ trang vô cùng tốn
kém.
Cũng cần nói thêm rằng: 1- Khi nói, chúng ta không được chủ quan duy ý chí mà phải tuân
theo quy luật khách quan "quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất"
không có nghĩa là quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tự phát hình thành và phát triển cùng với sự phát
triển của lực lượng sản xuất kể cả khi giai cấp công nhân có chính quyền. Cần khắc phục khuynh
hướng sùng bái tính tự phát trên vấn đề này. 2- Quan hệ sản xuất mới ra đời như những "mầm non"
còn rất yếu lại đặt trong điều kiện chủ nghĩa tư bản vẫn còn sức mạnh trên nhiều lĩnh vực kinh tế,
quân sự, kinh nghiệm quản lý thì chúng ta không thể đòi hỏi có đầy đủ hoàn toàn tính ưu việt của
quan hệ sản xuất mới. Đặc biệt khi mà chủ nghĩa xã hội chưa thoát khỏi thời kỳ thoái trào, các thế lực

thù địch ra sức tiến công vào chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn
hoá... Trong đó, kinh tế là một đối tượng mà các thế lực thù địch tiến công nhằm xoá bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước với kinh tế, xoá bỏ chế độ công hữu tư liệu sản xuất
chủ yếu của chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Bản chất, mục tiêu xã hội của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện trong Dự thảo Cương lĩnh
là đặc trưng phản ánh bản chất xã hội của chủ nghĩa xã hội đồng thời thể hiện mục tiêu mà chủ nghĩa
xã hội Việt Nam từng bước hướng tới và đạt chín muồi khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Như Dự thảo Cương lĩnh ghi: "Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây
dựng xong về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng
phồn vinh. Từ nay đến khoảng giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây
dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa thể hiện tính toàn diện, tính thống nhất trong
chỉnh thể, phản ánh bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa được coi như mô hình tổng thể về chủ nghĩa
xã hội mà chúng ta định hướng xây dựng. Tuy vậy, với những đặc trưng hay cách sắp xếp thứ tự các
đặc trưng như thế nào cho thật khoa học, phù hợp thực tiễn vẫn cần được thảo luận bổ sung. Thí dụ:
1- Đặc trưng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh có cần bổ sung thêm mục tiêu nào
không?; 2- Cách sắp xếp theo trình tự đặc trưng thể hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh đến đặc trưng chính trị: nhân dân làm chủ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân... do Đảng lãnh đạo theo trình tự nào cho hợp lôgích hơn; 3- Vẫn những nội dung trên nhưng để sáu hay để tám đặc trưng, cách nào chặt chẽ hơn.
Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển 2011) đang được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đóng góp ý kiến xây dựng, chắc chắn Đảng
ta sẽ thu được nhiều ý kiến đóng góp có giá trị bổ sung phát triển, hoàn thiện. Và khi Đại hội XI của
Đảng thông qua, Cương lĩnh đó trở thành ngọn cờ chiến đấu, đoàn kết toàn Đảng, toàn dân tiến lên
xây dựng nước Việt Nam XHCN ngày càng vững mạnh, phồn vinh.

Câu 6: Phân tích những phương hướng cơ bản đi lên CNXH và những mqh cần
nắm vững, xử lí tốt để đạt được mục tiêu đặt ra
1. Phương hướng:
Việc xác định đúng đắn, chính xác con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một

trong những vấn đề rất hệ trọng của Đảng và nhân dân ta.


Trên cơ sở vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, từ thực tiễn thành công và thất bại của
chủ nghĩa xã hội trên thế giới và nhất là từ thực tiễn những năm đầu tiến hành đổi mới, tiếp thu chọn
lọc tinh hoa nhân loại, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Cương lĩnh đã
tổng kết hơn 60 năm quá trình cách mạng Việt Nam, rút ra 5 bài học lớn, phân tích bối cảnh quốc tế
trong nước; phác hoạ ra mô hình xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, đồng thời đã phác hoạ ra
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Qua tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh năm 1991, Đại hội XI đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Sau đây gọi
tắt là Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011).
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Để thực hiện các mục tiêu trên (mục tiêu
tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta và mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI) toàn Đảng, toàn
dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và
trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản
sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri thức,
bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Cương lĩnh năm 1991 xác định: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá theo hướng hiện
đại. Còn Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh năm 1991 đã
xác định mô hình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã
chuyển từ “phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”, sang “phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội XI khẳng định: “Phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội”.

Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Trong bảy phương hướng cơ bản của Cương lĩnh năm 1991 chưa đề cập đến xây dựng con
người. Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về nhân tố
con người; phát triển con người giữ vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Đảng ta cũng nhận thức rõ hơn về thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, khẳng định: Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả
nước, ở từng lĩnh vực, ở từng địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và từng chính sách phát triển.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Về phương hướng trên, ở Cương lĩnh năm 1991 không xác định thành một phương hướng cơ
bản riêng. Việc bổ sung, phát triển phương hướng “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” là đúng
với thực trạng hội nhập của nước ta hiện nay và là phương hướng cơ bản, lâu dài trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường
và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế
độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước; khẳng định đại đoàn kết toàn dân
tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc;
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại
đoàn kết.
Bảy là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
Cương lĩnh năm 1991 mới xác định xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được



Đảng ta sử dụng tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII. Các đại hội VIII, IX và X
đều nhấn mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì
vậy, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” là một trong tám phương hướng cơ bản là đúng
đắn, phù hợp cả về lý luận và thực tiễn.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh.
Cương lĩnh năm 1991 xác định “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”. Đại hội X đã viết gọn lại là “xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh”.
Khái quát lại, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ hơn con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những bổ sung, phát triển này đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng
đắn, chính xác.
2. Các mối quan hệ: (xem giáo trình tr.61)

Câu 7: Trình bày định hướng về hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của đảng
1. Hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị chúng ta nói ở đây, được sử dụng thay cách trình bày trước là hệ thống
chuyên chính vô sản. Về bản chất, không có gì khác biệt, cùng mục đích Đảng lãnh đạo để nhân dân
làm chủ, nhưng cách hiểu được đổi mới, mở rộng. Hệ thống chính trị đó bao gồm: Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Trong hệ thống chính trị này, vai trò của Đảng và sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Là
nhân tố hợp thành hệ thống chính trị, nhưng hệ thống chính trị là sản phẩm, một trong những thành
quả to lớn nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hệ thống chính trị Việt Nam hình thành từ khi có Đảng
Suốt mấy nghìn năm trước đây, những trí tuệ ưu tú nhất của loài người đều cố gắng tìm kiếm
con đường để các dân tộc được sống trong hòa bình, hữu nghị, thoát khỏi cảnh thống khổ lầm than,
mâu thuẫn, chống đối lẫn nhau. Nhưng hầu như tất cả không tìm thấy hướng đi đúng và lực lượng
thật sự để thực hiện ước mơ của mình. Chỉ đến thế kỷ XIX, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản
khoa học mới là người mở đầu một con đường thật sự giải phóng những người lao động khỏi bất

công, ngang trái. Bằng việc đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử và phát hiện ra quy luật giá trị thặng
dư, C.Mác đã tìm được lực lượng và vũ khí để giải phóng người lao động, và cũng từ đó, chủ nghĩa
cộng sản mới trở thành một trong những khoa học giải phóng loài người. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đi
từ giải phóng các tầng lớp lao động mà thấy sự cần thiết phải giải phóng dân tộc, bởi vì các ông quan
niệm “xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này áp bức dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi
mà sự đối kháng giữa giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa, thì đồng thời quan hệ thù địch
giữa các dân tộc cũng mất theo”(1). Chính vì thế, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và
Ph.Ăng-ghen viết: “Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự mình xây
dựng thành giai cấp dân tộc”.
Vận dụng và phát triển lý luận của C.Mác về giải phóng giai cấp vô sản vào nước Nga, trong
thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lê-nin thấy rõ hơn mối quan hệ giữa
giai cấp và dân tộc, giữa cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản và cuộc đấu tranh giải phóng các
dân tộc bị áp bức. V.I.Lê-nin đề ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại!”. Và, với cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, mở đầu cho việc thủ tiêu chế độ người bóc lột
người, thủ tiêu nạn áp bức dân tộc, và bằng chính sách dân tộc đúng đắn, V.I.Lê-nin đã đưa nước Nga
từ “nhà tù đối với các dân tộc” thành “Tổ quốc của nhiều dân tộc”.
Ở Việt Nam, từ thiên tài trí tuệ của mình, vượt lên những tầm nhìn hạn chế của các nhà yêu
nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tìm thấy ở học
thuyết này con đường cứu dân, cứu nước. Bác khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân
loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái,
đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh
phúc”(2). Người nói: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản
đưa tôi tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế III. Từng bước một trong cuộc đấu tranh, vừa làm công tác
thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Chính lòng yêu nước
thiết tha và thương dân sâu sắc, muốn giải phóng dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ


nghĩa cộng sản, đem khát vọng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa cộng sản. Từ nhận thức tầm
quan trọng của lý luận cách mạng, tìm được con đường cứu dân, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh

bắt tay xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng các tổ chức cách mạng. Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên, Công hội Đỏ, các tổ chức đảng lần lượt ra đời. Đến ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt
Nam chính thức được thành lập. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chấm dứt thời kỳ bế tắc, khủng
hoảng về đường lối cứu nước hơn hai phần ba thế kỷ, kể từ khi nước ta bị đế quốc Pháp xâm lược.
Đảng ta ra đời là sản phẩm của sự kết hợp phong trào yêu nước, phong trào công nhân với chủ nghĩa
Mác – Lê-nin, là bước nhảy vọt của phong trào yêu nước, đồng thời cũng là thắng lợi đầu tiên của
chủ nghĩa Mác – Lê-nin ở một nước nông nghiệp sản xuất nhỏ, chưa qua giai đoạn phát triển của chủ
nghĩa tư bản. Đảng ra đời, đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong phong trào cách mạng và đời
sống chính trị của nhân dân ta. Giai cấp công nhân Việt Nam từ đó thông qua đảng tiên phong của
mình, đứng ra gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội
khỏi mọi áp bức, bất công. Dưới ngọn cờ của Đảng, dân tộc Việt Nam vốn giàu lòng yêu nước, chí tự
cường và bấy lâu khao khát độc lập, tự do đã gặp tư tưởng cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác- Lênin, một trong những trí tuệ cao nhất của loài người. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ
vắn tắt của Đảng do Bác Hồ khởi thảo chỉ ra đường lối, nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng, cách thức tổ
chức lực lượng cách mạng ở Việt Nam. Với đường lối, chủ trương, chính sách của các văn kiện ấy,
Đảng ta đã thổi bùng ngọn lửa của phong trào cách mạng Việt Nam. Trải qua 15 năm đấu tranh đầy
máu lửa, đầy hy sinh, những người cộng sản Việt Nam, những người yêu nước tự nguyện đi dưới
ngọn cờ của Đảng, chứ không phải ai hết, là người trực tiếp đương đầu với lưỡi lê, máy chém, nhà tù
của đế quốc, mà thể hiện lòng trung thành, xả thân cho sự nghiệp của toàn dân tộc. Bằng sự lãnh đạo
của Đảng, bằng sự tập hợp lực lượng của các tổ chức quần chúng, cách mạng nước ta đã trải qua ba
cao trào: Cao trào Xô-viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), cao trào Dân chủ (1936-1939), cao trào cứu nước
(1939-1945). Ngày 19-8-1945, cả dân tộc ta đã vùng dậy giành chính quyền trong Cách mạng Tháng
Tám. Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, xóa bỏ chính quyền
nhà nước của thực dân và phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ
nguyên mới trong lịch sử của nước ta. Nhà nước Việt Nam là nhà nước độc lập, dân chủ thật sự của
dân, do dân, vì dân. Chính vì vậy, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thành công rực rỡ của cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc vô cùng anh dũng suốt gần một trăm năm của nhân dân ta. Đó là thắng
lợi của đường lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn do Đảng ta vạch ra và lãnh đạo nhân dân cả
nước ta thực hiện.
Nếu không có hai cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân ta đã
bắt tay vào xây dựng đất nước phồn vinh từ sau ngày 2-9-1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa. Nhưng, các thế lực đế quốc không từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta. Chấp nhận cuộc đụng
đầu lịch sử với hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, nhân dân ta, cả dân tộc ta đã phải trải qua 30 năm chiến
tranh ròng rã, chịu đựng những hy sinh mất mát vô cùng to lớn, mới bảo vệ được nền độc lập dân tộc,
bảo vệ chế độ mới và sự thống nhất đất nước để đưa cả nước thống nhất đi lên con đường xã hội chủ
nghĩa, con đường đem đến hạnh phúc, ấm no cho toàn dân tộc. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đổi mới toàn diện đất nước, do Đảng ta lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử.
Nhìn lại những bước đường phấn đấu đầy gian khổ hy sinh đã qua và những thắng lợi, thành tựu
vẻ vang đã giành được của toàn dân ta, chúng ta có thể tự hào về vai trò lịch sử của Đảng ta, người
lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sức mạnh vô địch của Đảng chính là ở
chỗ Đảng ta tuyệt đối trung thành với lợi ích tối cao của nhân dân, đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa
Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy được sức mạnh lòng yêu nước của toàn dân tộc.
2. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị:
Trước đây, trong cuốn Sự khốn cùng của triết học, C.Mác đã từng đặt câu hỏi: “Phải chăng như
vậy có nghĩa là, sau khi xã hội cũ sụp đổ sẽ có một sự thống trị giai cấp mới, biểu hiện tập trung ở
một chính quyền mới?”. Và chính C.Mác đã giải thích: “Không phải. Điều kiện giải phóng của giai
cấp lao động, đó là xóa bỏ mọi giai cấp”. Mục đích của những người cộng sản, của Đảng Cộng sản
giành chính quyền không phải giành quyền thống trị cho riêng mình. Những lời vu khống, áp đặt của
một số người cho rằng Đảng Cộng sản “độc tôn”, “độc quyền” là hoàn toàn không đúng. Mục đích
cách mạng của Đảng Cộng sản, của những người cộng sản giành chính quyền là để giải phóng toàn
xã hội, là để đưa người lao động, đưa nhân dân lên địa vị làm chủ. Khi giành được chính quyền, xây
dựng nhà nước kiểu mới, nhân dân muốn làm chủ phải có sự lãnh đạo của Đảng, được thực hiện chủ


yếu bằng nhà nước, bằng các tổ chức quần chúng, thông qua đại diện của mình và trực tiếp của chính
mình. Để xây dựng và bảo vệ cuộc sống mới của mình, nhân dân cần có một hệ thống chính trị vững
mạnh. Đó không phải là đảng trị, đảng đứng trên dân tộc. Đảng lãnh đạo để dân làm chủ là mục đích
tối cao, mục đích cuối cùng của Đảng. Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác.
Để thực hiện mục đích ấy, khi chưa có chính quyền, Đảng lãnh đạo thành lập các tổ chức quần chúng,
tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng mặt trận đại đoàn kết toàn dân tộc để giành chính quyền. Khi

có chính quyền, trở thành đảng cầm quyền, cùng với các tổ chức quần chúng, Đảng sử dụng chính
quyền chăm lo cho lợi ích cho nhân dân, cho lợi ích toàn xã hội.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm
2001 ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu
trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa
Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Điều 4 này trong Hiến pháp, hiện nay đang là mục tiêu chống phá, muốn triệt tiêu của một số
người không thiện chí, thậm chí có những mưu đồ. Tại sao họ tự cho mình là trí tuệ mà không thừa
nhận một thực tế đã được chứng minh? Đây không phải là một sự đòi hỏi hay áp đặt của Đảng, mà
chính là sự thừa nhận của đại đa số nhân dân Việt Nam.
Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội IX của Đảng được mở rộng hơn về khái
niệm, chính xác hơn. Đảng không chỉ là “đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam”, mà hơn
thế nữa, Đảng “đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”. Đó
không phải là ý muốn chủ quan của một ai, càng không phải là sự áp đặt, mà là thực tiễn chứng minh,
nhân dân thừa nhận. Bởi vì Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, luôn luôn trung
thành với mục tiêu lý tưởng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trung thành với lợi ích của
giai cấp và dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho mọi hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của
nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra
đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Chánh cương vắn tắt, Cương
lĩnh năm 1930 và Cương lĩnh năm 1991 của Đảng đã soi sáng cho quá trình cách mạng Việt Nam và
bước đường tiến lên của dân tộc ta.
Thực tiễn gần 80 năm qua, bằng cả hệ thống chính trị, Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta không quản
hy sinh, không nề gian khổ, trải qua biết bao gian nan thử thách đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác, viết tiếp những trang sử vàng chói lọi của dân tộc. Trong mỗi thời kỳ cách
mạng, nhất là trước các bước ngoặt lịch sử, Đảng ta luôn luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng,
trung thành và sáng tạo, nêu cao tính độc lập tự chủ, trước hết ở việc xác định và tổ chức thực hiện
Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn và có hiệu quả.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng

Sự nghiệp lãnh đạo của Đảng suốt gần 80 năm, đặc biệt từ khi Đảng cầm quyền và gần đây qua
hơn hai mươi năm đổi mới toàn diện đất nước, mở rộng giao lưu, hội nhập, đã tạo ra sự đổi thay cực
kỳ to lớn trong đời sống chính trị của dân tộc Việt Nam:
Cách mạng Tháng Tám đưa nhân dân ta từ thân phận người mất nước, sống lầm than trong đêm
dài nô lệ thành người làm chủ sáng tạo ra những trang sử mới; đưa dân tộc ta vào kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của các cuộc chiến tranh cách mạng suốt 30 năm đã chấm dứt ách thống trị của chủ
nghĩa đế quốc hơn một thế kỷ trên đất nước ta, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất
nước, đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của 10 năm sau chiến tranh, trong thế bị bao vây cấm vận, thù trong giặc ngoài, nhân
dân ta đã giữ vững được độc lập, xây dựng được những cơ sở ban đầu của chủ nghĩa xã hội ở cả
nước.
Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 20 năm qua, tạo thế và lực mới cho đất nước ta
chủ động và tích cực đi vào xu thế chung giao lưu, hội nhập quốc tế.
Những đổi thay, những chiến công và những kỳ tích đó khẳng định vị thế của Đảng ta trong
lòng dân tộc. Thành tựu của cách mạng Việt Nam không chỉ thể hiện vai trò lãnh đạo, vai trò cầm
quyền của Đảng mà còn khẳng định sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước ta. Lịch sử
cách mạng Việt Nam gần 80 năm qua khẳng định không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị. Không có hệ thống chính trị nào mà không có sự lãnh đạo, không có một chính đảng,


một lực lượng chính trị chi phối. Hiện nay, trên thế giới có hơn ba mươi đảng duy nhất cầm quyền,
chi phối, dẫn dắt hệ thống chính trị của từng nước.
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” năm 1991 ghi rõ:
“Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng
và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Thực
chất của công cuộc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nước ta hiện nay là nhằm xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là
động lực của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh. Hệ thống chính trị của nước ta vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo,

Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đảng lãnh đạo để nhân dân làm chủ. Nhân dân làm chủ chủ
yếu bằng Nhà nước và thông qua các tổ chức chính trị-xã hội, vừa làm chủ qua đại diện, vừa làm chủ
trực tiếp. Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, có chức năng thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng và
quản lý đất nước. Bằng công tác quản lý và điều hành xã hội thông qua Hiến pháp, pháp luật, các chủ
trương, chính sách, Nhà nước thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, Đảng vừa là bộ phận
của hệ thống chính trị, vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp,
pháp luật. Mặt trận Tổ quốc, có vai trò đặc biệt trong cách mạng dân tộc dân chủ, khi Đảng chưa
giành được chính quyền, càng giữ vai trò quan trọng khi Đảng cầm quyền. Đó là liên minh chính trị
của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và các tầng lớp xã hội, các dân tộc,
các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; hoạt động theo phương thức hiệp thương
dân chủ; có vai trò quan trọng trong việc thực hiện giám sát, phản biện xã hội, góp phần xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong cách mạng XHCN, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng
trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; động viên toàn dân tộc
thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng cơ chế vận hành của Nhà
nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả các quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Nhà nước phải tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, của
các cơ quan tư pháp, đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp, tăng cường hiệu lực và hiệu
quả các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân
dân và ủy ban nhân dân các cấp.
Để phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, vấn đề có tính chất quyết định là phải tiếp tục
thực hiện đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng ta thật sự
trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với
nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ đảng viên đủ phẩm chất và năng lực.
Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân

ta.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, vấn đề cấp bách hiện nay là phải
nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng; kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức
cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng; tăng cường quan hệ gắn bó giữa Đảng và nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát.
Nhằm mục đích nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, vấn đề cực kỳ
quan trọng là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân.
Để giữ vững vai trò cầm quyền, trước hết Đảng phải hoạch định được đường lối cách mạng đúng
đắn, bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu
mạnh, nhân dân thật sự được hưởng hạnh phúc, tự do. Đảng phải xây dựng được một Nhà nước pháp
quyền XHCN thật sự của dân, do dân, vì dân. Phải thật sự xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh,
phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để Đảng luôn luôn ngang tầm nhiệm vụ, Đảng sống mãi
trong lòng dân tộc.


Câu 8: Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện ở những điểm chủ yếu nào
trong điều lệ Đảng
- Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định bản chất giai cấp công nhân của mình.
+ Trong "Chương trình tóm tắt" được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng khẳng định:
"Đảng là đội tiên phong lãnh đạo của đội quân vô sản gồm một số lớn giai cấp công nhân và làm cho
họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng".
+ Sách lược vắn tắt viết: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho được
đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo đợc quần chúng".
+ Đại hội X đã thông qua sự diễn đạt về Đảng là: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc".
- Sự diễn đạt như trên thể hiện ở hai nội dung sau:
+ Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam và đồng thời là đội tiền phong của

nhân dân lao động và của cả dân tộc.
+ Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam.
- Xuất phát từ nhận thức khoa học về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
+ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của Chủ Nghĩa xã hội khoa
học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại nhất
của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm giai cấp
công nhân.
+ Khái niệm giai cấp công nhân (theo Nghị quyết Trung ương 6 khoá X).
- Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lợng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm
những ngời lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh
doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
- Là một lực lượng to lớn, quan trọng trong xã hội, chưa định hình rõ nét, còn có sự
biến đổi, phát triển.
+ Thành phần: bao gồm những người lao động chân tay và trí óc.
+ Đặc điểm: làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công
nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
+ Trước hết phải lãnh đạo tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thông qua đội
tiên phong của mình là Đảng Cộng Sản Việt Nam, đấu tranh giành chính quyền, thiết lập nền chuyên
chính dân chủ nhân dân.
+ Trong giai đoạn cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa, giai cấp công nhân từng bước lãnh đạo nhân
dân lao động xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội, không có người bóc lột người, giải phóng
nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.
• Hai nội dung trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện. Thể hiện sự nghiệp
vĩ đại của giai cấp công nhân là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người và
nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
+ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ ý nghĩa, nội
dung căn bản, thể hiện cụ thể của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn mới

là: Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập
dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
- Ở nước ta, giai cấp công nhân tuy số lượng còn ít, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam và
chính Đảng của mình luôn đứng trên lập trường cách mạng, giữ vững bản chất giai cấp, lấy Chủ
nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và Chủ
Nghĩa Xã Hội, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa giai cấp và dân tộc... Thắng lợi của cách mạng Việt
Nam qua các thời kỳ đều bắt nguồn từ việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ mật thiết giữa giai cấp
và dân tộc.
+ Trong điều kiện của nước ta, quyền lợi của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của dân tộc là thống nhất.


+ Sự gắn kết máu thịt giữa Đảng với giai cấp và dân tộc đã được thể hiện ngay từ nguồn gốc
ra đời của Đảng ta. Đảng ra đời không chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân mà còn với phong trào yêu nước.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định rằng: Đảng ta không chỉ là Đảng của giai
cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
- Trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng (tháng 2 - 1951),
Bác chỉ rõ: "Đảng Lao động Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, trung thành của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam... Chính vì Đảng Lao động Việt
Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt
Nam".
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong
lãnh đạo nhân dân. Về vấn đề lợi ích, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài mục đích phục vụ nhân
dân, phục vụ dân tộc. Cụ thể:
+ Trên thực tế, Đảng ta ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không chỉ của giai cấp công
nhân mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc.
+ Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta nêu khẩu hiệu: "Độc lập dân tộc" và "Ngời cày
có ruộng".

+ Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đề ra mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
* Để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong tình hình mới,
nhiệm vụ của mỗi đảng viên của Đảng là:
+ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Xuất phát từ thực tiễn lịch sử của nước ta đề ra đường lối, chủ trương và các chính sách
đúng đắn; đồng thời bằng hành động cách mạng biến đường lối, chủ trương đó thành hiện thực sinh
động trên mọi mặt của đời sống xã hội.
+ Đấu tranh kiên quyết, kịp thời chống lại mọi biểu hiện cơ hội, hữu khuynh, giáo điều, bảo
thủ; phê phán những luận điệu và thủ đoạn của các thế lực thù địch phủ nhận, xuyên tạc Chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Luôn luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá, tri thức
của thời đại để làm giàu kiến thức, giải quyết thành công những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách
mạng nước ta, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của thế giới.
+ Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách. Thờng xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.
+ Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công
nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp công nhân.
+ Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân,
chăm lo đời sống và thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
+ Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai
cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của
cách mạng.

Câu 9: ĐCSVN tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của
nguyên tắc đó được điều lệ Đảng quy định ntn?
Trong tình hình hiện nay, nguyên tắc tập trung dân chủ đang đặt ra một số vấn đề cần nhận thức
đúng bản chất khoa học và cách mạng của mối quan hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ. Làm
thế nào để thực hiện tốt nhất nguyên tắc này trong thực tiễn đổi mới và tiến hành công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước hiện nay?
Những người cơ hội, xét lại đã phản kích quyết liệt nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc tổ
chức cơ bản của Đảng ta. Họ cho rằng căn bệnh độc đoán, gia trưởng, chuyên quyền là bạn đồng
hành gắn liền với nguyên tắc tập trung dân chủ. Một số người lớn tiếng đòi thực hiện đa nguyên
chính trị, mở rộng dân chủ vô giới hạn, hy vọng tạo ra trong Đảng nhiều phe phái đối lập nhằm phá
hoại sự đoàn kết của Đảng. Một số cán bộ ta do không vững vàng về tư tưởng và hạn chế về nhận
thức lý luận, mơ hồ về chính trị cũng dao động, nghi ngờ bản chất khoa học của nguyên tắc tập trung
dân chủ.


Đúng là hiện tượng mất dân chủ đang diễn ra ở một số tổ chức đảng và trong nhiều tổ chức kinh
tế, xã hội, có nơi mất dân chủ nghiêm trọng và kéo dài. Một số người ở cương vị lãnh đạo chủ chốt
có biểu hiện xa dân, quan liêu, độc đoán, gia trưởng, thiếu tôn trọng và phát huy quyền dân chủ của
đảng viên, của nhân dân. Trong quản lý kinh tế, đã có lúc do nhận thức chưa đầy đủ về vấn đề này
nên chúng ta quá nhấn mạnh mặt tập trung, thống nhất mà chưa chú ý đến thực hiện dân chủ, thực
chất là chưa thấy hết mối quan hệ hữu cơ giữa tập trung và dân chủ.
Thực tế đó đã hạn chế sự năng động, sáng tạo của quần chúng ở cơ sở, làm triệt tiêu động lực
phát triển, làm cho kinh tế - xã hội nước ta trì trệ kéo dài. Song, không thể cho rằng những căn bệnh
đó thuộc bản chất, là cái tất yếu nảy sinh từ việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Đó chỉ là kết
quả tất nhiên của việc chưa nhận thức đúng bản chất khoa học và chưa vận dụng sáng tạo lý luận về
nguyên tắc tập trung dân chủ vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Điều lệ Đảng sửa đổi (Điều 9) khoá XI nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên
tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là: Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do
bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là
Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên.
Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp
hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ). Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động
của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt
động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình. Tổ chức đảng và
đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp

trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và
Ban Chấp hành Trung ương. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành
khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên
được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo
cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị
quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu
xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số. Tổ chức đảng
quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.”
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp, sự thống nhất biện chứng của hai mặt tập trung và
dân chủ. Về bản chất khoa học của vấn đề này, không có sự tách rời hay đối lập giữa tập trung và dân
chủ. Dân chủ chỉ đúng nghĩa khi được thực hiện trên cơ sở của tập trung, và tập trung thực sự phải là
tập trung dân chủ. Sự nhầm lẫn và thực hiện không đúng nguyên tắc này đã tạo ra một thứ tập trung
giả hiệu không trên cơ sở dân chủ, cũng giống như cố tình tạo ra một thứ dân chủ hình thức không
dựa trên cơ sở tập trung.
Tuyệt đối hoá mặt tập trung hay dân chủ đều có thể dẫn tới những sai lầm có hại cho sự lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đó còn là cơ sở nảy sinh những “ông quan cách mạng” mà Bác Hồ
đã nhiều lần nhắc nhở, phê phán.
Việc vận dụng nguyên tắc này vào giải quyết mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ trong các
lĩnh vực xã hội là cần thiết. Nguyên tắc tập trung dân chủ chính là điều kiện bảo đảm cho các tổ chức
đảng cũng như các tổ chức xã hội có sự cố kết chặt chẽ, thống nhất về ý chí và hành động, và phát
huy tốt nhất tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức, giữ đúng định hướng
chính trị. Thực tế cho thấy, ở đâu vận dụng đúng nguyên tắc tập trung dân chủ thì ở đó có sự đoàn
kết, thống nhất và khai thác, phát huy được mọi thành viên trong xã hội. Việc thực hiện dân chủ rộng
rãi nhằm phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân trong tập thể và các tổ chức xã
hội; nhưng nếu tuyệt đối hoá mặt dân chủ, thực hiện dân chủ không trên cơ sở tập trung thì sẽ dẫn
đến tự do vô chính phủ, không có chỉ huy, lãnh đạo, các tổ chức chỉ tồn tại trên danh nghĩa không
đúng với ý nghĩa chân chính của nó.
Việc thực hiện tập trung nhằm tạo ra sự thống nhất, đoàn kết, gắn bó giữa các cá nhân, bảo đảm
tính tổ chức chặt chẽ, tính cộng đồng cao, nhưng nếu tuyệt đối hoá tập trung mà không dựa trên cơ sở

dân chủ thì sớm muộn cũng dẫn tới phát sinh nhiều “bệnh”, “tệ” khác như “tập trung quan liêu”, “độc
đoán gia trưởng”. Cả hai trường hợp đó đều trái với bản chất khoa học của nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Trong đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta càng phải thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng kết hợp với mở rộng dân chủ trên mọi phương


diện đời sống xã hội trên cơ sở giữ nghiêm kỷ luật của Đảng, kỷ cương, pháp luật của Nhà nước.
Thực hiện đúng nguyên tắc này là điều kiện quan trọng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
tạo ra thế mới, lực mới trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy, trong quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng hoá các hình thức
sở hữu về tư liệu sản xuất, kinh tế quốc doanh phải vươn lên giữ vai trò chủ đạo chi phối các thành
phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Nếu Nhà nước xã hội chủ nghĩa không quản lý, kiểm
soát được nền kinh tế, và nếu thành phần kinh tế quốc doanh không giữ được vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế thì nhất định sự phát triển ấy sẽ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, sẽ có những biến động
khó lường.
Để giữ vững ổn định chính trị, xã hội nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng, để sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, chúng ta phải tiếp tục phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động, mở rộng dân chủ, đồng thời phải giữ gìn kỷ cương phép nước.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, đồng thời từng bước khắc phục và đi đến loại
trừ bệnh giáo điều, quan liêu, gia trưởng, tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội. Vận dụng tính khoa
học của nguyên tắc tập trung dân chủ còn cho phép cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính một
cách đúng hướng và hiệu quả, đồng thời tiến hành đổi mới đồng bộ trên nhiều mặt.
Trước hết, làm cho mọi cán bộ, đảng viên quán triệt, nhận thức và thực hiện đúng nguyên tắc
tập trung dân chủ, các cán bộ, công chức, viên chức thực sự là những người hết lòng, hết sức phụng
sự nhân dân.
Thứ hai, phát huy dân chủ luôn đi đôi với tăng cường pháp chế xã hội xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân lao động, đồng thời cần gắn liền với nâng cao dân
trí, bảo đảm cho mọi người dân đều có khả năng làm chủ.
Thứ ba, kết hợp chặt chẽ giữa phát huy quyền làm chủ của nhân dân với đổi mới, kiện toàn bộ

máy hành chính nhà nước, làm cho Nhà nước ta thật sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, đội ngũ
cán bộ nhà nước thật sự là những “công bộc của dân”.
Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội,
thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng về củng cố và tăng cường bộ máy nhà nước, đồng thời thực
hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
Thứ năm, đấu tranh chống tệ gia trưởng, quan liêu, tham ô, lãng phí gắn với công tác xây dựng
Đảng và củng cố bộ máy nhà nước, vì không thể có tổ chức đảng vững mạnh mà bộ máy nhà nước và
hệ thống chính trị lại yếu kém. Từ bản chất của Đảng và vai trò là Đảng cầm quyền, trước thực trạng
và yêu cầu phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội hiện nay, phải nhận thức được vấn đề phát
huy dân chủ trong Đảng vừa là mục tiêu, vừa là động lực để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng.
Các tổ chức đảng, cấp ủy các cấp, mọi đảng viên phải tự giác thực hiện và kiên quyết đấu tranh
với các tư tưởng, hành vi sai trái vi phạm dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Chỉ khi thực hiện tốt
nhiệm vụ này mới giữ vững và củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, lãnh đạo toàn dân thực hiện thành
công nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Có như vậy
mới giữ vững bản chất và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch,
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng
là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
hiện nay.

Câu 10: Hệ thống tổ chức Đảng được lập ntn
Câu 11: Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên
ntn
Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân
dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế
độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành
công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.

Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công
bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.


Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại,
nắm vững quy luật khách quan, xu thế của thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh
chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ là nguyên
tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, thương yêu
đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng;
đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị,
đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật.
Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp
công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của
nhân dân thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam dược xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức
chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam là những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, đáp ứng cơ bản yêu cầu, nhiệm vụ của công tác xây dựng
Đảng hiện nay, là cơ sở quan trọng tạo nên sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, giữ
vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam là kết tinh của trí
tuệ Việt Nam, là văn bản quy định nguyên tắc của Đảng do những những đảng viên ưu tú đại diện
cho nhân dân Việt Nam soạn thảo và lấy ý kiến rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân.
Điều 1 Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định về tiêu chuẩn của đảng viên như sau:

1.
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của
Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá
nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và
pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có đạo đức và lối sống
lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết
thống nhất trong Đảng.
2.
Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ của đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở
Đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết
nạp vào Đảng.
Điều 2 Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định về nhiệm vụ của đảng viên như sau:
1.
Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
2.
Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất
chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội,
cục bộ, quan liêu, tham những, lãnh phí và các biện pháp tiêu cực khác. Chấp hành quy định của
Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm.
3.
Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời
sống vật chất tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác
quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4.
Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ

gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng;
làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
Điều 3 Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định về quyền hạn của đảng viên như sau:
1.
Được thông tin và thảo luận vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đương lối, chủ
trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.


2.
Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của Ban Chấp
hành Trung ương.
3.
Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong phạm vi tổ
chức; báo cáo kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời.
4.
Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với
mình.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo của
Đảng.
Như vậy, các Điều 1, Điều 2, Điều 3 trong Chương I Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy
định một cách đầy đủ về tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của đảng viên. Mỗi người khi được đứng
trong hàng ngũ của Đảng đều phải nghiêm túc thực hiện những quy định này về đảng viên để xây
dựng Đảng ta ngày càng trong sạch và vững mạnh như lời của Bác Hồ nhận định khi Đảng ta tròn 30
tuổi:
"Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hoà bình ấm no”.

Câu 12: Vì sao cần học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh trong gia đoạn hiện nay?
Sinh ra và lớn lên tại vùng quê thanh bình và giản dị, tôi được thừa hưởng cuộc sống hòa bình trong
thế kỷ XXI, được chứng kiến sự đổi thay của đất nước, như một bức tranh muôn màu sắc, tôi được
học tập được tu dưỡng, trau dồii kiến thức và được tiếp xúc với nhiều bài học quý báu từ lời dạy của
thầy từ câu nói của cô. Tất cả những bài học ấy luôn đọng trong tâm trí tôi như trang sách luôn sát
cánh bên tôi vậy !
Tôi đặc biệt thích câu nói khi học Lịch sử lớp 12:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng,
thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái,
dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có
súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai
cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về
dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”
Câu nói ấy luôn luôn xuất hiện trong tâm chí tôi như một tuyên ngôn cho tôi vậy. khi nhắc tới cấu
nói tôi lại cảm thấy cái gì đó thôi thúc tôi càng phải phấn đấu và rèn luyện nhiều hơn nữa.
Các bạn biết câu nói đó của ai không ?
Lãnh tụ, danh nhân Hồ Chí Minh đấy các bạn ạ. Được viết vào 19/12/1946 Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến.
Đó chỉ là một câu nói trong rất nhiều câu nói mà tôi thích của Người, tất cả những gì thuộc về
người tôi cũng đêu thích và tôn vinh như những ý nghĩa cao cả nhất.

Đã qua hơn 10 năm sống trong thế kỷ XXI nhưng tấm gương Hồ Chí Minh vĩ đại luôn được mỗi
người dân Việt hướng tới.
Sau gần 5 năm triển khai và thực hiện, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã tạo ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức của cán bộ, đảng viên và
người lao động. Thông qua nghiên cứu, học tập các chuyên đề về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh về: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ý thức tiết kiệm và tinh thần tương thân, tương


ái... đã giúp cho toàn bộ cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên, toàn dân trong tất cả các đơn vị có
những chuyển biến về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Như vậy chúng ta có thể thấy được sự cần thiết của việc học tập và làm theo tư tưởng tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò rất quan trọng trong công cuộc phát triển của đất nước trên
tất cả mọi lĩnh vực. Được thể hiện cụ thể như sau:
Trong thời kỳ đổi mới với bao khó khăn và thử thách từ nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh và quốc
phòng. Thực tiễn kinh tế - xã hội và những tình huống chiến lược cũng như những nhiệm vụ cụ thể
nhiều khi chúng ta tỏ ra bế tắc chỉ vì việc học. Bế tắc không phải chúng ta không chú ý đến việc học
tập đối với nền giáo dục quốc dân và đối với bộ máy nhân lực của Chính phủ chúng ta cũng đã làm
được rất nhiều việc.
Nếu không, làm sao chúng ta đứng vững cho đến ngày nay với một nhà nước độc lập tự chủ,
kinh tế phát triển đều đặn, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Vì vậy, xin được miễn nói
những gì là thành tựu. Chỉ xin nói thêm về những thực trạng cần có đổi mới trong việc học tập cho
cán bộ và công chức từ giáo huấn Hồ Chí Minh:
Chưa có chương trình cụ thể để gắn việc học với điều kiện của thực tiễn. Làm cái gì thì học
cái đó trước, cái đó nhiều, cái đó suốt đời. Đưa người đã học vào bộ máy công chức là chính, lấy
người chưa học là phụ (tránh tình trạng hiện nay: sinh viên thất nghiệp, công chức đi học tại chức!).
Đưa thực tiễn vào tất cả các khâu: phân bổ thời gian; bố trí con người "dạy thực tiễn" (như
dạy sinh viên hành chính là trưởng phó phòng, chủ tịch, phó chủ tịch, dạy tiếp dân...).
Tiếp cận cách thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức trong nước với thế giới để tránh tình
trạng bất cập có thể có: một bên là Việt Nam và một bên là thế giới còn lại!
Thiết nghĩ một trong những điều mà giáo huấn Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng Hồ Chí Minh

chính là giá trị "đi cùng thời đại" của những giáo huấn đó
1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên
tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa nhận
Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người sao cho phù hợp với lợi ích của
toàn xã hội
Đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính “bổn phận” diễn ra một cách tự giác,
chủ yếu xuất phát từ nhu cầu tinh thần bên trong. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác động của dư
luận xã hội, cũng như sự tự kiểm tra bởi chính mình
Đạo đức có chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục và chức năng phản ánh.
Chức năng điều chỉnh hành vi
- Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm cá nhân và xã hội
cùng tồn tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng.
Loài người sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi, trong đó có chính trị, pháp quyền và
đạo đức…
- Chính trị điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia bằng các biện pháp đặc
trưng như ngoại giao, kinh tế, hành chính, bạo lực…
- Pháp quyền và đạo đức điều chỉnh hành vi trong quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng bằng
các biện pháp đặc trưng là pháp luật và dư luận xã hội, lương tâm. Sự điều chỉnh này, có thể thuận
chiều, có thể ngược chiều.
- Điều chỉnh hành vi của đạo đức và pháp quyền khác nhau ở mức độ đòi hỏi và phương thức điều
chỉnh.
Pháp quyền thể hiện ra ở pháp luật, là ý chí của giai cấp thống trị buộc mọi người phải tuân theo.
Những chuẩn mực của pháp luật được thực hiện bằng ngăn cấm và cưỡng bức (quyền lực công cộng
cùng với đội vũ trang đặc biệt, quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù…). Pháp quyền là đạo đức tối thiểu
của mỗi cá nhân sống trong cộng đồng.
Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các hành vi cá nhân. Phương thức điều chỉnh là
bằng dư luận xã hội và lương tâm. Những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và
cả chuẩn mực khuyến khích.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xã hội và lương tâm đòi hỏi từ tối thiểu

tới tối đa hành vi con người đã trở thành đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý thức
khác, các hiện tượng xã hội khác và làm thành cái không thể thay thế của đạo đức.


×