Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận môn các đảng chính trị trên thế giới công nghệ cầm quyền của đảng xã hội pháp và những bài học gợi mở cho đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.53 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công nghệ cầm quyền của đảng chính trị là một trong những loại công
nghệ chính trị cơ bản. Sau khi giành được quyền lực chính trị (chủ yếu là quyền
lực nhà nước) giai cấp thống trị cần phá vỡ những trật tự chính trị - xã hội cũ để
xây dựng nên những trật tự chính trị - xã hội mới. Lúc này xuất hiện “đảng cầm
quyền” tức là Đảng có quyền lực chính trị, cụ thể ở việc “nắm chính quyền”.
Đảng cầm quyền phải thực hiện việc tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân
dân đi theo Đảng, đồng thời là đại biểu của nhân dân thực hiện công việc quản lý
nhà nước sao cho vừa bảo vệ được lợi ích giai cấp, thực hiện thắng lợi mục tiêu
giai cấp mà vẫn bảo đảm lợi ích cơ bản của số đông quần chúng. Để nhân dân tin
tưởng, ủng hộ và chấp hành đường lối, chủ trương của đảng mình, việc sử dụng
công nghệ chính trị vô cùng cần thiết.
Trong quá trình bảo vệ và thực thi quyền lực chính trị, các đảng cầm
quyền đã xây dựng và sử dụng nhiều loại công nghệ chính trị như: công nghệ
tuyên truyền, thuyết phục, công nghệ ra quyết định chính trị , công nghệ quản lý,
điều hành chính trị, công nghệ vận động hành lang, công nghệ sử dụng bạo lực,
công nghệ tiến hành cải cách, công nghệ xử lý các tình huống chính trị... Công
nghệ cầm quyền của đảng chính trị thường được biết đến do giai cấp tư sản trong
chế độ tư bản chủ nghĩa xây dựng nên, song các đảng cầm quyền ở xã hội chủ
nghĩa cũng cần sử dụng, đã và đang tiến hành nhiều loại công nghệ chính trị cần
thiết để bảo vệ cán cân quyền lực của mình, thuyết phục, vận động quần chúng
tuyệt đối tin tưởng, chấp hành đường lối, chủ trương trong giai đoạn tự do dân
chủ lên ngôi. Đảng Xã hội Pháp là đảng cầm quyền lâu năm, đã sử dụng thành
công nhiều công nghệ chính trị trong thời gian cầm quyền đồng thời để lại nhiều
bài học kinh nghiệm quý báu mà bất cứ đảng cầm quyền ở chế độ xã hội nào
cũng cần học tập.


Đối với Đảng ta, vấn đề xây dựng đảng cầm quyền luôn cũ và cũng luôn
mới. Cũ là bởi vì, vẫn còn đó những nguyên lý cơ bản, đúng đắn của học thuyết


Mác - Lênin, của tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cộng sản. Mới là bởi vì, học
thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận mở, nghĩa là luôn luôn
được nạp thêm năng lượng mới từ cuộc sống, nhất là trong giai đoạn Đảng cầm
quyền ở nước ta hiện nay, có nhiều điểm rất mới được chế định từ giai đoạn đất
nước vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, mở cửa, toàn cầu hóa,
hội nhập quốc tế... Chưa bao giờ như trong giai đoạn hiện nay, những vấn đề lý
luận và thực tiễn về công nghệ cầm quyền của đảng lại được quan tâm đến thế.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng nhận định rằng, trong nhiệm kỳ Đại
hội X, đối với công tác xây dựng Đảng, “công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền...”, do đó,
trong thời gian tới phải “tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm
sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền”. Bởi vậy, việc nghiên cứu công nghệ
cầm quyền của các đảng chính trị đã áp dụng thành công trên thế giới là rất cần
thiết. Từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Công nghệ cầm quyền của
Đảng Xã hội Pháp và những bài học gợi mở cho Đảng Cộng sản Việt Nam”
cho tiểu luận môn Đảng cầm quyền trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài nghiên cứu của tác giả, đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu khoa học đã đề cập đến. Tuy nhiên, ở mỗi công trình nghiên cứu lại
tập trung khai thác và nhấn mạnh về một khía cạnh nào đó của Đảng cầm quyền
nước Pháp mà chưa có cái nhìn bao quát, toàn diện ở góc độ chính trị.
Chính vì thế, mà vấn đề nghiên cứu của tác giả trong đề tài tiểu luận của
mình vẫn còn là một khoảng trống. Và cũng chính những công trình nghiên cứu
khoa học liên quan đến đề tài lại chính là nguồn tài liệu tham khảo vô cùng hữu
ích trong quá trình nghiên cứu của tác giả..


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là: Phân tích và làm rõ công nghệ chính trị

của Đảng Xã hội Pháp.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
Thứ nhất, tìm hiểu về công nghệ chính trị, đảng chính trị.
Thứ hai, phân tích, làm rõ công nghệ cầm quyền của Đảng xã hội Pháp.
Thứ ba, những gợi mở cho Việt Nam
4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: là phương thức tổ chức và lãnh đạo của Đảng cầm quyền ở Pháp.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Trong hộ thống chính trị của Pháp
Về thời gian: Những năm gần đây
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận : Đề tài sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận
Phương pháp nghiên cứu : Đề tài sử dụng những phương pháp nghiên
cứu cụ thể như logic lịch sử, phân tích – tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể,
hệ thống – cấu trúc, so sánh, tra
6. Đóng góp mới của đề tài
Đề tài đưa ra cái nhìn tổng quát về Đảng Cầm quyền tại nước Pháp ,
những đánh giá khách quan về những đóng góp cho đến những hạn chế của
Đảng cầm quyền Pháp với xã hội.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung
của tiểu luận được kết cấu gồm 2 chương, 7 tiết


Chương 1: ĐẢNG CHÍNH TRỊ, CÔNG NGHỆ CẦM QUYỀN CỦA
ĐẢNG CHÍNH TRỊ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm, bản chất của Đảng chính trị
Khái niệm Đảng chính trị
Đảng chính trị là 1 tổ chức chính trị liên kết những đại diện tiêu biểu nhất

của 1 giai cấp hay tầng lớp xh, dựa trên 1 hệ tư tưởng hay quan điểm chính trị
nhất định, thể hiện lợi ích của giai cấp hay tầng lớp xh ấy, hướng tới việc giành,
giữ, sử dụng, quản lý nhà nước để đạt tới những mục tiêu, lý tưởng nhất định
phản ánh lợi ích của giai cấp hay tầng lớp xh ấy.
Đảng chính trị có một hệ tư tưởng hay một đường lối nhất định, nhưng
cũng có thể đại diện cho một liên minh giữa các lợi ích riêng lẽ. Được thừa nhận


bằng pháp luật, có mục tiêu giành quyền lực Nhà nước, chủ yếu bằng cách tham
gia các chiến dịch bầu cử.
Đảng chính trị là một sản phẩm lịch sử, nó là một hiện tượng chính trị đặc
biệt ra đời do nhu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, đó là sản phẩm tất yếu của
giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đảng chính trị chỉ xuất hiện khi xuất hiện thể chế
dân chủ, một thể chế thừa nhận sự tồn tại hợp pháp của các nhóm lợi ích đối lập
cùng các tổ chức đại diện cho nhóm lợi ích đó. Đảng chính trị cũng ra đời trong
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở những nước thuộc địa phụ thuộc.
Ăngghen đã chỉ rõ: đấu tranh chính trị giữa các giai cấp biểu hiện tập trung nhất
trong cuộc đấu tranh giữa các đảng chính trị. Vì thế trong thời đại ngày nay, chế
độ chính trị xã hội ở mỗi nước có sự khác nhau nhưng dưới chế độ chính trị xã
hội nào thì đảng chính trị cầm quyền cũng đóng vai trò quyết định đến sự phát
triển của mỗi nước.
Bản chất Đảng Chính trị
Về bản chất, đảng chính trị bao giờ cũng mang bản chất giai cấp. Đảng
chính trị là đại biểu cho hệ tư tưởng, cho lợi ích của giai cấp xã hội nhất định,
không có đảng chính trị nào là phi giai cấp, siêu giai cấp. Dù ở thời đại nào, dù ở
nước nào cũng không thể có một đảng chính trị mà lại vừa đại biểu cho lợi ích
của giai cấp bóc lột thống trị lại vừa đại biểu cho lợi ích của cac giai cấp, các
tầng lớp lao động. Muốn xem xét bản chất giai cấp của một đảng chính trị thì
phải xem xét trên hệ tư tưởng của nó, xem đảng đó đấu tranh vì ai, bảo vệ lợi ích
cho giai tầng nào trong xã hội.

1.2. Chức năng và vai trò của Đảng Chính Trị
Chức năng của Đảng Chính Trị
- Hoạch định đường lối, cương lĩnh, mục tiêu để tập hợp lực lượng, dẫn
dắt lực lượng của mình đấu tranh nhằm thực hiện mục tiêu chính trị
- Xây dựng lực lượng, xây dựng tổ chức bộ máy thông qua công tác tổ chức cán
bộ để thực hiện mục tiêu đường lối đã vạch ra.


- Giáo dục, thuyết phục, vận động các tầng lớp xã hội khác nhau cùng thực
hiện mục tiêu của mình.
- Thông qua cơ chế kiểm tra của Đảng, kiểm tra xử lý đối với các đảng
viên và các tổ chức đảng trong hoạt động thực tiễn
Vai trò của Đảng Chính Trị
Vai trò của Đảng cầm quyền trong việc xác lập: bộ máy nhà nước, vị trí
cán bộ chủ chốt trong bộ máy nhà nước cấp Trung ương và địa phương, vị trí cán
bộ chủ chốt thuộc các bộ phận cấu thành hệ thống quyền lực nhà nước:
Hoạt động của Đảng cầm quyền luôn gây ảnh hưởng đến đời sống chính
trị và hoạt động của bộ máy Nhà nước, làm cho các cơ quan nhà nước hoạt động
không theo quy định của pháp luật và trở nên hình thức, có sự phân chia quyền
lực nhà nước giữa các Đảng.
1.3. Khái niệm công nghệ
Công nghệ (technology) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, là sự tạo ra, sự biến
đổi, việc sử dụng, và kiến thức về các công cụ, máy móc, kỹ thuật, kỹ năng nghề
nghiệp, hệ thống, và phương pháp tổ chức, nhằm giải quyết một vấn đề, cải tiến một
giải pháp đã tồn tại, đạt một mục đích, hay thực hiện một chức năng cụ thể.
Công nghệ ảnh hưởng đáng kể lên khả năng kiểm soát và thích nghi của
con người cũng như của những động vật khác vào môi trường tự nhiên của mình.
Hiện nay, thuật ngữ công nghệ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ giáo dục, công nghệ chiến
tranh, công nghệ chính trị… Công nghệ là một tổ hợp bào gồm các yếu tố: thông

tin, kiến thức, lao động, tay nghề, vật tư – thiết bị, quản lý – tổ chức trong một
quá trình gồm nhiều giai đoạn nhằm biến các tri thức khoa học thành hàng hóa
hoặc dịch vụ có sức cạnh tranh trên thị trường.
Công nghệ còn được hiểu là phương pháp cải tiến nguyên liệu ban đầu, có
thể là con người, thông tin hoặc các nguyên liệu vật lý nhằm đạt được kết quả
mong muốn dưới dạng các sản phẩm hoặc dịch vụ.


1.4. Khái niệm công nghệ chính trị
Công nghệ chính trị là công nghệ thực hiện quyền lực chính trị. Đó là toàn
bộ những phương thức, thủ đoạn, các giải pháp hợp lý để thực hiện chức năng
của hệ thống chính trị, nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình chính trị và đạt
được mục tiêu chính trị. Do chính trị có tính đa dạng, phức tạp, cho nên xuất iện
nhiều công nghệ chính trị trong quá trình giành, giữ và thực thi quyền lực chính
trị. Công nghệ chính trị bao gồm các phương thức đạt kết quả nhanh chóng, cục
bộ gọi là chiến thuât; còn các phương thức đạt được hiệu quả cơ bản lâu dài gọi
là chiến lược.
Cơ sở của công nghệ chính trị là khoa học chính trị, bao gồm các ngành
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu dự báo. Kết quả nghiên
cứu nhanh chóng được ứng dụng trong soạn thảo, ban hành điều chỉnh chính
sách, trong tổ chức bộ máy đào tạo nhân lực. Trong xu hướng phát triển khoa
học hóa, thực tiễn hóa hoạt động chính trị trong lãnh đạo, quản lý, việc chú ý
đúng mức tới lý luận và phương pháp chính trị, ứng dụng công nghệ chính trị
ngày càng trở nên cần thiết.
Việc sử dụng công nghệ chính trị này hay công nghệ chính trị khác tác
động trực tiếp đến hiệu quả quản lý chính trị, điều tiết các quá trình chính trị,
tính ổn định của hệ thống chính trị và cả môi trường cính trị. Công nghệ chính trị
phụ thuộc vào mức độ phát triển xã hội (quá trình tiến hóa, quá trình cách
mạng…) và đặc điểm của chế độ chính trị (chế độ dân chủ, chế độ chuyên
chế…). Công nghệ chính trị có tính chính xác cao và duy nhất, nó đảm bảo sự

tác động qua lại giữa các lực lượng chính trị và các thiết chế chính trị nhằm giải
quyết các vấn đề chính trị. Tính đa dạng của quyền lực chính trị làm phát sinh
nhiều công nghệ chính trị nhằm giành và thực thi quyền lực chính trị. Ở góc độ
khác nhau, mỗi công nghệ chính trị đều đa phương diện – xét theo những điều
kiện thực hiện, thành phần của những người thực hiện, loại hình hoạt động chính
trị và các vấn đề cần được giải quyết.


Công nghệ đấu tranh giành quyền lực chính trị (chủ yếu là quyền lực nhà
nước) có tầm quan trọng đặc biệt đối với bất kỳ giai cấp nào, bởi vì nó sẽ phá vỡ
những trật tự chính trị - xã hội cũ để xây dựng lên những trật tự chính trị - xã hội
mới. Các phương thức đấu tranh giành quyền lực ở các chế độ chính trị - xã hội
khác nhau gắn liền với sự phát triển xã hội của loài người theo hướng từ thấp đến
cao, nhưng tựu chung lại là có hai hình thức phổ biến là con đường bạo lực và
con đường hòa bình.
Bên cạnh đó, công nghệ thực thi quyền lực chính trị cũng giữ một vai trò
đặc biệt quan trọng. Khi giai cấp thống trị đã giành được quyền lực, việc cần làm
là phải sử dụng quyền lực đó một cách có hiệu quả nhất bảo vệ cho lợi ích giai
cấp của mình, đồng thời cũng phải đáp ứng những nhu cầu chung của đại đa số
quần chúng nhân dân. Trong quá trình bảo vệ và thực thi quyền lực chính trị, các
giai cấp cầm quyền đặc biệt là giai cấp tư sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa, đã
xây dựng và sử dụng nhiều loại công nghệ chính trị như: công nghệ tuyên truyền,
thuyết phục, công nghệ ra quyết định chính trị, công nghệ quản lý, điều hành
chính trị, công nghệ vận động hành lang, công nghệ sử dụng bạo lực, công nghệ
tiến hành cải cách, công nghệ xử lý các tình huống chính trị…
1.5. Công nghệ cầm quyền của đảng chính trị
Trong lĩnh vực chính trị học, Đảng cầm quyền là một khái niệm được sử
dụng rộng rãi ở các nước phương Tây ngay khi xã hội bắt đầu hình thành các
đảng chính trị. V. Lê-nin cũng đề cập nhiều vấn đề liên quan đến đảng cầm
quyền. Theo V. Lê-nin, đảng cầm quyền được hiểu là “đảng nắm chính quyền”

bằng những người đại diện của đảng trực tiếp thực hiện công việc quản lý trong
bộ máy nhà nước. Những cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước phải hoạt
động làm sao bảo đảm vừa với tư cách là người đại diện cho Đảng thực hiện việc
tuyên truyền, vận động nhân dân đi theo Đảng, tức là hoạt động “lãnh đạo”, vừa
với tư cách là người đại diện cho Đảng, đồng thời là đại biểu của nhân dân thực
hiện công việc quản lý nhà nước, tức là hoạt động “cầm quyền”. Đảng cầm


quyền là khái niệm gắn với quyền lực. Tức là Đảng có quyền lực chính trị mà cụ
thể là ở việc “nắm chính quyền”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất sớm về Đảng cầm quyền, tuy
nhiên, không nêu rõ khái niệm Đảng cầm quyền là như thế nào, và hầu như chỉ
có một lần trong Di chúc, Người mới nói rõ “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”;
nhưng qua những bài viết, bài nói, Người cho rằng “Đảng cầm quyền” là một
khái niệm khác với “Đảng lãnh đạo”, Đảng cầm quyền là khái niệm gắn với
quyền lực. Theo Người, Đảng cầm quyền cũng là Đảng nắm chính quyền, nghĩa
là Đảng có quyền lực trong thực tế. Tuy nhiên, Đảng ta là đội tiên phong không
chỉ của giai cấp công nhân mà là của cả dân tộc. “Đảng là đảng của cả giai cấp
lao động, mà cũng là đảng của toàn dân”; đồng thời những cán bộ, đảng viên của
Đảng trực tiếp thi hành những nhiệm vụ quản lý trong bộ máy nhà nước nhưng
đều chỉ là những người được nhân dân “ủy thác”, bầu ra để phục vụ nhân dân.
Người viết: “Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu
thay mặt mình thi hành chính quyền ấy”. Có thể thấy, đây là một nét đặc thù của
Đảng cầm quyền ở Việt Nam hiện nay. Điều này không có được đối với đảng
cầm quyền ở nhiều nước trên thế giới, khi mà đảng cầm quyền chỉ là đại diện của
một lực lượng trong nhiều lực lượng khác nhau của các giai cấp, tầng lớp dân
chúng trong xã hội.
Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng khi đã giành được chính quyền
khác rất nhiều so với khi chưa có chính quyền.
Trước khi có chính quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu là các

tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương
đến các hội, đoàn thể, quần chúng “cốt cán”, thậm chí đến từng người dân; từ đó
tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Quan hệ của Đảng
với nhân dân là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời nhân dân đều có thể dẫn đến tổn
thất cho cách mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức đảng và đảng


viên. Trong điều kiện chưa có chính quyền, trong Đảng không có điều kiện để
phát sinh, phát triển các tệ nạn như quan liêu, mệnh lệnh, ức hiếp quần chúng.
Khi đã có chính quyền thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất
để đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Trong phương thức cầm quyền, ngoài
cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng lãnh đạo chính
quyền (Nhà nước) thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành
Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch… và tổ chức nhân dân thực hiện.
Thực chất của Đảng cầm quyền là: Đảng lãnh đạo chính quyền và thông
qua chính quyền để nhân dân làm chủ Nhà nước, làm chủ xã hội. Trong điều kiện
Đảng đã có chính quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy cơ: sai lầm về đường
lối, quan liêu, xa rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản. Ngay sau khi giành
được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã cảnh báo nguy cơ sai lầm về
đường lối và suy thoái của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu cần phải chiến
thắng ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu; nếu không sẽ làm đổ vỡ
cả sự nghiệp của một Đảng cầm quyền.
Bởi vậy, bất kỳ đảng cầm quyền dù ở chế độ xã hội chủ nghĩa hay xã hội
tư bản đều cần sử dụng những công nghệ thực thi quyền lực chính trị nhằm
hướng đến mục tiêu cao cả nhất là bảo vệ lợi ích cho giai cấp, thực hiện thắng lợi
mục tiêu giai cấp mà đảng đó đại diện. Trên thế giới nhiều nước đã xây dựng và
sử dụng thành công nhiều công nghệ chính trị như: công nghệ tuyên truyền,
thuyết phục, công nghệ ra quyết định chính trị, công nghệ quản lý, điều hành
chính trị, công nghệ vận động hành lang, công nghệ sử dụng bạo lực, công nghệ

tiến hành cải cách, công nghệ xử lý các tình huống chính trị...
Chương 2: CÔNG NGHỆ CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG XÃ HỘI PHÁP
VÀ NHỮNG GỢI MỞ CHO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. Công nghệ cầm quyền của Đảng Xã hội Pháp


Là chính đảng cánh tả lớn nhất nước Pháp, Đảng Xã hội Pháp giữ vị thế
quan trọng trong đời sống chính trị nước Pháp. Nhưng sự trỗi dậy của Đảng Xã
hội không phải luôn suôn sẻ, mà liên quan mật thiết đến chế độ chính trị và hoàn
cảnh xã hội, đặc biệt liên quan đến việc xây dựng tổ chức và việc điều chỉnh mối
quan hệ xã hội của Đảng này.
2.1.1. Kinh nghiệm cầm quyền của Đảng Xã hội Pháp
Thứ nhất, thích ứng với sự phát triển của tình hình, tiến hành đổi mới
tư tưởng và quan niệm
Trong quá trình phát triển, Đảng Xã hội Pháp chưa từng từ bỏ lý tưởng và
giá trị của Đảng, đồng thời họ cũng phát triển quan điểm của Đảng dựa trên sự
thay đổi của hoàn cảnh. Họ tôn thờ tư tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái” của Đại
Cách mạng Pháp, cũng như những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng hòa, đồng thời
chịu sự ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác, phê phán sự bất bình đẳng của xã hội tư
bản chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích và quyền của giai cấp công nhân.
Thứ hai, cải cách kết cấu tổ chức của Đảng, tăng cường khả năng tập
hợp của Đảng
Kết cấu tổ chức của Đảng Xã hội Pháp tương đối chặt chẽ, mức độ dân
chủ hóa trong Đảng tương đối cao, kết cấu tổ chức này có lợi cho việc giữ vững
sức chiến đấu của Đảng, đồng thời cũng duy trì sự năng dộng của Đảng. Kết cấu
tổ chức của Đảng Xã hội Pháp chủ yếu có ba cấp, cấp cơ sở là chi bộ địa phương
hoặc chi bộ doanh nghiệp, đảng viên có thể thảo luận trong nội bộ chi bộ, có thể
đưa ra quan điểm bất đồng và kiến nghị đối với chính sách của Đảng. Cấp trung
gian là Đại hội đại biểu liên hợp cấp tỉnh, phụ trách chính sách của Đảng ở mỗi
tỉnh. Cơ quan quyết sách của Đại hội đại biểu liên hợp là Hội đồng liên hợp. Đại

hội đại biểu liên hợp bầu chọn bí thư thứ nhất của mình. Cấp cao nhất là Đại hội
đại biểu toàn quốc, họp hai năm một lần để tổng kết và thảo luận về hoạt động,
phương châm, chính sách lớn của Đảng. Các cơ quan lãnh đạo và chấp hành chủ


chốt của Đảng bao gồm: Hội đồng toàn quốc, Ban chấp hành toàn quốc, Ban bí
thư qoàn quốc. Bí thư thứ nhất của Đảng ở vị trí trên cùng.
Lãnh đạo các cấp của Đảng Xã hội Pháp đều được bầu qua, bỏ phiếu ở đại
hội toàn thể đảng viên ở mỗi cấp. Thông qua chế độ tỷ lệ đại biểu mà những quan
điểm khác nhau trong Đảng có thể được thảo luận một cách đầy đủ, đồng thời
cũng có thể đi đến quyết sách cuối cùng; các thành viên của các phe phái khác
nhau trong Đảng đều có thể trở thành lãnh đạo, đồng thời đề án chương trình hành
động đạt được số phiếu cao nhất thường trở thành nhận thức chung của đại đa số
đảng viên trong Đảng và điều này có tác động tích cực tới sự ổn định của Đảng.
Đảng Xã ội còn tiến hàn cải cách phương thức giới thiệu ứng cử viên tổng thống
của Đảng. Tháng 10-2011, vòng sơ tuyển được mở rộng hơn nữa: Trong toàn thể
những người có cảm tình với cánh tả, bất kỳ ai đăng ký bầu cử, nộp đủ 01 eurp và
ký tên vào bản “Giá trị cánh tả” (tự do, bình đẳng, bác ái, chủ nghĩa thế tục, chính
nghĩa, đoàn kết và tiến bộ) đều có thể tham gia bỏ phiếu.
Thứ ba, nghiêng về tầng lớp trung lưu và tầng lớp dưới, thúc đẩy công
bằng xã hội
Trong thời gian cầm quyền, Đảng Xã hội Pháp xem trọng vấn đề bình
đẳng xã hội và việc bảo vệ lợi ích của tầng lớp dưới, thúc đẩy cải cách trên các
lĩnh vực như an sinh xã hội, quyền tự do của công dân, quyền bình đẳng nam nữ,
do đó nhận được sự ủng hộ của đại đa số cử tri.
Thứ tư, thu hút tầng lớp trung lưu mới, mở rộng nền tảng cử tri
Đối mặt với sự thay đổi về kết cấu giai cấp, Đảng Xã hội đã hướng đến
việc tiếp cận nhằm thu hút tầng lớn trung lưu mới này để họ trở thành cử tri chủ
yếu của Đảng. Vì thế, việc cầm quyền của Đảng này, ở một mức độ rất lớn, dựa
vào sự ủng hộ của tầng lớp trung lưu với thành phần chủ yếu là nhân viên quản

lý và nhân viên kỹ thuật chuyên nghiệp.
Thứ năm, đoàn kết lực lượng cánh tả, xây dựng vũ đài chung cho lực
lượng cánh tả


Trong bối cảnh đó, năm 1997, Đảng Xã hội, Đảng Cộng sản, Đảng Xanh
và Phong trào Công dân (MDC) xây dựng “Liên minh cánh tả đa nguyên”, đồng
sy sự ủng hộ nhau trong bầu cử, đã giành thắng lợi trong cuộc bầu cử nghị viện
toàn quốc.
2.1.2. Bài học trong việc cầm quyền của Đảng Xã hội Pháp
Mơ hồ trong việc xác định chỗ đứng của Đảng, nhiễu loạn về vấn đề
hình thái ý thức trong một thời gian dài
Đảng Xã hội bị ảnh hưởng sâu sắc bởi phong trào công nhân, lấy chủ
nghĩa Mác làm quan điểm, tư tưởng chính trị của Đảng, chủ trương thông qua
cách mạng để tiến hành cải cách một cách căn bản đối với chế độ tư bản chủ
nghĩa. Nhưng trong quá trình hoạt động thực tiễn, Đảng Xã hội lại đi theo chủ
nghĩa cải lương, phần lớn các lãnh đạo của Đảng là người theo chủ nghĩa cải
lương. Sự mâu thuẫn giữa tư tưởng và hành động nói trên luôn xuyên suốt trong
quá trình hoạt động của Đảng.
Tranh giành quyền lực giữa các phe phái diễn ra nghiêm trọng, nội bộ
Đảng khó đi đến nhận thức chung
Trong nội bộ Đảng Xã hội tồn tại rất nhiều phe phái, điều này chủ yếu là
do Đảng Xã hội không ngừng tiếp nhận các phe phái mới gia nhập Đảng. Trong
nội bộ Đảng Xã hội tồn tại các phe phái thiểu số và phái chủ lưu, trong đó, phái
thiểu số nghiêng về lập trường chủ nghĩa cách mạng truyền thống không chiếm
được đa số trong Đảng.
Chính sách nghiêng về phe trung dung, mất đi sự ủng hộ của những
cử tri cánh tả truyền thống
Cho dù có nhiều thành tích trong thời gian cầm quyền, nhưng người được
hưởng lợi từ những thành quả đó chủ yếu là tầng lớp trung lưu và thượng lưu,

chứ không phải công nhân tầng lớp dưới. Sự ủng hộ của cử tri thuộc giai cấp
công nhân đối với các đảng cánh tả giảm nhanh chóng, một bộ phận lớn chuyển
sang ủng hộ cánh hữu thậm chí là các đảng cực hữu.


Các chính đảng cánh tả đều có toan tính riêng, liên minh cánh tả bằng
mặt không bằng lòng
Do sự khác nhau về hình thái ý thức và sự tăng giảm về quyền lực, nên nội
bộ khối cánh tả rất khó hình thành một liên minh thống nhất, cho dù liên minh có
hình thành thì cũng dễ bị tan vỡ, nền tảng của liên minh vô cùng yếu ớt.
Trong thời đại đa nguyên hóa lợi ích, việc xây dựng một liên minh cánh tả
thống nhất gặp rất nhiều khó khăn, cần phải khắc phục những mâu thuẫn và xung
đột từ lâu giữa các đảng, cần có sự thỏa hiệp giữa các đảng trong bầu cử, và cần
có một hạt nhân có khả năng hiệu triệu
2.2. Những gợi mở cho Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
Chưa bao giờ như trong giai đoạn hiện nay, những vấn đề lý luận và thực
tiễn về xây dựng đảng cầm quyền lại gắn bó chặt chẽ với nhau đến như vậy. Đối
với Đảng ta, vấn đề này luôn cũ và cũng luôn mới. Cũ là bởi vì, vẫn còn đó
những nguyên lý cơ bản, đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin, của tư tưởng Hồ
Chí Minh về đảng cộng sản. Mới là bởi vì, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là lư luận mở, nghĩa là luôn luôn được nạp thêm năng lượng mới từ
cuộc sống, nhất là trong giai đoạn Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay, có nhiều
điểm rất mới được chế định từ giai đoạn đất nước vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN, mở cửa, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế... Chẳng hạn,
quan niệm chung nhất trên thế giới về “đảng cầm quyền” là một đảng chính trị
đã giành được chính quyền (có thể là chiến thắng trong bầu cử hoặc bằng nhiều
con đường khác), dùng chính quyền để thực thi đường lối của đảng mình. Thế
nhưng, ở nước ta không đơn thuần như vậy. Sự cầm quyền của Đảng Cộng sản
Việt Nam thể hiện ở việc đây là một đảng chính trị duy nhất trong xã hội Việt
Nam, Đảng không những đang lãnh đạo chính quyền mà còn lãnh đạo cả hệ

thống chính trị, rộng hơn là lãnh đạo toàn xã hội. Đối với đặc điểm này thì quan
niệm “đảng cầm quyền” như ở nhiều nước trên thế giới không thể bao chứa
được. Đảng ta cầm quyền theo nghĩa như thế, với phạm vi rộng như thế, được


khẳng định trong thực tế và được chế định ngay cả trong bản Hiến pháp, thể hiện
thành quả của cách mạng nước ta trong suốt bao nhiêu năm qua, thể hiện sự phấn
đấu kiên cường, không mệt mỏi của Đảng. Đảng được các tổ chức trong hệ
thống chính trị và nhân dân giao cho trọng trách đó chứ không phải tự nhiên mà
có và cứ tự nhận mà được. Đại hội XI của Đảng đã vận dụng sáng tạo và phát
triển thêm một bước những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền. Có thể thấy sự phát triển đó
được thể hiện ở những nội dung rất cơ bản sau:
Thứ nhất, quyền mà Đảng “cầm” là được chế định bởi sự ủy thác của
nhân dân.
Vai trò cầm quyền của Đảng ta là kết quả tất yếu của cả quá trình phấn đấu
kiên cường, bền bỉ của Đảng cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, ấm no, hạnh
phúc của nhân dân. Trải qua bao nhiêu cam go, thử thách, nhân dân đã tin yêu
Đảng, trao cho Đảng vai trò dẫn đường sự phát triển của dân tộc. Và điều này
cũng đúng như sự khẳng định ngay từ đầu thời dựng Đảng, khi Đảng nêu mục
đích sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng là vì quyền lợi của Tổ quốc, của
nhân dân, ngoài ra Đảng không có mục đích gì khác. Chính vì vậy, Đảng ta
không những là Đảng của giai cấp công nhân mà đồng thời còn là Đảng của nhân
dân lao động và toàn dân tộc - đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và toàn dân tộc. Các đại hội gần đây của Đảng, trong đó có Đại hội
XI, đã trở lại khẳng định quan điểm này theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh nêu
trong Đại hội II của Đảng (2-1951). Nguồn gốc “cầm quyền” của Đảng ta là như
vậy. Đây là điểm đầu tiên, quan trọng nhất, trong cả lý luận và thực tiễn về Đảng
cầm quyền mà hiện nay cần chú ý. Luận cứ này dựa trên ba điểm: Theo đúng
quan điểm của Hồ Chí Minh, đúng thực tế của Việt Nam giai đoạn Đảng cầm

quyền và đây là niềm tự hào của những người cộng sản Việt Nam, khi Đảng còn
là đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc, và như thế
Đảng đã vươn lên trở thành dân tộc. Nhìn ra nhiều đảng cộng sản và đảng công


nhân, đảng cánh tả khác trong xã hội đương đại thì tình hình cũng tương tự, khi
xưng danh “đảng của ai” nêu trong cương lĩnh chính trị của mình, nhiều đảng
cũng không bó hẹp tự nhận chỉ là đảng của giai cấp công nhân, mà hơn nữa, mở
rộng ra là của nhân dân.
Các nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng được bổ
sung và phát triển trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Với những cơ sở nguyên tắc này trong thời kỳ Đảng cầm quyền, nếu
Đảng xa dân, dân xa Đảng thì Đảng sẽ bị mất hết sức sống nội tại. Chính vì thế,
một vấn đề cơ bản nhất trở thành tâm điểm sống còn của Đảng ta là Đảng phải
tuân thủ nguyên tắc gắn chặt với dân, quyền của Đảng được “cầm” luôn luôn
phải dựa trên sự ủy thác của chính nhân dân.
Thứ hai, Đảng phải luôn luôn nâng cao tầm trí tuệ của mình; kiên định,
kiên định hơn nữa; sáng tạo, sáng tạo hơn nữa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Chưa bao giờ công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta lại có sự đòi hỏi rất
cấp thiết của cả hai yếu tố đó. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh gọi đó là cuộc “chiến
đấu khổng lồ” “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới
mẻ, tốt tươi”. Đảng cầm quyền không được phép chệch hướng, nghĩa là không
được phép sai lầm về đường lối chính trị. Mà muốn thế, như Nghị quyết Đại hội
XI đã chỉ rõ: phải “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận
dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ
của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ
chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào” (3). Đảng luôn luôn
phải có tư tưởng đổi mới, kiên định đường lối đổi mới, luôn luôn tìm tòi, sáng

tạo, vì cuộc sống vô cùng phong phú, phát triển rất mau lẹ; điều đó không cho
phép Đảng giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên
tắc. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Đảng phải sống trong lòng thực tiễn,


tổng kết thực tiễn cả ở trong nước và ngoài nước, đứng trên tầm cao của nhận
thức lý luận - thực tiễn để tìm ra và vận dụng quy luật nhằm đưa dân tộc Việt
Nam chấn hưng trên con đường XHCN. Phải tránh bảo thủ, trì trệ, đồng thời phải
tránh hấp tấp, vội vàng trong xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng. Trong
đổi mới, vừa phải chú ý đến những vấn đề mới nảy sinh, kịp thời nghiên cứu,
tổng kết để mạnh dạn bổ sung, phát triển kịp thời cương lĩnh, đường lối, chủ
trương của Đảng, vừa phải cẩn trọng.
Bảo thủ, trì trệ, không chịu bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối, chủ
trương khi tình hình trong nước và quốc tế có sự biến chuyển, thay đổi là không
xứng đáng với một đảng tiên phong, một đảng năng động, sáng tạo, một chủ thể
khởi xướng đổi mới toàn diện đất nước. Nhưng, hấp tấp, vội vàng, không nghiêm
túc nghiên cứu, tổng kết mà đã sửa đổi đường lối, chủ trương, chính sách thì
nguy cơ chệch hướng XHCN sẽ trở thành hiện thực. Ở đây, việc “thiết kế” nội
dung đường lối có tầm quan trọng đặc biệt, vì “sai một ly đi một dặm”. Phải tính
toán cẩn trọng trên cơ sở nghiên cứu khoa học lý luận chính trị, quy tụ và phát
huy được trí tuệ của tập thể, phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kết hợp tính
khoa học với tình hình thực tế nhạy cảm của đất nước và của thế giới để đề ra
đường lối, chủ trương, quyết sách đúng đắn, phù hợp. Do vậy, việc phát triển
cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong giai đoạn cách
mạng mới thuộc về bản lĩnh chính trị, thuộc về nghệ thuật cầm quyền, lãnh đạo.
Thứ ba,Đảng cầm quyền phải trong sạch, vững mạnh để giữ vững và phát
huy vai trò của mình.
Vai trò cầm quyền của Đảng sẽ bị suy yếu và thậm chí bị mất đi nếu Đảng
bị thoái hóa, biến chất. Hồ Chí Minh đã cảnh báo rằng: một dân tộc, một đảng và
mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm

nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Do đó, Đảng phải thường xuyên
tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Sự cầm quyền của Đảng và việc Đảng


phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để bảo đảm sự trong sạch, vững
mạnh của Đảng đều là hai vế tất yếu như nhau trong lôgích phát triển nội tại của
một đảng chính trị như Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Hơn 81 năm đã qua, Đảng ta đã trưởng thành qua bao thử thách, đã đạt
được nhiều thành tựu rất quan trọng có ý nghĩa lịch sử, nhưng vẫn còn một số
hạn chế như Đại hội XI đã chỉ ra. Đáng chú ý nhất là, Đại hội XI có nêu lên mức
độ trầm trọng hơn và nhiều biểu hiện mới hơn về những tiêu cực trong Đảng so
với Đại hội X và các Đại hội trước đó đã nêu: “Tình trạng suy thoái về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và
tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa
được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân
hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều
ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn
định, phát triển của đất nước”(4). Với những mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn
và ngày càng có thêm những biểu hiện tiêu cực mới trong một Đảng cầm quyền
như vậylà sự báo động lớn cho sự tồn vong của chính bản thân sự cầm quyền của
Đảng.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền đối
với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Trước hết, khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng
lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước. Trong điều kiện mới, sự lãnh đạo của
Đảng quan trọng nhất là thông qua Nhà nước pháp quyền. Hai là, đổi mới phong
cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa
phương, cơ sở. Thực hiện tốt chế độ lãnh đạo tập thể đi đôi với phát huy tinh
thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người

đứng đầu. Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong
tổ chức và hoạt động của Mặt trận. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức


đảng, đảng viên, cấp ủy viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân. Bốn là, đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị
quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong Đảng, khắc phục
tình trạng rườm rà, bất hợp lý về thủ tục, giàm bớt giấy tờ, hội họp; sâu sát thực
tế cơ sở; nói đi đôi với làm.
Mọi sự tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đều dựa trên
nguyên tắc: Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, bằng thể chế hóa; bằng
hệ thống tổ chức; bằng sự hoạt động tích cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong
các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; bằng quản lý
công tác cán bộ; bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên;bằng sự kiểm tra
thường xuyên trong các tổ chức đó...
Quan niệm về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng như trên được
Đảng nêu ra từ lâu, đến Đại hội XI, một lần nữa được khẳng định lại. Có mấy
điểm cần lưu ý trong giai đoạn hiện nay:
- Quy định thật cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu trong
cơ quan, bộ máy Đảng, không để tình trạng vừa không thể hiện rõ vai trò của
mình, vừa thể hiện độc đoán, chuyên quyền. Có nhiều nơi, nhiều tình huống cần
có sự quyết đoán của người đứng đầu thì lại bị “trói” bởi cơ chế người đứng đầu
cũng chỉ một phiếu biểu quyết như những người khác. Ngược lại, bằng nhiều thủ
đoạn tinh vi, có nơi người đứng đầu tìm cách áp đặt ý kiến của mình trong sinh
hoạt Đảng, mà điều này chỉ lộ rõ sự nguy hiểm khi ý kiến đó là sai gây tác hại
lớn cho tổ chức Đảng, làm mất thanh danh của Đảng, làm giảm lòng tin của dân
đối với Đảng.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền có tính chất “động”, rất linh

hoạt, ngay cả ở mỗi cấp đều có sự linh hoạt khác nhau. Ở cấp cơ sở mà cực đoan,
máy móc khi có tình huống xảy ra mà cứ ngồi bàn với nhau việc đó thuộc về
“sân” của Đảng, việc kia thuộc về “sân” của chính quyền thì có khi công việc


không được giải quyết đúng đắn, kịp thời. Trong nhiều trường hợp, ở một số
địa phương, cơ sở thường có tâm lý muốn sử dụng con dấu của Đảng cho “oai”,
do đó mới dẫn đến tình trạng có không ít việc phải do chính quyềncấpcơ sở ký
ban hành để thực thi mới đúng thì việc đó lại được chuyển cho Đảng bộ cơ
sởgiải quyết. Thành ra, công việc của Đảng bộ cấp cơ sở có nhiều khi rất vụn
vặt, vừa không đúng tầm của một Đảng cầm quyền, vừa không đúng nguyên tắc
vận hành của một Nhà nước pháp quyền.


KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp tất yếu giữa
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Lịch sử 82 năm từ khi thành lập và 67 năm liên tục ở vị trí cầm quyền và
duy nhất cầm quyền, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
được khẳng định là “nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Nhận thức đúng đắn về năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam,
những điều kiện đảm bảo và những nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cầm quyền
của Đảng để từ đó có giải pháp nâng cao và tăng cường năng lực cầm quyền của
đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần phát triển lý luận về đảng cầm
quyền ở nước ta.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hội nhập quốc tế, Đảng ta phải không ngừng học hỏi công nghệ cầm quyền
của các đảng chính trị thành công trên thế giới, một trong số đó là Đảng Xã hội
Pháp. Nghiên cứu công nghệ cầm quyền của Đảng Xã hội Pháp nhằm rút ra
những bài học kinh nghiệm áp dụng cho Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá

trình dùng chính quyền để thực thi đường lối của mình, đồng thời lãnh đạo hệ
thống chính trị và toàn xã hội để Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Văn An – Lưu Văn Quảng (2014): Công nghệ chính trị, Hà
Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.172-173, 155, 255,
173.
3. Phạm Tất Thắng (27/11/2014): Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí cộng sản.
4. Mạch Quang Thắng (2011): Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền
trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị số 7.
5. Lý Tư Tư: Kinh nghiệm cầm quyền của Đảng Xã hội Pháp



×