Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tiểu luận môn kinh tế chính trị đề tài “quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong hệ thống phép biện chứng duy vật”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.1 KB, 24 trang )

1
TIỂU LUẬN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Đề tài: “Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập trong hệ thống phép biện chứng duy vật”.
MỞ ĐẦU
Cùng với xu thế của thời đại và thế giới thì việc chuyển sang nền kinh tế
thị trường của Việt Nam là tất yếu. Vào những năm 70, cuối những năm 80 của
thế kỷ XX, khi mà những khủng hoảng kinh tế trong hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa đã phát triển đến đỉnh điểm, Việt Nam cũng không nằm ngoài tình
trạng này. Trước tình hình này, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định chuyển nền
kinh tế đất nước từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, mà mốc đánh dấu là Đại hội Đảng VI (tháng 12 năm 1986).
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế phát triển nhất cho tới nay với rất
nhiều mặt ưu đIểm. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị
trường, nước ta không tránh khỏi những khó khăn. Theo quan điểm triết học duy
vật biện chứng thì bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng chứa đựng trong nó
những mâu thuẫn của các mặt đối lập. Điều này cũng đúng trong nền kinh tế thị
truờng ở Việt Nam hiện nay, trong lòng nó đang chứa đựng các mâu thuẫn.
Trong giai đoạn chuyển tiếp này, trước hết đó là mâu thuẫn của sự xuất hiện cơ
chế mới của nền kinh tế thị trường và cơ chế cũ trong nền kinh tế tập trung, quan
liêu, bao cấp; mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển với kiến trúc thượng tầng về
mặt chính trị, pháp lý, quan điểm, tư tưởng. Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự
phát triển kinh tế thị trường (theo chủ nghĩa tư bản) với định hướng xã hội chủ
nghĩa, mâu thuẫn giữa mặt tích cực và mặt tiêu cực của kinh tế thị trường…
Những mâu thuẫn này đang hiện diện và tác động mạnh mẽ tới quá trình
phát triển nền kinh tế đất nước. Việc nhận thức rõ vấn đề này và giải quyết
chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng để thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Việt
Nam hiện nay. Đây là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và bằng những kiến thức


thu được trong năm học vừa qua tôi chọn đề tài: “Quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập trong hệ thống phép biện chứng duy vật”.
2
NỘI DUNG CHÍNH
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Lịch sử những tư tưởng triết học chủ nghĩa duy vật trước Mác về
mâu thuẫn
Trải qua quá trình phát triển của những hình thái khác nhau và các quá
trình phát triển cao của các tư tưởng triết học nhân loại các quan niệm về mâu
thuẫn khác nhau cũng thay đổi. Mỗi thời đại, mỗi trường phái lại có những lý
giải khác nhau về mâu thuẫn, về các mặt đối lập, vì triết học luôn phát sinh từ
những bối cảnh lịch sử nhất định. Thứ nhất là triết học thời cổ đại mà điển hình
là ba nền triết học lớn đó là Trung Hoa, Hy Lạp và Ấn Độ.
Triết học Trung Hoa đã xuất hiện rất lâu vào cuối thế kỷ thứ II trước công
nguyên. Tuy nhiên, phải đến cuối thời Xuân thu - Chiến quốc, các hệ thống triết
học lớn của Trung Quốc mới xuất hiện. Những quan điểm biện chứng về mâu
thuẫn thời kỳ này xuất hiện tuy còn sơ khai. Ví dụ như trường phái Âm - Dương.
phái Âm - Dương nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng nhất tuyệt
đối cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Trái lại tất
cả bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập gọi là sự thống nhất Âm - Dương.
Quy luật nay thừa nhận mọi thực tại trên tinh thần biện chứng là trong cái mặt
đối lập kia - ít nhất cũng ở trạng thái tiềm năng sinh thành. Triết học ấn Độ thì
đưa ra phạm trù “vô ngả”, “vô thường” (của trương phái Phật Quốc). “Một tồn
tại” nào đó chẳng phải là nó mà là “tổng hợp”, “hội họp” của những cái không
phải là nó mà nhờ hội đủ nhân - duyên. Không có tồn tại nào độc lập tuyệt đối
với tồn tại khác Nhưng đã như vậy thì tất yếu phải đi đến một khẳng định về lẽ
vô thường. Vô thường là chẳng “thường hằng”, “thường hằng” là cái bất biến,
chẳng bất biến là biến động, biến tức là biến động. Có thể nói, cùng với sự phát
triển của các hình thức kinh tế - xã hội các tư tưởng về mâu thuẫn cũng ngày
càng rõ nét.

Hêraclit - nhà triết học lớn nhất của Hy Lạp cổ đại ở thời kỳ đầu của nó
thì phỏng đoán rằng: mâu thuẫn tồn tại trong mọi sự vật của thế giới. Theo ông,
3
các mặt đối lập gắn bó, quy định, ràng buộc với nhau. Heraclit còn khẳng định
vũ trụ là một thể thống nhất nhưng trong lòng nó luôn diễn ra các cuộc đấu tranh
của các lực lượng đối lập, nhờ vậy vũ trụ tồn tại và vận động. Vì thế đấu tranh là
“cha đẻ của tất cả, là ông hoàng của tất cả”.
Trải qua hơn một ngàn năm đêm dài trung cổ, nền triết học thời kỳ này
chủ yếu là triết học linh viện tập trung vào cái chung và cái riêng. Sang đến triết
học Tây Âu thời phục hưng và cận đại cùng với những thành tựu về khoa học tự
nhiên thì sự đấu tranh giữa triết học duy tâm và triết học duy vật cũng diễn ra
hết sức gay gắt. Nhưng các quan đIểm thời kỳ này vẫn rơi nhiều vào siêu hình,
máy móc. Tới triết học cổ điển Đức mới thực sự bao hàm những tư tưởng triết
học tiến bộ. Cách mạng và khoa học. Triết học cổ diển Đức đã đạt được trình độ
khái quát và tư duy trừu tượng rất cao với những hệ thống kết cấu chặt chẽ, thể
hiện một trình độ tư duy tài biện thâm cao vượt xa tính trực quan, siêu hình của
nền triết học Anh - Pháp ở thế kỷ XVII - XVIII, do vậy các tư tưởng triết học về
mâu thuẫn đã có những bước tiến đáng kể Đại biểu đặc trưng của triết học cổ
điển Đức là Hêghen.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn.
Mỗi sự vật hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được cấu
thành bởi các mặt đối lập, các thuộc tính, các khuynh hướng phát triển ngược
chiều nhau, đối lập nhau…
* Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Khái niệm mặt đối lập trong quy luật mâu thuẫn là sự khái quát các mặt,
các khuynh hướng, các thuộc tính trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên
sự vật, hiện tượng. Mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập. Nhưng không phải
hai mặt đối lập bất kỳ của một mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Chỉ
những mặt đối lập nào nằm trong một chỉnh thể có quan hệ khăng khít với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫm là một chỉnh thể,

trong đó các mặt đối lập vừa đấu tranh , vừa thống nhất với nhau.
Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập có quan hệ thống nhất với nhau.
Khái niệm “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là hai mặt đối lập
4
liên hệ với nhau, ràng buộc nhau, quy định nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền
đề tồn tại của mình. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật
thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt
đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật, hiện
tượng nào và ngược lại. Ví dụ: trong sinh vật hai mặt đối lập đồng hoá và dị hoá
thống nhất với nhau, nếu chỉ là một quá trình thì sinh vật sẽ bị chết. Trong xã
hội tư bản, giai cấp tư sản và giai cấp vô sản là hai mặt đối lập thống nhất với
nhau, nếu không có giai cấp vô sản với tư cách là giai cấp bán sức lao động cho
giai cấp tư sản, thì cũng không có giai cấp tư sản tồn tại với tư cách là một giai
cấp mua sức lao động của giai cấp vô sản để bóc lột giá trị thặng dư…
Tuy nhiên, khai niệm “thống nhất” này chỉ mang tính tương đối. Bản thân
nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối của nó.
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự
đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trọng cùng
một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên
nhau mà điều chỉnh chuyển hoá lẫn nhâu tạo thành động lực phát triển của bản
thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hoá, bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt
đối lập trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ví dụ: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuẩt trong xã hội có đối kháng
giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc
hậu kìm hãm nó diễn ra rất quyết liệt và gay gắt. Chỉ có thể thông qua các cuộc
cách mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết
mâu thuẫn một cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia thành nhiều giai đoạn. Thông
thường khi nó mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt
người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác

nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn. Chỉ những sự khác nhau nào cùng tồn tại
trong cùng một sự vật có liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau,
tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập đó mới hình
thành bước đầu của một mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn phát
5
triển đến xung đột gay gắt, nó biến thành độc lập. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới
hình thành. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập
cũ được thay thế bởi sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới
lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự
vật mới xuất hiện. Cứ như thế đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến
đổi không ngừng từ thấp đến cao. Chính vì vậy Lênin khẳng định: “Sự phát
triển là một cuộc đấu tranh của các mặt đối lập”.
Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập, Lênin chỉ ra rằng: “Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với
ý nghĩa là chính nó - nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta
nhận biết được sự vật, sự vật tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân
sự thống nhất chỉ là tạm thời. Đấu tranh của các mặt đối lập mới là tuyệt đối.
Nó diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả
trong trạng thái ổn định, cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất”. Lênin
viết: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt
đối lập là có điều kiên, tạm thời, thoáng qua trong tương đối. Sự đấu tranh của
các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối cũng như sự phát triển, sự vận
động tuyệt đối”.
* Chuyển hóa của các mặt đối lập.
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn tới sự
chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến
một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá,
bài trừ, phủ định lẫn nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập
thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội chuyển hoá của các mặt đối
lập diễn ra nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức của con người.

Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá của các mặt đối lập chỉ là sự hoán
đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá
theo hai phương thức:
+ Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập
kia nhưng ở một trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.
6
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến
đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới ở trình độ
cao hơn.
+ Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập đều chuyển hoá lẫn nhau để
tạo thành hai mặt đối lập hoàn toàn mới.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển hoá từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới thực, bất kỳ sự vật, hiện
tượng nào cũng chứa đựng trong nó những mặt những thuộc tính có khuynh
hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối
lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách
quan, phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật
mới hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau dể tạo
thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy các sự vật, hiên tượng trong thế giới khách
quan thường xuyên biến đổi và phát triển không ngừng. Vì vậy mâu thuẫn là
nguồn gốc và động lực phát triển của mọi quá trình phát triển.
2. TÍNH TẤT YẾU VÀ MÂU THUẪN BẢN CHẤT CỦA NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
2.1. Tính tất yếu của quá trĩnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam.
* Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quắ
trình phát triển nền kinh tế đất nước.

Như đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình
độ phát triển nhất của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát
triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa đã phát triển tới trình độ khá cao và phồn thịnh ở các nước tư bản phát
triển.
7
Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng.
Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất của nó
do chế độ sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất chi phối. Cùng với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng
bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, làm tăng thêm bất công
và bất ổn của xã hội, đào sâu thên hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo.
Chính vì thế mà, như C.Mác đã phân tích và dự báo, chủ nghĩa tư bản tất yếu
phải được thay thế bởi một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn,
nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản, mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự điều
chỉnh và tự thích nghi, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó, chủ nghĩa
tư bản không thể tự giải quyết được, có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu được
chừng nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại
đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hoá để chuyển sang
một giai đoạn hậu công nghiệp, theo xu hướng xã hội hoá. Đây là tất yếu khách
quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn
phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ
chức kinh tế muốn sớm khắc phục khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh
chóng xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất văn minh
hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Nhưng có lẽ, do nôn nóng, làm trái quy luật,
không năng động, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cục đã không
thành công. Liên Xô khắc phục sự nóng vội bằn cách đưa ra thực hiện “chính
sách kinh tế mới” (NEP) mà nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát triển
kinh tế hàng hoá, chấp nhận ở mức độ nhất định cơ chế thị trường Muốn thế,

Nga cần phải sử dụng quan hệ tiền tệ - hàng hoá và phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát triển
lực lượng sản xuất. Tuy chỉ mới thực hiện trong một thời gian ngắn nhưng NEP
đã đem lại những kế quả tích cực cho nước Nga: hồi phục và phát triển kinh tế
bị chiến tranh tàn phá, nhiều ngành kinh tế hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn.
8
Tiếc rằng, tư tuởng của V.I.Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội với chính sách
NEP đã không được tiếp tục thực hiện sau đó.
Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những khuyết tật của mô hình
kinh tế Xô Viết bộc lộ ra rất rõ cộng với sự yếu kém trong công tác lãnh đạo,
quản lý lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và các nước Đông Âu rơi vào tình trạng khủng hoảng trì trệ. Một số nhà lãnh
đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó muốn thay đổi tình hình
bằng công cuộc cải cách, cải tổ nhưng với một “tư duy” chính trị mới, họ đã mắc
sai lầm nghiêm trọng cực đoan, phiến diện đãn tới sự tan rã của Liên Xô và sự
sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, đã làm lộ rõ những khuyết tật của
mô hình kinh tế cứng nhắc, phi thị trường, mặc dù những khuyết tật đó không
phải là nguyên nhân tất yếu dẫn tới sự sụp đổ.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế kỹ thuật lạc hâu, trình độ xã hội còn
thấp, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, di lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng
của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng thiêng liêng
ngàn đời của nhân dân Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào?
Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Chúng
ta đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết, mô hình kinh tế kế hoạch
tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan
trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng
về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng
phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh
giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội
không tôn trong quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng

với thực tế ở Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng cộng sản
Việt Nam (tháng 12 năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước
nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội
đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa
9
xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hành hoá
và thị trường. Phê phán triệt để cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và khẳng
định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội VI là một mốc đánh dấu
bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
* Bản chất và những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không
phải kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, cũng không phải kinh tế
bao cấp quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp và cũng chưa hoàn toàn là
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ,bởi vì Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, vừa có vừa chưa có các yếu tố của chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự
tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực
của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy sức sản xuất, xã hội hoá lao động, cả
tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải,
góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân: đồng thời phải có
những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường.
Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở
quán triệt lý luận Mác - Lênin nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát

triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền với phát triển quan hệ sản xuất mới, tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong dó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo:
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc.
10
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà
nước, Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của kinh tế
nhà nước: đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng
sức sản xuất , phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị rường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua
phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển
văn hoá và giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực đất nước.
C.Mác khẳng định rằng: “… Sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá là
những hiện tượng thuộc về nhiều phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy
rằng quy mô và tầm quan trọng của chúng không giống nhau… Chúng ta hoàn
toàn chưa biết gì về những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất ấy
và chúng ta chưa thể nói gì về những phương thức sản xuất ấy, nếu chúng ta chỉ
có những phạm trù trừu tượng của lưu thông hàng hoá, những phạm trù chung
của tất cả các phương thức ấy”.

Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không
phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là
sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong
thời đại hiện nay. Đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật
phát triển của thời đại và sự khái quát đúc rút kinh nghiệm phát triển kinh tế thị
trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc
và Việt Nam, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng
11
bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu
kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường.
2.2. Những mâu thuẫn tồn tại trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam
*Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp, mâu thuẫn giữa hai lực lượng này
và những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học Mác-Lênin, theo đó lực
lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật,
lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là
yếu tố động, luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ
nhất định thì quan hệ sản xuất sẽ không còn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Để mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển, cần thay thế quan hệ sản xuất cũ băng quan hệ sản xuất mới phù hợp
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chính quan hệ sản
xuất tự phát triển để để phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đó là quy luật kinh tế chung
cho sự phát triển của xã hội.

Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản
xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết.
Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? Đó chính là các cuộc cách mạng xã hội, các
cuộc chuyển đổi kinh tế mà các cuộc chuỷên đổi kinh tế ở nước ta là một ví dụ.
Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, thể hiện tính chất cách
mạng của công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng nước ta
trở thành quốc gia công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
12
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là chủ trương, biện pháp vừa
mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước chính là nói đến nền sản xuất
tiên tiến và đó chính là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nói đến khoa
học, đến sự anh minh của trí tuệ là nói đến một phương thức tối ưu để thoát khỏi
tình trạng sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, tạo điều kiện và cơ sở vật chất - kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội được xây dựng và phát triển. Không thể ăn đói mặc
rách với cái cuốc trên vai cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết chủ nghĩa
xã hội, chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khẳng định cái mới, đúng đắn tự bản
thân nó đã bao gồm cả ý nghĩa phủ định, gạt bỏ cả quan niệm cũ sai lầm về điều
kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trước đây, chúng ta thiếu quan tâm
tới vai trò của trí tuệ, khoa học đến việc tạo lập cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội. Bằng chứng là một thời chúng ta coi trọng không đúng mức tầng
lớp trí thức và khoa học trong môi trường tương quan với đội ngũ những người
lao động khác. Do thế, hậu quả tất yếu xảy ra là khoa học ở nước ta chậm hoặc
không có điều kiện phát triển, đất nước không thoá khỏi nền sản xuất nhỏ, nông
nghiệp lạc hậu và cũng không thể nói tới công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
* Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trước đây và trong kinh tế thị
trường.
Trước đây, người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa
xã hội là: sở hữu chủ nghĩa xã hội tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân

và sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi
hoàn cảnh lịch sử khi tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng xã hội
chủ nghĩa. Sau khi giành được chính quyền giai cấp công nhân đứng trước hai
hình thức sở hữu tư nhân khác nhau: sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở hữu
tư nhân của những người sản xuất nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải
có thái độ giải quyết khác nhau. Đối vơí hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa bằng cách tước đoạt hoặc chuộc lại để đưa thẳng lên sở hữu toàn dân, còn
đối với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất nhỏ thì không thể
dùng những biện pháp như trên, mà pỉai kiên trì giáo dục, thuyết phục tổ chức
13
họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng việc hợp tác hoá hai
hình thức. Sở hữu đó là đặc thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công và
nông dân tập thể.
Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ chuyển sang kinh
tế thị trường ở Việt Nam.
Hơn 10 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá
các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện.
Thực tiễn đã cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao
gồm nhiều hình thức sở hữu, chứ không phải chỉ bao gồm hai hình thức sở hữu
là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể như quan niệm trước đây.
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng và phát triển bao gồm
nhiều hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước,
sở hữu cá thể và sở hữu hỗn hợp. Trong các hình thức sở hữu này, khái quát lại
chỉ có hai hình thức sở hữu đó là: công hữu và tư hữu, còn các hình thức sở hữu
khác chỉ là hình thức trung gian, quá độ hoặc hỗn hợp. Ở đây mỗi hình thức sở
hữu lại có nhiều hình thức biểu hiện về trình độ thể hiện khác nhau. Chúng được
hình thành trên cơ sở có cùng bản chất kinh tế và tuỳ theo trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất và năng lực quản lý.

Về sở hữu toàn dân:
Trước đây, người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở hữu nhà
nước. Nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên bao gồm nhiều hình thức sở
hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt liên kết và hỗ trợ các thành
phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho quốc tế dân sinh. Nhà nước
quản lý kinh tế với tư cách là cơ quan có quỳên lực đại diện cho lợi ích của nhân
dân và là đại diện đối với tài sản sở hữu toàn dân.
Ở nước ta hiện nay, như Hiến pháp và Luật đất đai quy định rõ: “Xét và
mặt kinh tế, đất đai là phương tiện tồn tại của cả một cộng đồng xã hội. Xét về
mặt xã hội, đất đai là nơi cư trú của một cộng đồng. Thế nhưng khi xét trên cả
14
hai phương diện có thể nói đất đai không thể là sở hữu của riêng ai. Tuy nhiên,
suy cho cùng, đất đai là tư liệu sản xuất, hay nói chính xác hơn đó là một bộ
phận quan trọng của sản xuất. Bởi thế, dù là đặc biệt thì trong nền kinh tế hàng
hoá, nó vẫn phải hoạt động theo quy luật của thị trường và chịu sự điều tiết của
quy luật đó. Việc đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước là người đại diện,
thống nhất quản lý không hề mâu thuẫn với việc trao quyền cho các hộ nông
dân, kể cả quyền chuyển nhượng , quyền sử dụng đất đai nếu biết giải quyết các
vấn đề sở hữu, biết tách quyền sở hữu với quyền sử dụng. Chẳng hạn như ruộng
đất vẫn thuộc quyền sở hữu toàn dân nhưngngười nông dân có quyền sử dụng ổn
định lâu dài thì có thể đem lại một sức bật cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất vừa tăng cường của nền kinh tế nói chung. Văn kiện đại hội VII của Đảng
ta đã chỉ rõ: “Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, đất được giao cho
người nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng luật pháp các vấn đề
về thừa kế, chuyển quyền sử dụng đất…” (Đảng cộng sản Việt Nam - Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốclần thứ VII - Nhà xuất bản sự thật - Hà Nội 1991).
Như vậy hình thức sở hữu toàn dân ở nước ta hiện nay đã được xác định theo
nội dung mới, có nhiều khả năng để thực sự trở thành động lực phát triển kinh
tế.
Về sở hữu nhà nước:

Trong thời kỳ bao cấp trước đây, không chỉ có nước ta mà còn ở các nước
khác trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thường đông nhất sở hữu nhà
nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà trong một thời gian khá dài,
người ta thường bỏ qua sở hữu nhà nước chỉ quan tâm đặc biệt tới sở hữu toàn
dân với chế độ công hữu dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Và cũng bởi sở hữu toàn dân gắn kết với khu vực kinh tế quốc doanh mà chúng
ta ra sức quốc doanh hoá nền kinh tế với niền tin cho rằng chỉ có như vậy mới có
chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Thực ra, với quan niệm đó, sở hữu toàn dân không
trở thành sở hữu của một chủ thể cụ thể nào cả.
Trong xã hội mà nhà nước còn tồn tại thì sở hữu toàn dân chưa có điều
kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu nhà
15
nước xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên
trong của sở hữu nhà nước ở nước ta có lẽ chủ yếu thể hiện ở quyền sở hữu đó, ở
khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp nhà nước.
Về sở hữu tập thể:
Ở nước ta trước đây, sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác
xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) với nội dung là cả
giá trị và giá trị sử dụng đều là của chung mà các xã viên là chủ sở hữu chính.
Vì vậy, với hình thức sở hữu này, quyền mua bán hoặcchuyển nhượng tư liệu
sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông hàng hoá ở nước ta đã diễn ra hêt
sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế, song đôi khi lại
có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự nhập nhằng giữa quyền sở hữu
nhà nước và sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát khỏi
tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay cần phải xác
định rõ quyền mua bán và chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể
sản xuất kinh doanh. Chỉ có như vậy, sở hữư tập thể mới có thể trở thành hình
thức sở hữu có hiệu quả.
Chúng ta biết, hợp tác xã không phải là hình thức riêng có đặc trưng cho
chủ nghĩa xã hội, nhưng nó là một hình thức sỏ hữu kinh tế tiến bộ trong thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng ta phải duy trì và phát triển hơn nữa
khi xây dựng chủ nghĩa xã hội như V.I.Lênin đã khẳng định: “Chế dộ của người
xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa".
Hợp tác xã là nhu cầu thiết thực của nền kinh tế hộ gia đình, của nền sản
xuất hàng hoá. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ
phát triển đến một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. Trong
đIều kiện của nề kinh tế hàng hoá các nhu cầu về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ
sản phẩm… đòi hỏi các hộ sản xuất phải liên kết với nhau mới có khả năng cạnh
tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết những người lao động lại với
nhau làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tế cho thấy, ở nước ta hiện nay
đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phá triển
của cơ chế thị trường “hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và
16
sự tham gia trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và cổ phần
đóng góp, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung” (Đảng cộng
sản Việt Nam - Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ VIII - Nhà xuất bản
chính trị quốc gia Hà Nội - 1996). Điều này cho thấy kết cấu bên trong của sở
hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với tình hình thực tiễn ở nước ta hiện nay.
* Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã
hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng
tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá. Con người phát triển cao về trí
tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là
động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta phải lấy con người làm điểm xuất phát.
Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ
giữa con người với con người đều thông qua thị trường, tức là thông qua việc
mua bán, trao đổi hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Trong kinh tế hàng hoá, quan

hệ hàng hoá tiền tệ phát triển, mở rộng bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa
phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Do nảy sinh và phát triển
trong một điều kiện lịch sử nhất định, kinh tế thị trường phản ánh đầy đủ trình
độ văn minh và phát triển là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế,
thúc đảy xã hội phát triển. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có những khuyết
đIểm của nó như cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn đến sự phá
sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ.
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng đổi mới ở nước ta
hiện nay, không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị
trường. Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển,
của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nền kinh tế nước ta đã tụt hậu rất xa so
với khu vực và thế giới. Trong tình hình đó thì kinh tế thị trường là nhân tố rất
17
quan trọng đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi khủng hoảngvà phát triển phục
hồi sản xuất, đẩy mạnh tốc độ phát triển, bắt kịp bước bước tiến của thời đại.
Trên cơ sở đó đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao,
những nhu cầu sinh hoạt vật chất cơ bản hàng ngày được đáp ứng đầy đủ và
nhanh chóng. Con người không thể có cơ thể khoẻ mạnh nếu thiếu ăn, thiếu
mặc, thiếu các điều kiện chăm sóc sức khoẻ hiện đại. Con người không thể có trí
tuệ minh mẫn, phát triển các điều kiện vật chất tiến hành các hoạt động học tập,
nghiên cứu khoa học không được đáp ứng. Việc xây dựng, củng cố hoàn thiện
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
cũng đồng nghĩa với việc tạo ra điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến
lược xây dựng con người cho thế kỷ XXI.
Trong năm qua, kinh tế thị trương ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng
rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm
năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn. Đây là những kết quả rất
đáng mừng, đáng được phát huy. Nó thể hiện sự phát hiện và vận dụng đúng đắn
các quy luật khách quan của xã hội. Quá trình biện chứng đi lên chủ nghĩa xã
hội từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội.

Bên cạnh đó, có một khía cạnh khác cần đề cập tới: kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn
lực con người mà còn tạo ra môi trường thuận lợi cho con người phát triển hoàn
toàn, toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự chạy đua,
cạnh tranh quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động, sáng tạo, linh
hoạt, có tác phong nhanh nhạy, có đầu óc phân tích, tổng hợp để thích nghi và
hành động có hiệu quả. Từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con
người góp phần làm giảm đi tính trì trệ và chậm chạp vốn có của người lao động
trong nền kinh tế lạc hậu từ ngàn đời con người Việt Nam. Kinh tế thị trường tạo
ra những điều kiện thích hợp cho con người mở rộng các quan hệ mua bán, giao
lưu, từ đó hình thành những chuẩn mực văn hoá, đạo đức theo tiêu chí của thị
trường như chữ tín trong chất lượng và giao dịch… Đây cũng là một hướng tốt
đẹp bù đắp những thiếu hụt trong hệ giải trí của con người Việt Nam.
18
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng không phải cứ xây dựng kinh tế thị trường
là những phẩm chất tốt đẹp tự nó hình thành cho con người. Có những lúc,
những nơi, kinh tế thị trường không những làm cho con người ta năng động hơn,
tốt đẹp hơn mà ngược lại, còn làm tha hoá bản chất con người biến con người
trở thành gã nô lệ sùng bái đồng tiền hoặc đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức
mạnh và lợi ích cá nhân, sẵn sàng chà đạp lê nhân phẩm, đạo đức, luân lý… Bên
cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường có nhiều khuyết tật, hạn chế
gây ra những tác động xấu.
Nhưng phân tích trên đây cho thấy, kinh tế thị trường là mục tiêu xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn ở
nước ta hiện nay.
Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị
trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu
tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện xây dựng, phát huy những
nguồn lực của con người, vừa tạo ra những độc tố huỷ hoại con người. Việc giải
quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản. Đối với nước ta,

mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người được giải
quýêt bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta xác định: "Sản xuất hàng hoá không đối lập
với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn
tại khách quan, cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã
hội đã được xây dựng". Như vậy, Đảng ta đã vạch rõ sự thống nhất giữa kinh tế
thị trường và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc áp dụng cơ chế thị
trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước, đồng
thời phải xác nhận đầy đủ quyền tự chủ của các đơn vị sản xuất khinh doanh.
Thực hiện tốt những vấn đề này sẽ phát huy được những tác động to lớn cũng
như ngăn ngừa những hạn chế, khắc phục được những tiêu cực, khiếm khuyết
của kinh tế thị trường. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục
vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động
văn hoá giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi
19
thường các giá trị nhân văn, phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo,
thẩm mỹ, các di sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc như nội dung của Nghị
quyết Trung ương V đã nêu. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để
tác động, góp phần giải quyết các mâu thuẫn đã nêu trên.
* Mâu thuẫn giữa cơ chế cũ và cơ chế mới.
Trải qua một thời gian dài nền kinh tế được điều khiển bằng cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế hoạt động theo mênh lệnh bắt buộc… đã tạo
ra một phong cách làm việc trì trệ , thiếu trách nhiệm , sản xuất đình đốn. Chính
vì vậy, khi chuyển sang nền kinh ttế thị trường, nền kinh tế mở đã khiến nền
kinh tế gặp nhiều khó khăn.
Các hoạt động kinh tế vẫn còn mang nặng tính tập trung quan liêu bao
cấp. Các hoạt động thông qua các cơ quan trung gian nhà nước vẫn còn đầy dẫy
những thủ tục phiền hà gây tốn thời gian vô ích, cán bộ quan liêu cửa quyền dẫn
đến hạn chế sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động của các cơ quan nhà nước
khi chuyển sang kinh tế thị trường không bắt kịp nhịp độ sản xuất do máy móc.

2.3. Thực trạng và phương hướng giải quyết những mâu thuẫn trong
nền kinh tế thị trường.
Theo quan điểm của Mác: các quy luật khách quan đều tồn tại và phát huy
tác dụng một cách khách quan và không phụ thuộc vào ý chí của con người. Vì
vậy, con người không thể sáng tạo thêm quy luật và con người cũng không có
khả năng thủ tiêu các quy luật khách quan. Vận dụng vào nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chúng ta một lần nữa khẳng định
những mâu thuẫn của nền kinh tế tồn tại một cách khách quan và tuân theo quy
luật của phép biện chứng duy vật. Do vậy, muốn giải quyết mâu thuẫn ở Việt
Nam hiện nay chúng ta phải dựa vào quy luật đấu tranh và thống nhất của các
mặt đối lập. Trong phạm vi bài tiểu luận, tôi xin mạn phép đưa ra hướng giải
quyết cụ thể cho một mâu thuẫn đó là: mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội.
Khi đề cập tới mâu thuẫn này chúng ta phải khẳng định đây là nội dung
chủ yếu của các học thuyết kinh tế, của các chiến lược, chính sách phát triển
20
kinh tế của các nước đang phát triển. Một mục tiêu chiến lược CNH-HĐH ở
nước ta là tăng trưởng kinh tế cao, liên tục, lâu dài, đi kèm với tiến bộ và công
bằng xã hội. Đại hội VIII đã chỉ rõ bài học cũng như phương hướng phát triển
lau dài “tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội”. Và giới nghiên cứu
nước ngoài tương đối thống nhất khẳng định phương hướng đó là ở giai đoạn
đầu của sự phát triển, đối với nước nông nghiệp đi theo con đường công nghiệp
hoá, điều cần thiết là gia tăng đáng kể về thu nhập do tăng trưởng kinh tế được
thúc đẩy bởi việc bộ phận lao động được thu hút vào một số nghành có năng
xuất lao động cao đi liền với sự giảm sút tỷ lệ thu nhập có 20, 40 hoặc 60% dân
số ở phía dưới . Vấn đề đặt ra gây nhiều tranh cãi là phải chăng sự bất bình đẳng
cùng với quá trình phát triển là không tránh khỏi, hay là một vấn đề lựa chọn
chính sách. Cần phải thấy trong luận điểm mới về bất bình đẳng nói riêng và
trong qua trình tăng trưởng kinh tế - bất bình đẳng rất phu thuộc vào mô hình
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia gồm những lực lượng thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế chi phối bất bình đẳng và cả chiến lược phát triển kinh tế của nước đó.
Ngày nay, trong giới nước ngoài cho rằng: “Không có mâu thuẫn”, giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Nhận thức này có tính tiến bộ bởi: ở nhiều
nước trong quá trình phát triển kinh tế của mình đạt được tăng trưởng kinh tế
cao và công bằng xã hội luôn luôn được cải thiên như: Đài Loan, Hàn Quốc, hay
như ở một số nước ASEAN sau này. Mặc dù vậy, còn nhiều nước đang phát
triển “loay hoay” giải quyết tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội hoặc chưa gắn
liền phảt triển kinh tế với công bằng xã hội. Hay cái gọi là tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội lại gắn liền với khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ. Ở các
nước tư bản thực chất là biểu hiện ra bên ngoài sự mất cân đối của các mục tiêu
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như cuộc khủng hoảng kinh tế thừa
khách quan nhất đó là hệ quả của việc tập trung quá mức tài sản, vốn liếng trong
tay một số người giữ vai trò làm “cung” cho nền kinh tế, trong khi người tiêu
dùng với quy mô thu nhập thấp hơn nhiều và với nhu cầu có khả năng thanh
toán còn hạn chế của họ - cái quyết định quy mô thực sự của thị trường đóng vai
21
trò là người thực hiện “cầu”. Mất cân bằng cung-cầu là không thể tránh khỏi và
đó là căn bệnh nan y của chủ nghĩa tư bản.
Thực tiễn khách quan khẳng định, với bề dày kinh nghiệm lãnh đạo cách
mạng hơn 70 năm, bản lĩnh chính trị vững vàng, nhân quan chính trị sâu sắc, sự
nhạy cảm trước thời cuộc, Đảng ta đã xác định hướng đi đúng đắn, tiến bộ và
cách mạng trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta trong thế
kỷ XXI và gắn liền tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Để thực hiện thành
công mục tiêu này, trước hết cần thấm nhuần quan điểm chỉ đạo bao chùm: kiên
định con đường phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây vừa là mục tiêu, vừa
là phương tiện để thực hiện gắn bó keo sơn giữa giai cấp công nhân, nông dân
và lực lượng tri thức. Nói khác đi, căn cứ liên kết giai cấp, tránh phân hoá giai
cấp là nội dung cốt lõi và tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội ở
Việt Nam. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội là thực

hiện liên tư tưởng chỉ đạo của quá trình chỉ đạo đổi mới ở nước ta được khởi
xướng tại Đại hội VI, liên tục khẳng định tại Đại hội VII, VIII. Đó là đổi mới
kinh tế là trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị. Từ quan điểm chỉ đạo của
nước ta là toàn diẹn, đồng bộ, cần tiếp tục đẩy nhanh quá trình hoàn thiện thể
chế phát triển ở nước ta, trong đó tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường đi đôi
nâng cao và tăng trưởng, nâng cao năng lực quản lý của bộ máy nhà nước là
then chốt . Việc hoạch định chính sách kinh tế - xã hội trong thực tiễn phải hợp
lý đó là: khi thực hiện phương hướng chính sách kinh tế và chính sách xã hội
hoà quỵên với nhau như là điều kiện quyết định để đảm bảo phát triển kinh tế
gắn liền với công bằng xã hội. Trên cơ sở lấy con người làm trọng tâm, không
ngừng phát huy, bồi dưỡng, nâng cao nguồn vốn con người; cân nhắc thực hiện
và hạn chế dần các chính sách kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trước mặt
nhưng không có hại cho công bằng xã hội về lâu dài. Sử dụng hợp lý chính sách
xã hội, căn cứ vào hoàn cảnh kinh tế - tài chính đất nước, phù hợp với truyền
thống nhân nghĩa, đạo lý tốt đẹp của dân tộc, tinh thần bao dung nhân ái của
22
nhân dân, của Chủ tịch Hồ Chí Minh; kiên quyết thực hiện các chính sách kinh
tế không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có hại cho công bằng xã hội.
23
KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường tuy mới hình thành ở nước ta nhưng bước đầu đã
vượt qua những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua do nên kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp để lại thu được những thành tựu đáng phấn khích
trong nền kinh tế. Tạo niền tin trong nhân dân vào sự nghiệp đổi mới, kiên định
đi theo con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực do nền kinht tế thị trường mang lại chúng ta
cũng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn vốn có của nó. Vì mới bước đầu hội
nhập với nền kinh tế thị trường, do vậy việc nhận thức các mặt đối lập, những
quy luật của nền kinh tế thị trường là hết sức cần thiết đối với chúng ta để có
những biện phấp cần thiết giải quyết những mâu thuẫn này góp phần đưa đất

nước phát triển hội nhập với các quốc gia phát triển trên thế giới, ổn định kinh
tế, xã hội tiến lên xã hội chủ nghĩa.

24

×