Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP KẾT THÚC HỌC PHẦN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.11 KB, 15 trang )

I.

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP KẾT THÚC HỌC PHẦN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
1.Khái niệm thời tiết, khí hậu. Phân biệt thời tiết, khí hậu.
Thời tiết: trạng thái tức thời của khí quyên ở một địa điểm và thời gian nhất định và đặc
trưng bởi các yếu tố khí tượng: nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa,…
Khí hậu: Tổng hợp các giá trị thời tiết được đặc trưng bởi các giá trị trung bình của các
yếu tố khí tượng được quan trắc trong một khoảng thời gian đủ dài thường là vài thập kỉ
Thời tiết
Khí hậu
- trạng thái tức thời của điều kiện khí quyển -mô tả khái quát mọi khả năng có thể xảy
ở một nơi nào đó
ra của thời tiết trong một khoảng thời gian
đủ dài.
-Tính chất: biến đổi một cách liên tục, bất
- tương đối ổn định, bao hàm mọi khả năng
ổn
xảy ra của thời tiết
- dự báo thời tiết không thể dự báo trước
vài tuần
- khí hâu có thể dự báo trước nhiều tuần
thậm chí là nhiều năm
2.Phân biêt khái niệm Biến đổi khí hậu và dao động khí hậu:
biến đổi khí hậu
Dao động khí hậu
IPCC (2007), biến đổi khí hậu (BĐKH) là là sự biến đổi thăng giáng của các biến khí
sự biến đổi trạng thái của hệ thống khí hậu, hậu (như nhiệt độ và lượng mưa) xung
có thể được nhận biết qua sự biến đổi về
quanh trạng thái trung bình nhiều năm
trung bình và sự biến động của các thuộc


(thường là vài chục năm), nghĩa là hoặc lớn
tính của nó, được duy trì trong một thời
hơn hoặc nhỏ hơn giá trị trung bình nhiều
gian đủ dài, điển hình là hàng thập kỷ hoặc năm.
dài hơn. BĐKH là sự biến đổi từ trạng thái
cân bằng này sang trạng thái cân bằng khác
của hệ thống KH.
Tính chất: mang tính xu hướng hoặc tăng
Mang tính chu kì lặp đi lặp lại
hoặc giảm
3.Thế nào là các hiện tượng thời tiết cực đoan. Cho ví dụ
Theo IPCC (2007), hiện tượng thời tiết cực đoan là hiện tượng hiếm ở một nơi cụ thể vào
một thời gian cụ thể trong năm. Có xác xuất xảy ra là rất nhỏ thường nhỏ hơn 10%, và khi
nó xảy ra thường gây ảnh hưởng xấu đến môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội và các hoạt
động của con người.
Ví dụ: Mưa đá, Lũ lụt kéo dài, hạn hán….

1


II.

NGUYÊN NHÂN CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU.
1.Vẽ sơ đồ, trình bày cơ chế và vai trò của hiệu ứng nhà kính đối với hệ thống khí hậu trên
Trái đất.
Cơ chế: Nhiệt độ bề mặt Trái đất được tạo
thành bởi sự cân bằng giữa năng lượng Mặt
trời chiếu xuống Trái đất và năng lượng
bức xạ nhiệt của mặt đất phản xạ vào khí
quyển. Bức xạ mặt trời là bức xạ sóng ngắn

(0.1 – 3 micromet) nên nó dễ dàng xuyên
qua các lớp khí quyển rồi xuống mặt đất.
Ngược lại, bức xạ nhiệt từ mặt đất phản xạ
vào khí quyển là bức xạ sóng dài (5 – 60 micromet), sẽ bị một số khí có trong khí quyển hấp
thụ (CO2, H2O, CH4, N20, CFC…). Do đó nhiệt độ của khí quyển bao quanh Trái đất sẽ
tăng lên và tăng nhiệt độ bề mặt Trái đất cũng gia tăng. Hiện tượng này được gọi là “Hiệu
ứng nhà kính”, vì lớp CO2 và các khí khác có tác dụng tương tự lớp kính giữ nhiệt của nhà
kính trồng rau trong mùa đông.
Vai trò: giữ nhiệt lại cho bề mặt Trái Đất ổn định nhiệt độ của TĐ và bức xạ một phần nhiệt
vào khoảng không vũ trụ.
2.Khí nhà kính là gì? Nguồn gốc các loại khí nhà kính?
-Khí nhà kính là chất khí trong khí quyển có khả năng hấp thụ và phát xạ bức xạ sóng dài
(bức xạ nhiệt) gây nên hiệu ứng nhà kính.
- Nguồn gốc các loại khí nhà kính:
+ Hơi nước (H2O): hơi nước tự nhiên, hoạt động gián của con người thông qua phát thải
CH4, vì CH4 bị phân hủy do phản ứng hóa học trong tầng bình lưu, tạo ra một lượng nhỏ hơi
nước.
+ Ôzôn (O3): ôzôn có trong tầng đối lưu và tầng bình lưu dưới. Hoạt động của con người
làm tăng ôzôn trong tầng đối lưu thông qua giải phóng các chất khí như ôxit cacbon,
hydrocacbon và ôxit nitơ. Các chất khí này tác dụng hóa học với nhau và tạo ra ôzôn.
+ Ôxit Nitơ (N2O): Ôxit nitơ tự nhiên sinh ra do hoạt động của vi khuẩn, sự phóng điện
trong khí quyển, đốt sinh khối do cháy rừng, cháy đồng cỏ, các quá trình tự nhiên trong đất
và trong đại dƣơng, v.v. Hoạt động của con người: Khí thải từ ô tô, xe máy; Quá trình sản
xuất nông nghiệp và các hoạt động công nghiệp, đốt cháy các rác thải rắn và nguyên liệu,
quá trình nitrat hóa các loại phân bón hữu cơ và vô cơ,……
+ Mêtan (CH4): Mêtan được sinh ra do các quá trình tự nhiên như ở các vùng đầm lầy, ở đại
dương, hoặc do hoạt động của con người như sản xuất nông nghiệp, lấp đất và ủ các khí tự
nhiên, khai thác than, v.v.
+ Điôxit cacbon (CO2):sinh ra từ hô hấp của động, thực vật, quang hợp của thực vật; các
quá trình trao đổi khí quyển – đại dương; hoạt động của núi lửa. Hoạt động của con người

làm gia tăng lượng điôxit cacbon chủ yếu do sử dụng nhiên liệu hóa thạch, chế tạo các loại
máy sưởi, máy làm lạnh, sản xuất xi măng, phá rừng, thay đổi sử dụng đất, v.v.
+ Một số chất khí thuộc nhóm halo-cacbon (CFC, HCFC): chủ yếu là do hoạt động của con
người sinh ra, như chlorofluorocarbons (CFC-11 và CFC-12), hydro chlorofluorocarbons
(HCFC). Các chất khí này đƣợc sử dụng khi sản xuất các thiết bị làm lạnh và trong các quá
trình công nghiệp khác.
3.Trình bày các nguyên nhân của BDKH hiện đại. Nguyên nhân nào là quan trọng nhất. Tại
sao?

2


Những tiến bộ về quan trắc cũng như các mô hình gần đây càng cung cấp thêm nhiều hiểu
biết vững chắc, cho phép kết luận rằng BĐKH có nguồn gốc từ hai nguyên nhân.
-Tự nhiên nằm ngoài hệ thống khí hậu trái đất cũng như do sự thay đổi bên trong và tương
tác giữa các thành phần của nó:
+Sự thay đổi các tham số quỹ đạo của Trái Đất khi quay quanh mặt trời: độ lệch tâm, độ
nghiêng của trục quay của Trái đất và tiến động. Những biến đổi của các tham số này sẽ làm
biến đổi lượng bức xạ mặt trời cung cấp cho hệ thống khí hậu và hậu quả là làm khí hậu Trái
đất biến đổi.
+Sự thay đổi trong phân bố lục địa và biển trên bề mặt Trái đất làm thay đổi lượng bức xạ
mặt trời nhận được.
+Sự thay đổi cường độ bức xạ Mặt Trời và hấp thụ của trái đất : cũng gây ra sự thay đổi
năng lượng chiếu xuống mặt đất làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất.
+Núi nửa và các hiện tượng tự nhiên khác trên bền mặt Trái Đất làm thay đổi tính chất của
bầu khí quyển.
-Nhân tạo:
Việc phát thái khí nhà kính trong các hoạt động sinh hoạt, sản xuất của con người :việc đốt
các nhiên liệu hóa thạch (than đá, dầu mỏ, vv) phục vụ các hoạt động công nghiệp, giao
thông vận tải, vv và thay đổi mục đích sử dụng đất bao gồm thay đổi trong nông nghiệp và

nạn phá rừng. Làm gia tăng hiệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của Trái
đất.
−−−> nguyên nhân quan trọng nhất là do hoạt dộng của con người vì Trong báo cáo của
IPCC 2007: Một loạt các nghiên cứu được thực hiện, kết quả chỉ ra rằng hoạt động con
người đóng góp vào 90% nguyên nhân gây ra BĐKH. Con người tuy mới xuất hiện cách
đây khoảng vài chục nghìn năm, quá ngắn so với các chu kì tự nhiên trên trái đất. Nhưng
các hoạt động của con người đã có tác động đáng kể đến hệ thống khí hậu, có lẽ đáng kể
nhất là từ thời tiền công nghiệp (1750).
III.Biểu hiện của biến đổi khí hậu:
1.Trình bày các biểu hiện chính của biến đổi khí hậu toàn cầu. Biểu hiện nào quan trọng
nhất. Tại sao?
Toàn cầu:
-Biến đổi của nhiệt độ: xu hướng tăng nhiệt độ ở hầu hết các khu vực trên trái đất
+ Tốc độ ấm lên trên đất liền nhanh hơn trên đại dương
+BBC ấm lên nhanh hơn Nam bán cầu do sự phân bố diện tích đất liền lớn hơn 39% so với
19%
Châu Á có xu hướng tang nhanh nhất, NM tăng chậm nhất.
Nhiệt độ trung bình toàn cầu, đất liền, bề mặt đại dương đã tăng lên +0,85 1880-2012
3 thập kỉ cuối tiếp tục nóng lên với tốc độ nhanh, hơn bất kì thập kỉ nào kể từ năm 1850
1983-2012 có khả năng là 30 năm nóng nhất trong vòng 1400 năm qua.
-Biến đổi của lượng mưa: lượng mưa lại có sự tăng giảm khá khác nhau theo khu vực.
nhưng lượng mưa tb của thế giới tăng
+ Trên phạm vi toàn cầu lượng mưa tăng lên ở các đới phía Bắc vĩ độ 30ºN thời kỳ 1901–
2005 và giảm đi ở các vĩ độ nhiệt đới, kể từ thập kỷ 1990.
+ Tần số mưa lớn tăng lên trên nhiều khu vực, kể cả những nơi lượng mưa có xu thế giảm đi
-Biến đổi ở các vùng cực, băng quyển:
Trong thế kỷ 20 cùng với sự tăng lên của nhiệt độ mặt đất có sự suy giảm khối lượng băng
trên phạm vi toàn cầu.
Lượng băng mất đi vào mùa hè lớn khiến việc bù đắp vào mùa đông là không đủ
3
















Trong 2 thập kỉ cuối lớp băng ở Green land và nam cực đã mất đi lượng lớn các dòng sông
băng bị thu hẹp. Che phủ tuyết ở bắc cực và bbc giảm
+ Băng ở Greenland mất dần đi với tốc độ khoảng -50 đến -100 Gt/năm
-Biến đổi mực nước biển: Nóng lên toàn cầu làm gia tăng mực nước biển.
Tỷ lệ tăng đã lớn hơn 2 thiên niên kỷ trước kể từ giữa thế kỉ 19
Tốc độ tăng mực nước biển là +2,8mm/năm
Khi băng tan hết mực nước biển có thể tăng từ 5-10m
-Biến đổi của một số yếu tố và hiện tượng cực đoan:
+ Các đợt nắng nóng và nắng nóng gay gắt trở nên thường xuyên hơn.
+ Các hiện tượng như bão, mưa lớn, lũ lụt, lũ quét, hạn hán, tố lốc dường như cũng xảy ra
mạnh hơn, bất thường hơn.
-Biến đổi của một số yếu tố khác:
+Hơi nước trong tầng đối lưu cũng đang có xu thế tăng lên.
+ sự giảm bức xạ thường tập trung tại một số khu vực thành thị rộng lớn
+ Sự tăng lượng xon khí do hoạt động con người là lý do của việc giảm tổng lượng bức xạ

xuống bề mặt.
------- Biểu hiện quan trong nhất là sự biến đổi về nhiệt độ: tăng nhiệt độ của khí quyển và
trái đất vì nhiệt độ tăng cao gây nên hiện tượng băng tan ở hai cực dẫn đến nước biển
dâng ,mất đi một phần diện tích đất liền. nhiệt độ tăng
Gây ra hạn hán, mất mùa……
2.Các biểu hiện chính của biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Ví dụ cụ thể
-Về nhiệt độ:
+Trong nửa cuối thế kỷ 20 (1951 - 2000), nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam đã tăng lên
khoảng 0,5oC. Nhiệt độ trung bình năm của thập kỷ 1991 - 2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, thành
phố Hồ Chí Minh đều cao hơn trung bình của thập kỷ 1931 - 1940 lần lượt là 0,8; 0,4 và
0,6oC.Nhiệt độ trung bình trong vòng 4 thập kỷ gần đây được ghi nhận là cao hơn so với giá
trị trung bình hàng năm của 3 thập kỷ trước
Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn so với mùa hè
Nhiệt độ phía Bắc tăng nhanh hơn so với phía Nam
Nhiêt độ sâu trong đất liền tăng nhanh hơn so với vùng ven biển và hải đảo
-Về lượng mưa:
Tại tất cả các khu vực, sự thay đổi về lượng mưa trung bình trong 9 thập kỷ gần đây (19112000) không đồng nhất.
Giảm lượng mưa trên các vùng khí hậu phía Bắc, trừ cực Nam của Bắc Trung Bộ, và tăng
lượng mưa ở các vùng khí hậu phía Nam, nhất là ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên
Lượng mưa mùa đông (các tháng 12, 1, 2) có dấu hiệu giảm hoặc không biến đổi trên hầu
hết các vùng khí hậu, nhưng lại thể hiện xu thế tăng rõ ở Nam Trung Bộ và một số nơi phía
nam vùng Bắc Trung Bộ
Lượng mưa năm giảm ở các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu phía Nam.
Lượng mưa mùa khô: không thay đổi ở phía bắc và tăng mạnh ở phía nam.
Lượng mưa mùa mưa: giảm 5-10% ở phía Bắc và tăng 5-20% ở phía nam.
Lượng mưa ngày cực đại tăng lên ở hầu hết các vùng.
-Mực nước biển trung bình:
Mực nước biển trung bình thời kỳ gần đây (1991-2008) đều cao hơn thời kỳ 1961-1990

4



Mực nước biển cao nhất có xu thế cao hơn còn mực nước biển thấp nhất có xu thế ngược
lại, tăng ít hơn, thậm chí có nơi thấp hơn so với mực nước biển trung bình
 Trong 50 năm qua, mực nước biển dâng với tốc độ trung bình 3-4mm/năm nghĩa là trong
gần nửa thế kỷ vừa qua, nước biển ở VN dâng lên khoảng 15-20cm (ví dụ: mực nước biển
tại trạm hải văn Hòn Dầu đã dâng lên khoảng 20cm)
-Về bão: Trong những thập kỷ gần đây, số cơn bão có cường độ mạnh xuất hiện nhiều hơn,
quỹ đạo bão dịch chuyển dần về các vĩ độ nam và mùa bão kết thúc muộn hơn, nhiều cơn
bão diễn biến phức tạp và khác thường.
-Hạn hán: Mưa ít, nhiệt độ cao, độ ẩm thấp làm tăng khả năng bốc hơi, dẫn đên suy giảm
lượng nước dự trữ trong đất, trong khi nguồn nước ở nhiều sông, suối, hồ chứa bị cạn kiệt,
làm hạn hán sảy ra rất nghiêm trọng trên diện rộng trong những năm gần đây.
-Lũ lụt: Lượng mưa của mùa mưa trong thế kỷ XXI ở hầu hết các vùng đều tăng 5-10%.
Trong vài chục năm gần đầy nhiều trận lũ lớn và đặc biết lớn đã xảy ra ở các tình miền trung
và tiếp tục xảy ra với tần suất ngày càng tăng từ năm 1990 đến nay.
IV.Kịch bản BDKH:
1.Khái niệm: Là giả định có cơ sở khoa học và tính tin cậy về sự tiến triển trong tương lai
của các mối quan hệ giữa kinh tế - xã hội, GDP, phát thải khí nhà kính, biến đổi khí hậu và
mực nước biển dâng.
2. Nội dung các họ kịch bản phát thải KNK SRES :
- Kịch bản gốc A1: Mô tả một thế giới tương lai với sự phát triển kinh tế rất nhanh, dân số
thế giới tăng đạt đỉnh vào khoảng giữa thế kỷ 21 và giảm dần sau đó; các công nghệ mới
phát triển nhanh và hiệu quả hơn. Các đặc điểm nổi bật là sự tương đồng giữa các khu vực,
sự tăng cường giao lưu về văn hóa, xã hội, sự thu hẹp khác biệt về thu nhập giữa các vùng.
Họ kịch bản A1 được phát triển thành 3 nhóm dựa trên các hướng phát triển của công nghệ
trong hệ thống năng lượng:
+A1FI: sử dụng thái quá nhiên liệu hóa thạch (kịch bản phát thải cao)
+A1B: cân bằng giữa các nguồn năng lượng (kịch bản phát thải trung bình
+A1T: chú trọng đến việc sử dụng các nguồn năng lượng phi hoá thạch (kịch bản phát thải

thấp)
-Kịch bản gốc A2 (kịch bản phát thải cao): Mô tả một thể giới rất không đồng nhất.Các đặc
điểm nổi bật là tính độc lập, bảo vệ các đặc điểm địa phương, dân số thế giới tiếp tục tăng,
kinh tế phát triển theo định hướng khu vực, thay đổi về công nghệ và tốc độ tăng trưởng
kinh tế tính theo đầu người chậm và riêng rẽ hơn so với các họ kịch bản khác.
-Kịch bản gốc B1 (phát thải thấp): Thể hiện một thế giới tương đồng với dân số thế giới đạt
đỉnh vào giữa thế kỷ 21 và giảm xuống sau đấy giống nhƣ trong họ kịch bản gốcA1, nhưng
có sự thay đổi nhanh chóng trong cấu trúc kinh tế theo hƣớng kinh tế dịch vụ và thông tin,
giảm cường độ tiêu hao nguyên vật liệu; phát triển các công nghệ sạch và sử dụng hiệu quả
tài nguyên; chú trọng đến các giải pháp toàn cầu về bền vững kinh tế, xã hội và môi trường.
-Kịch bản gốc B2 (phát thải trung bình): Mô tả một thế giới với sự nhấn mạnh vào các giải
pháp địa phương về bền vững kinh tế, xã hội và môi trường. Dân số thế giới vẫn tăng trưởng
liên tục nhưng thấp hơn A2, phát triển kinh tế ở mức trung bình, chuyển đổi công nghệ
chậm và không đồng bộ như trong B1 và A1. Cũng hướng đến việc bảo vệ môi trường và
công bằng xã hội, B2 tập trung vào quy mô địa phương và khu vực


Câu 5. Tác động tích cực và tiêu cực của BĐKH
a) Đối với nông nghiệp
- Tích cực:

5













+ Ở các nước tương đối lạnh sẽ được lợi từ biến đổi khí hậu. Chi phí cho sưởi ấm và nhà ở
sẽ giảm.
+ Ở những "nước lạnh hơn", hay còn gọi là khu vực ôn đới, những khu vực có đủ nước và
chất dinh dưỡng, hoa màu có năng suất cao hơn khi nhiệt độ tăng và những mùa vụ kéo dài
hơn.
+ Những ích lợi này chủ yếu xảy ra ở Hoa Kỳ, Canada, Bắc Âu và phía bắc châu
Tiêu cực:
+ Đối với thế giới:
Nhiệt độ ấm hơn có thể làm cho nhiều loại cây trồng phát triển nhanh hơn, nhưng nhiệt độ
ấm hơn cũng có thể làm giảm sản lượng.
Nhiệt độ cực cao và lượng mưa tăng lên có thể ngăn chặn các loại cây trồng phát triển. Thời
tiết cực đoan, đặc biệt là lũ lụt và hạn hán có thể gây hại cho cây trồng, giảm sản lượng.
Hạn hán có thể đe dọa các đồng cỏ và nguồn cung cấp thức ăn cho chăn nuôi.
Biến đổi khí hậu có thể làm tăng tỷ lệ ký sinh trùng và các bệnh ảnh hưởng đến hoạt động
chăn nuôi.
Tăng lượng khí carbon dioxide (CO2) có thể làm tăng năng suất đồng cỏ, nhưng cũng có thể
làm giảm chất lượng của chúng.
Sự biến động của nhiều loài cá và các loài động vật có vỏ có thể thay đổi.
Một số bệnh ảnh hưởng đến đời sống thủy sinh có thể trở nên phổ biến hơn trong nước ấm.
Thay đổi về nhiệt độ và mùa có thể ảnh hưởng đến thời gian sinh sản và di cư
+ Đối với Việt Nam:
Ảnh hưởng nghiêm trọng đến đất sử dụng cho nông nghiệp.
Mất diện tích do nước biển dâng : Theo nghiên cứu và dự báo của Ủy ban liên chính phủ về
BĐKH của Liên hợp quốc (IPPC) và Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt Nam, nếu nước biển
dâng lên 1m sẽ làm ngập khoảng từ 0,3 đến 0,5 triệu ha tại đồng bằng sông Hồng (ĐBSH),
vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ có 1,5-2,0 triệu ha và những năm lũ lớn khoảng trên

90% diện tích của ĐBSCL bị ngập từ 4-5 tháng, trong đó chủ yếu là đất lúa bị ngập hoặc
nhiễm mặn không thể sản xuất. Biến đổi khí hậu cũng làm gia tăng thiên tai khiến năng suất
cây trồng giảm. Theo đánh giá của ADB, nếu nhiệt độ tăng thêm 1 độ C, năng suất lúa sẽ
giảm 10%, thực trạng trên sẽ đe dọa nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia và ảnh
hưởng đến hàng chục triệu người dân.
Bị tổn thất do các tác động trực tiếp và gián tiếp khác của BĐKH: hạn hán, lũ lụt, sạt lở,
hoang mạc hóa…: Những đợt hạn hán và nóng kéo dài liên tiếp xảy ra ở khắp các vùng
trong cả nước những năm gần đây cho thấy mức độ gia tăng ngày càng lớn của tình trạng
BĐKH. Hạn hán có năm làm giảm 20-30% năng suất cây trồng, giảm sản lượng lương thực,
ảnh hưởng nghiêm trọng tới chăn nuôi và sinh hoạt của người dân. Hạn hán kéo dài sẽ dẫn
đến nguy cơ hoang mạc hóa ở một số vùng, đặc biệt là vùng Nam Trung Bộ, vùng cát ven
biển và vùng đất dốc thuộc trung du, miền núi, gây ra những hệ lụy đáng kể đối với phát
triển bền vững ở Việt Nam.

BĐKH làm thay đổi tính thích hợp của nền sản xuất nông nghiệp với cơ cấu khí hậu
+ Sự giảm dần cường độ lạnh trong mùa đông, tăng cường thời gian nắng nóng dẫn đến tình
trạng mất dần hoặc triệt tiêu tính phù hợp giữa các tập đoàn cây, con trên các vùng sinh thái.
+ Làm chậm đi quá trình phát triển nền nông nghiệp hiện đại sản xuất hàng hóa và đa dạng
hóa cũng như làm biến dạng nền nông nghiệp cổ truyền. Ở mức độ nhất định, BĐKH làm
mất đi một số đặc điểm quan trọng của các vùng nông nghiệp ở phía Bắc.
• Do tác động của BĐKH, thiên tai ngày càng ảnh hưởng nhiều hơn đến sản xuất nông nghiệp


6







b)
-



+ Thiên tai chủ yếu đối với sản xuất nông nghiệp ngày càng gia tăng trong bối cảnh BĐKH.
+ Hạn hán song hành với xâm nhập mặn trên các sông lớn và vừa.
BĐKH gây nhiều khó khăn cho công tác thủy lợi
+ Khả năng tiêu thoát nước ra biển giảm đi rõ rệt, mực nước các sông dâng lên, đỉnh lũ tăng
thêm, uy hiếp các tuyến đê sông ở các tỉnh phía Bắc, đê bao và bờ bao ở các tỉnh phía Nam.
+ Diện tích ngập úng mở rộng, thời gian ngập úng kéo dài.
+ Nhu cầu tiêu nước và cấp nước gia tăng vượt khả năng đáp ứng của nhiều hệ thống thủy
lợi. Mặt khác, dòng chảy lũ gia tăng có khả năng vượt quá các thông số thiết kế hồ, đập, tác
động tới an toàn hồ đập và quản lý tài nguyên nước…
BĐKH đang làm thay đổi điều kiện sinh sống của các loài sinh vật, dẫn đến tình trạng biến
mất của một số loài và ngược lại, xuất hiện nguy cơ gia tăng các loại "thiên địch". Trong
thời gian nhiều năm trở lại đây, dịch rầy nâu, vàng lùn, lùn xoắn lá ở ĐBSCL diễn biến ngày
càng phức tạp, ảnh hưởng đến khả năng thâm canh, tăng vụ và làm giảm sản lượng lúa.
BĐKH có thể tác động đến thời vụ, làm thay đổi cấu trúc mùa, quy hoạch vùng, kỹ thuật
tưới tiêu, sâu bệnh, năng suất, sản lượng; làm suy thoái tài nguyên đất, đa dạng sinh học bị
đe dọa, suy giảm về số lượng và chất lượng do ngập nước và do khô hạn, tăng thêm nguy cơ
diệt chủng của động, thực vật, làm biến mất các nguồn gen quý hiếm.
Đối với lĩnh vực năng lượng
Tích cực:
+ Lượng mưa tăng làm lưu lượng nước cung cấp cho các con sông nơi có nhà máy thủy điện
sẽ tăng, do đó làm tăng sản lượng điện
+ Sự tan chảy của các con sông băng có thể làm tăng lưu lượng nước và do đó tăng sản
lượng phát điện.
+ Ở các vùng vĩ độ cao, sự tăng nhiệt độ bề mặt trái mùa có thể làm giảm nhu cầu sưởi
trong nhà và tiêu thụ năng lượng thương mại

Tuy nhiên, tất cả những tích cực trên chỉ có lợi trong ngắn hạn, về lâu dài thì tác động tiêu
cực của BĐKH đến lĩnh vực năng lượng là chủ yếu.
Tiêu cực:
+ Đối với thế giới:
Các thay đổi về nguồn nước cấp sẽ ảnh hưởng tới việc sản xuất điện từ thủy điện
• Thay đổi về lượng mưa sẽ ảnh hưởng tới chu kỳ thủy văn và dòng chảy của sông, dẫn đến
thay đổi sản lượng phát của các dự án thủy điện. Sự thay đổi này mang tính bất thường và
đa số dẫn tới sự thiếu hụt trầm trọng trong mùa khô
• Sự tan chảy của các con sông băng tuy làm tăng sản lượng điện trong ngắn hạn, tuy nhiên
lại kéo theo là sự sụt giảm đáng kể trong mùa hạ về dòng chảy cũng như sản lượng phát
điện khi các con sông băng biến mất.
• Các thay đổi, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, trong phương thức tiêu dùng nước và
nhu cầu về nước cho những mục đích khác tăng, ví dụ cho tưới tiêu, có thể giảm lượng nước
cấp cho thủy điện.
• Lượng trầm tích tăng lên có thể làm tăng tốc độ bồi lắng lòng hồ và làm tua-bin máy phát
chóng hư hỏng, dẫn tới làm giảm sản lượng phát điện. Các thay đổi về nhiệt độ không khí
và nước sẽ ảnh hưởng tới hiệu suất phát điện của nhà máy nhiệt điện
• Nhiệt độ không khí cao hơn sẽ làm giảm hiệu suất phát điện của nhà máy nhiệt điện; điều
này, dẫn tới làm giảm sản lượng phát điện - đôi khi lại trùng hợp với nhu cầu đỉnh trong giai
đoạn nắng nóng.
• Nhiệt độ nước tăng có thể gây ảnh hưởng bất lợi tới hoạt động của các hệ thống làm mát
của các nhà máy nhiệt điện và điện nguyên tử, và vi phạm các tiêu chuẩn chất lượng về
nước làm mát.

7









c)
-





• Các hệ thống làm mát tiên tiến cho nhiệt điện như làm mát khô có thể giúp giảm hoặc loại
bỏ việc phụ thuộc vào nước sạch trong các vùng được dự báo thiếu nước; tuy nhiên, các
công nghệ này thường đắt đỏ và có thể gây ra các tổn thất về hiệu suất. Nước biển dâng và
các thay đổi về tốc độ gió và mây che phủ cũng như tần suất và cường độ xảy ra các hiện
tượng thời tiết cực đoan sẽ tác động trực tiếp tới hạ tầng ngành năng lượng
• Các thay đổi về tốc độ và chiều hướng gió, cũng như mây che phủ và vùng xoáy của khí
quyển có thể tác động tới sản lượng của các dự án điện bằng sức gió (phong điện) và điện
mặt trời…
.• Mực nước thấp hơn sẽ làm tăng nhu cầu năng lượng cho việc bơm nước ngầm. Ngược lại,
việc tăng cường bơm nước sẽ làm tăng tính dễ tổn thương do thiếu nước và có thể dẫn tới
việc lún đất.
• Việc khử mặn có thể được coi như một cách ứng phó với sự thiếu hụt nước ngầm hoặc
nước bề mặt trong khu vực, nhưng quá trình này đòi hỏi một lượng lớn năng lượng.
+ Đối với Việt Nam:
BĐKH có thể tác động tiêu cực đến tài nguyên năng lượng tái tạo BĐKH kéo theo gia tăng
cường độ lũ, cả đỉnh lũ và trong một số trường hợp cực đoan, các nhà máy thủy điện buộc
phải xả lũ và các sông đang ở mức báo động rất cao. Hạn hán làm giảm thời gian phát điện
và hiệu suất điện năng trong trường hợp hạn hán khốc liệt. Sa sút về tiềm năng điện gió. Có
khả năng làm giảm tiềm năng của những nguồn năng lượng khác trong tương lai.
BĐKH tác động tiêu cực đến công nghiệp khai thác nguyên liệu. Gây nhiều khó khăn cho

hệ thống khai thác nguồn than antraxit ở bể than.
Tăng khả năng hao hụt, tổn thất sản lượng than do tần suất, cường độ mưa bão và lũ lụt gia
tăng.
Tăng thêm chi phí sản xuất, chi phí xây dựng vận hành, duy tu các dàn khoan, các phương
tiện.
Nhiều hải cảng, bao gồm cầu tàu, bến bãi, nhà kho thiết kế theo mực nước cuối thế kỷ 20 sẽ
phải cải tạo lại, thậm chi phải di dời; các công trình xây dựng mới tốn kém hơn về chi phí
xây lắp cũng như chi phí vận hành.
BĐKH tác động tiêu cực đến cung ứng và nhu cầu năng lượng khó khăn hơn cho hệ thống
vận chuyển dầu và khí từ dàn khoan trên biển đến các nhà máy hóa – lọc dầu; làm trội thêm
chi phí thông gió và làm mát hầm lò khai thác than và làm giảm hiệu suất của các nhà máy
điện.
Tiêu thụ điện cho các thiết bị sinh hoạt như điều hòa nhiệt độ, quạt điện, bảo quản lương
thực, thức ăn gia tăng theo nhiệt độ.
Chi phí tưới và tiêu trong sản xuất lúa, cây công nghiệp gia tăng.
Đối với tài nguyên nước
Tích cực:
+ Lượng mưa tăng làm tăng lưu lượng và dự trữ nước ngọt, khắc phục hiện tượng thiếu
nước ngọt trên thế giới.
Tiêu cực:
+ Đối với thế giới:
Băng tan làm nước biển dâng, đồng thời làm giảm lượng nước ngọt đáng kể trên Thế giới do
phần lớn nước ngọt được dự trữ trong lớp băng tuyết khổng lồ.
Xâm nhập mặn làm nguồn nước bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến chất lượng nước sinh hoạt và
sản xuất
Lượng mưa thất thường, hạn hán kéo dài làm độ dự trữ nước ngọt sụt giảm nghiêm trọng,
dẫn đến tình trạng thiếu nước ngọt trên thế giới

8









1.

Các hiện tượng cực đoan: lũ lụt, sóng thần, núi lửa… gián tiếp làm ảnh hưởng đến chất
lượng nước cho người dân
Nhiệt độ tăng làm bay hơi nhanh nước trong các hồ chứa
+ Đối với Việt Nam:
Hạn hán kéo dài gây thiếu nước trầm trọng, ảnh hưởng đến sinh hoạt, sản xuất của người
dân
Nước biển dâng, xâm nhập mặn làm ô nhiễm nguồn nước ngọt, đặc biệt ở Đồng bằng Sông
Cửu Long
Lượng mua trung bình năm giảm, làm ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước ngọt cho sinh
hoạt, sản xuất
Câu 6.
Khái niệm
Khái niệm tình trạng dễ bị tổn thương có xuất xứ từ các nghiên cứu về thảm hoạ tự nhiên
hoặc an ninh lương thực, hiện là một khái niệm còn gây nhiêu tranh cãi (Vincent, 2004: 1).
Khái niệm tình trạng dễ bị tổn thương được hiểu theo nhiều cách khác nhau, do đó cũng
được ứng dụng theo các hướng khác nhau. Trong biến đổi khí hậu, khái niệm được ứng
dụng rộng rãi nhất là khái niệm do IPCC (2007) xây dựng:
“Tình trạng dễ bị tổn thương là mức độ (degree) mà ở đó một hệ thống dễ bị ảnh hưởng và
không thể ứng phó với các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, gồm các dao động theo
quy luật và các thay đổi cực đoan của khí hậu. Tình trạng dễ bị tổn thương là hàm số của
tính chất, cường độ và mức độ (phạm vi) của các biến đổi và dao động khí hậu, mức độ

nhạy cảm và khả năng thích ứng của hệ thống (IPCC 2001, p.995)”.
Do đó TTDBTT (Vulnerability) có thể được biểu thị là hàm của độ phơi nhiễm (Exposure),
độ nhạy (Sensitivity) và khả năng thích ứng (Adaptation Capacity)
V = f(E, S, AC)
Trong đó độ phơi nhiễm (Exposure) được IPCC định nghĩa là bản chất và mức độ đến một
hệ thống chịu tác động của các biến đổi thời tiết đặc biệt; độ nhạy (Sensitivity) là mức độ
của một hệ thống chịu tác động (trực tiếp hoặc gián tiếp) có lợi cũng như bất lợi bởi các tác
nhân kích thích liên quan đến khí hậu; và khả năng thích ứng (Adaptive Capacity) là khả
năng của một hệ thống nhằm thích nghi với biến đổi khí hậu (bao gồm sự thay đổi cực đoan
của khí hậu), nhằm giảm thiểu các thiệt hại, khai thác yếu tố có lợi hoặc để phù hợp với tác
động của biến đổi khí hậu
Theo Viện Giảm thiểu Thiên Tai (Disaster Reduction Institute – DRI) thì TTDBTT là sự kết
hợp của các yếu tố về mức độ phơi nhiễm (Exposure), độ nhạy (Suscepbility) và khả năng
thích ứng (Coping Capacity)
TTDBTT = Mức độ phơi nhiễm(Exposure) x Mức độ nhạy(Suscepbility)/Khả năng thích
ứng (Coping Capacity)
Turner (Chủ tịch Ủy ban Biến đổi khí hậu Anh) và các tác giả khác (2003) miêu tả tính dễ bị
tổn thương là hàm số có 3 đặc điểm chồng chéo: độ phơi nhiễm (Exposure), độ nhạy
(Sensitivity) và khả năng thích ứng (Adaptation Capacity). Metzger và các tác giả khác
(2006) đã lý thuyết hóa khái niệm này và biểu diễn bằng toán học tính dễ bị tổn thương (V)
là hàm gồm độ phơi nhiễm (E), độ nhạy (S) và khả năng ứng phó (AC).
V = f(E, S, AC)
Cũng theo Turner thì TTDBTT có thể được biểu thị là hàm của các tác động tiềm tàng
(Potential Impacts – PI) và khả năng thích ứng (Adaptation Capacity): V = f(PI, AC)
Như vậy, có thể nhìn nhận rằng cả định nghĩa của IPCC, khái niệm của DRI và khái niệm
của Turner và Metzger đều có chung các tác động tiềm tàng (hay nguy cơ) trong đó chúng là

9



hàm gồm độ tiếp xúc và độ nhạy cảm.Từ những trình bày trên có thể coi, TDBTT là mức
độ tổn thất, suy thoái của hệ thống, mức độ chống chịu, phục hồi, ứng phó của nó trước
các tác động từ bên ngoài (tai biến và các hoạt động nhân sinh).
2. Các thành phần của TDBTT
Tính dễ bị tổn thương trên thế giới được nghiên cứu ở các quy mô, khía cạnh khác nhau:
vùng/khu vực, hệ thống tự nhiên - xã hội, kinh tế, chính trị, môi trường, y tế... dưới các tác
động và hoàn cảnh đa dạng (sự BĐKH toàn cầu, tai biến thiên nhiên và biến động môi
trường, biến động giá cả hàng hóa trên thị trường, sự khan hiếm lương thực, sự thay đổi tổ
chức và thể chế, thảm họa công nghệ, chiến tranh,…).
Các nghiên cứu TDBTT hiện nay đều được tiếp cận theo 3 thành phần: các mối đe dọa hay
được nhận định là các yếu tố gây tổn thương; các đối tượng bị tổn thương hay độ nhạy cảm
của các đối tượng trước mối đe dọa và khả năng ứng phó, phục hồi, chống chịu, thích ứng.
- Các mối đe dọa có khi là từ bên ngoài như các tai biến (Hazards): động đất, sóng thần, xói
lở bờ biển, ô nhiễm môi trường, tràn dầu và các tai biến liên quan đến BĐKH như bão, lũ
lụt, hạn hán, dâng cao mực nước biển, nhiễm mặn…, nhưng cũng có khi là từ bên trong bị
gây ra bởi các sự kiện kinh tế - xã hội.
- Đối tượng bị tổn thương được nhận định là các đối tượng dễ bị bị thay đổi khi chịu tác động
của các mối đe dọa. Các đối tượng bị tổn thương được đề cập, nghiên cứu như cộng đồng
người, đô thị, đới ven biển, hệ sinh thái ven biển, các ngành kinh tế (du lịch, thủy sản, nông
nghiệp,…).
- Khả năng ứng phó/phục hồi của hệ thống là khả năng của một hệ thống cho phép nó hấp thụ
và tận dụng hay thậm chí thu lợi từ những biến đổi và thay đổi tác động đến hệ thống và do
đó làm cho hệ thống tồn tại mà không làm thay đổi về chất trong cấu trúc hệ thống
(Hooling, 1973); là khả năng thích nghi với các hoàn cảnh đang thay đổi và do vậy đảm bảo
tính an toàn của các phương thức sống (Luttrell, 2001); là khả năng của thực thể (con
người, tài nguyên, các hệ sinh thái, đới ven biển,...) để chống lại, phản ứng và phục hồi lại
từ những tác động của tự nhiên (SOPAC, 2004); là mặt đối lập của tổn thương, là khả năng
của xã hội hoặc hệ sinh thái để thích ứng trước những thay đổi lớn hoặc bất ngờ (Adger và
cộng sự, 2005; Allenby và Fink, 2005). Khả năng ứng phó/phục hồi được đánh giá qua các
tiêu chí như độ tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, giáo dục, mức độ giàu/nghèo của cồng đồng

bị tổn thương, mật độ cơ sở hạ tầng của vùng bị tổn thương, chính sách bảo vệ, bảo tồn tài
nguyên - môi trường,…
3.
-

-

Các đối tượng DBTT do biến đổi khí hậu bao gồm:
+ Người nghèo, người không có đất sản xuất
+ Phụ nữ, trẻ em
+ Người khuyết tật, người không có khả năng lao động
Phân tích TDBTT do biến đổi khí hậu đối với nhóm người nghèo, người không có đất sản
xuất
+ Người nghèo, người không có đất sản xuất thì sinh kế chủ yếu của họ là nông nghiệp,
hoặc làm thuê, làm mướn liên quan đến nông nghiệp.
+ Trong sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng rõ nhất từ biến đổi khí hậu là dẫn đến mất mùa
nên khả năng tái đầu tư, sản xuất của đối tượng này là rất khó khăn vì họ thiếu vốn (nghèo),
cho nên tình trạng nghèo đói của người nghèo sẽ càng nghiêm trọng hơn dưới tác động của
biến đổi khí hậu.

10


+ Mức độ phơi bày của người nghèo trước các thảm họa của biến đổi khí hậu cũng được thể
hiện rõ hơn so với các đối tượng khác. Chẳng hạn như, nhà ở tạm bợ nên có nguy cơ ảnh
hưởng lớn bởi sạt lở bờ sông, lũ lụt, mưa bão, nắng nóng, nhất là những hộ di cư; nguồn
nước ô nhiễm, không đảm bảo cho điều kiện sống, đặc biệt khi có thiên tai và thời tiết cực
đoan; cơ sở hạ tầng dành cho đối tượng này yếu cũng gây khó khăn đối với việc đi lại và hỗ
trợ cho họ.
Câu 7.

1. Mối quan hệ giữa thích ứng và giảm nhẹ.
- Khái niệm:
+ Thích ứng: Là sự điều chỉnh của hệ thống tự nhiên hoặc con người để ứng phó những tác
động thực tại hoặc tương lai của khí hậu do đó làm giảm tác hại hoặc tận dụng những lợi ích
mang lại (IPCC, 2001). Trong đó, tăng cường khả năng thích ứng là một phương thức giảm
mức độ tổn thương và định hướng phát triển bền vững.
+ giảm nhẹ: Là những thay đổi về kỹ thuật và các giải pháp thay thế nhằm giảm nguồn phát
thải khí nhà kính. Mặc dù một số chính sách về xã hội, kinh tế và kỹ thuật có thể 156 giảm
sự phát thải khí nhà kính, giảm nhẹ BĐKH mang nghĩa thực thi các chính sách nhằm giảm
nhẹ khí nhà kính và tăng bể chứa các khí nhà kính (IPCC, 2007).
- Môi quan hệ:
Các thuật ngữ về thích ứng và giảm nhẹ BĐKH đóng vai trò quan trọng và là nền tảng cơ
bản để giải quyết các vấn đề của BĐKH. Giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH có một số điểm
chung như có thể bổ sung, thay thế, độc lập hoặc cạnh tranh nhau và có những đặc điểm,
khung thời gian rất khác nhau.
Cả thích ứng và giảm nhẹ đều đòi hỏi năng lực của xã hội có quan hệ mật thiết với sự phát
triển kinh tế - xã hội. Sự thích ứng với BĐKH phụ thuộc vào sự hứng chịu những rủi ro về
thời tiết, tài sản tự nhiên hay nhân sinh của xã hội, nguồn lực con người, các thể chế và thu
nhập. Tất cả các yếu tố này sẽ quyết định khả năng giảm nhẹ và thích ứng của xã hội.
Những chính sách hỗ trợ sự phát triển và nâng cao khả năng thích ứng và giảm nhẹ có thể
có một số điểm chung. Các chính có thể được lựa chọn có một số ảnh hưởng lên hệ thống tự
nhiên và kinh tế - xã hội, tuy nhiên trong một số trường hợp cần thiết phải có sự thỏa hiệp.
Các nhân tố chính quyết định khả năng thực thi kế hoạch giảm nhẹ và thích ứng BĐKH bao
gồm: tài nguyên, thị trường, tài chính, thông tin và nhiều các vấn đề điều khiển khác.
Các khái niệm về thích ứng và giảm nhẹ BĐKH cho thấy giảm nhẹ BĐKH sẽ giảm tất cả
các tác động (tích cực và tiêu cực) của BĐKH và do đó giảm các cơ hội thích ứng; trong khi
đó thích ứng BĐKH có thể phát huy các tác động tích cực và giảm các tác động tiêu cực của
BĐKH.
Thích ứng và giảm nhẹ BĐKH đều được thực hiện trên cùng một quy mô địa phương hay
khu vực và có thể được thúc đẩy bởi những ưu tiên và mối quan tâm của địa phương, khu

vực cũng như quan tâm toàn cầu. Giảm nhẹ BĐKH mang lại lợi ích toàn cầu, và do đó
mang lại lợi ích cho địa phương cũng như khu vực. Trong khi đó thích ứng với BĐKH chủ
yếu trên quy mô của hệ thống bị ảnh hưởng bởi BĐKH, tốt nhất là quy mô khu vực nhưng
hầu hết là quy mô địa phương. Việc giảm phát thải khí nhà kính đạt được bởi các hành động
giảm nhẹ khác nhau có thể được so sánh, đặc biệt nếu biết được giá thành giảm nhẹ BĐKH
thì chi phí – hiệu quả của các hành động giảm nhẹ có thể được xác định và so sánh. Tuy
nhiên, việc so sánh lợi ích của các hành động thích ứng với BĐKH trở lên khó khăn hơn.
Hơn nữa, như đã trình bày ở trên, thích ứng với BĐKH ảnh hưởng chủ yếu trên quy mô khu
vực và địa phương, do đó những lợi ích của hành động thích ứng với BĐKH được ước tính
khác nhau phụ thuộc vào bối cảnh kinh tế, xã hội và chính trị của nơi tiến hành các hành
động thích ứng.

11


Ngoài ra, trên thực tế, phải mất vài thập kỷ để có thể minh chứng những lợi ích của các
hành động giảm nhẹ BĐKH trong hiện tại do thời gian tồn tại dài của các khí nhà kính trong
không khí; trong khi đó rất nhiều các giải pháp thích ứng BĐKH có thể có hiệu quả nhanh
chóng và đạt được những lợi ích bằng cách giảm tính dễ bị tổn thương của các dao động khí
hậu. Do đó có một sự gián đoạn giữa việc gánh chịu chi phí giảm nhẹ BĐKH và nhận thấy
những lợi ích này, trong khi đó thời gian này đối với thích ứng lại ngắn hơn nhiều.
Thích ứng và giảm nhẹ BĐKH có liên quan với nhau ở các mức độ khác nhau. Những nỗ
lực giảm nhẹ có thể thúc đẩy khả năng thích ứng nếu loại trừ những sai sót và sự thiếu chính
xác của thị trường cũng như tiền trợ cấp vô lý …Ở mức độ tổng quan cao, những chi phí
giảm nhẹ dường như là hướng tới tài nguyên xã hội hay cá nhân và giảm kinh phí cho thích
ứng, tuy nhiên trên thực tế các nguồn kinh phí là khác nhau. Cả 2 sự lựa chọn thay đổi giá
trị tương đối, điều này có thể dẫn tới những sự điều chỉnh nhỏ hình thức tiêu thụ và đầu tư,
do đó thay đổi phương thức phát triển kinh tế khu vực bị ảnh hưởng. Những nỗ lực thích
ứng BĐKH có thể gây cả tác động tích cực và tiêu cực đến giảm nhẹ BĐKH. Ví dụ như việc
trồng cây gây rừng như là một phần của chiến lược thích ứng 159 BĐKH khu vực có những

đóng góp tích cực cho giảm nhẹ. Ngược lại, hành động thích ứng đòi hỏi việc sử dụng năng
lượng từ nguồn phát thải carbon tăng lên.
Các hành động nhằm giảm nhẹ BĐKH chủ yếu liên quan tới các lĩnh vực năng lượng, giao
thông vận tải (transportation), công nghiệp, dân cư (residential), rừng và nông nghiệp; trong
khi đó thích ứng với BĐKH liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như nông nghiệp, du
lịch và giải trí, sức khỏe con người, cung cấp nước, quản lý đới bờ, quy hoạch đô thị và bảo
tồn thiên nhiên.
Chiến lược giảm nhẹ BĐKH có nội dung chính là chiến lược giảm khí nhà kính, bao gồm
giảm nguồn phát thải khí nhà kính đồng thời với tăng bể hấp thụ khí nhà kính trên phạm vi
toàn cầu. Trong khi đó, chiến lược thích ứng với BĐKH có mục tiêu là ngăn chặn các tác
động của BĐKH, bao gồm cả tác động tự nhiên và nhân sinh đối với hệ thống tự nhiên - xã
hội.
Chiến lược giảm nhẹ BĐKH có nội dung chủ yếu là chiến lược giảm khí nhà kính, nghĩa là
giảm nguồn phát thải và tăng bể chứa khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu. Trong khi đó,
chiến lược thích ứng với BĐKH có mục tiêu là ngăn chặn các tác động của BĐKH, kể cả
biến đổi tự nhiên và biến đổi do hoạt động của con người tới hệ thống tự nhiên và xã hội
trên trái đất.
Nhìn chung, cả chiến lược giảm nhẹ BĐKH và thích ứng với BĐKH đều là những hành
động can thiệp trực tiếp tới một chu trình gồm 4 yếu tố:
• BĐKH: nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng, chế độ mưa, hạn hán, lũ lụt…
• Phát triển kinh tế - xã hội: tăng trưởng kinh tế, công nghệ, dân số và quản lý;
• Nồng độ khí nhà kính và phát thải khí nhà kính;
• Hệ thống tự nhiên - xã hội. Giảm nhẹ BĐKH can thiệp vào chu trình từ phát triển kinh tế
- xã hội dẫn đến phát thải khí nhà kính. Trong khi đó, thích ứng BĐKH can thiệp vào 2 quá
trình: tác động của BĐKH đến hệ thống tự nhiên - xã hội và mối tương tác giữa phát triển
kinh tế - xã hội với hệ thống tự nhiên - xã hội.
2. Các nhóm giải pháp thích ứng và ví dụ đối với ngành nông nghiệp
- Các giải pháp:
Các giải pháp thích ứng với BĐKH được đề cập và xây dựng rất đa dạng. Theo Báo cáo
đánh giá thứ 2 của IPCC (1995), có 228 giải pháp thích ứng BĐKH khác nhau đã được mô

tả. Dựa theo đặc điểm của thích ứng, các đối tượng bị tác động gắn với đặc điểm các lợi ích
dễ thực hiện, áp dụng và đạt hiệu quả cao, các giải pháp thích ứng được xây dựng theo các

12


nhóm khác nhau. Theo Burtonet và cộng sự (1993), các giải pháp thích ứng BĐKH được
chia thành 8 nhóm khác nhau:
• Chấp nhận những tổn thất: các phương pháp thích ứng được lựa chọn là chịu đựng hay
chấp nhận những tổn thất. Chấp nhận tổn thất xảy ra khi phải chịu tác động mà 153 không
có khả năng chống lại hay ở khu vực mà chi phí phải trả của các hoạt động thích ứng là cao
hơn so với mức độ thiệt hại.
• Chia sẻ những tổn thất: chia sẻ những tổn thất giữa cộng đồng lớn như là các hộ gia đình,
làng mạc hay là các cộng đồng nhỏ tương tự. Sự chia sẻ tổn thất hiện nay có thể thông qua
cứu trợ cộng đồng, phục hồi và tái thiết các hoạt động kinh tế - xã hội, khu vực, cộng đồng
chịu ảnh hưởng thông qua viện trợ của các quỹ cộng đồng như bảo hiểm xã hội.
• Giảm nguy hiểm: phương pháp này tập trung làm giảm nhẹ tác động của các tai biến liên
quan đến BĐKH.
• Ngăn chặn các tác động: sử dụng các phương pháp thích ứng từng bước để ngăn chặn các
tác động của BĐKH.
• Thay đổi cách sử dụng: áp dụng cho những vùng/khu vực chịu tác động lớn của BĐKH
như thay thế cây trồng thích hợp với sự thay đổi nhiệt độ; chuyển đổi mục đích sử dụng đất
trồng trọt có thể trở thành đồng cỏ/trồng rừng,…
• Thay đổi địa điểm: ví dụ như chuyển các cây trồng chủ chốt và vùng nông trại ra khỏi khu
vực khô hạn đến khu vực ôn hoà hơn và có thể sẽ thích hợp hơn cho một vài vụ trong tương
lai (Rosenzweig và Parry, 1994).
• Nghiên cứu: áp dụng những nghiên cứu, khoa học kỹ thuật với các công nghệ và phương
pháp mới.
• Giáo dục, thông tin và khuyến khích thay đổi hành vi: sự phổ biến kiến thức thông qua các
chiến dịch thông tin công cộng và giáo dục, dẫn đến việc thay đổi hành vi của con người

(một trong những tác nhân gây BĐKH).
Trong các nhóm giải pháp nêu trên, nhóm giải pháp “Chấp nhận tổn thất” hay không có
thích ứng (không làm gì để phản ứng/phục hồi lại các tác động bất lợi của BĐKH) có thể
được áp dụng trong những trường hợp phải cân nhắc trong những trường hợp vừa phải chịu
các mối đe dọa cùng với giá phải trả cho những hành động thích ứng.
Như vậy, việc không thích ứng và chấp nhận rủi ro sẽ có lợi hơn là chịu những chi phí thích
ứng. Do đó, khi chọn lựa các giải pháp thích ứng, đánh giá, phân tích chi phí-lợi ích là rất
cần thiết và quan trọng cho việc xây dựng, ban hành kế hoạch, chiến lược thích ứng. Trong
đó, chi phí của giải pháp thích ứng bao gồm: chí phí trực tiếp, chí phí phát sinh và những chi
phí khác. Lợi ích của giải pháp gồm lợi ích về xã hội và môi trường, được tính bằng các
thiệt hại, tổn thất được ngăn chặn (như cơ sở hạ tầng và sinh kế được bảo vệ)
-

Ví dụ với ngành nông nghiệp:
+ Trên thế giới:
• Tổ chức và nâng cấp ngân hàng giống và phát triển các loại cây trồng mới. • Phát triển các
cây trồng chống chịu hạn và loại trừ dần phương thức sản xuất độc canh.
• Nâng cao hiệu suất và tiện ích của việc tưới.
• Truyền bá kỹ thuật và thông tin về thực hành quản lý giữ ẩm trên đồng ruộng.
• Tự do hóa thương mại nông phẩm.
• Đẩy mạnh quản lý hạn hán trong sản xuất nông nghiệp.
• Nâng cấp hệ thống cất giữ và phân phối thực phẩm.
• Quy hoạch sử dụng đất đai phù hợp với tiềm năng biến đổi khí hậu.

13


+ Đối với Việt Nam:
• Xây dựng cơ cấu cây trồng phù hợp với biến đổi khí hậu, căn cứ đánh giá tác động của
biến đổi khí hậu đến tài nguyên thiên nhiên (khí hậu, đất, nước) và đánh giá tác động dễ bị

tổn thương đối với cơ cấu cây trồng trong từng thời vụ; Dự kiến các cây trồng có khả năng
chống chịu với hoàn cảnh mới (chống hạn, chống nắng, chống nóng) và các loại cây trồng
có hiệu quả cao; Lập kế hoạch điều chỉnh cơ cấu cây trồng và điều chỉnh thời vụ.
• Đa dạng hóa hoạt động xen canh, luân canh, dựa trên đánh giá tác động của biến đổi khí
hậu lên tài nguyên thiên nhiên để dự kiến các công thức luân canh, xen canh trong bổi cảnh
khí hậu mới; Thử nghiệm các công thức luân canh, xen canh mới và kiến nghị các giải pháp
kỹ thuật liên quan.
• Cải thiện hiệu quả tưới tiêu nông nghiệp, dựa trên đánh giá tác động của biến đổi khí hậu
đến sản xuất lúa và các loại cây trồng và dự kiến nhu cầu tưới tiêu theo cơ cấu mùa vụ mới;
Đánh giá khả năng đáp ứng của hệ thống các phương tiện tưới tiêu và điều chỉnh hệ thống
tưới tiêu hiệu suất cao hơn. 165
• Tổ chức cảnh báo lũ lụt, hạn hán, căn cứ trên đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến
điều kiện thời tiết và nguồn nước, lập bản đồ hạn hán và bản đồ ngập lụt trong từng khu
vực, xây dựng chỉ tiêu cảnh báo lũ lụt và chỉ tiêu cảnh báo hạn hán.

14


15



×