Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN môn kỹ NĂNG tư vấn PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.66 KB, 20 trang )

Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

TIỂU LUẬN MÔN KỸ NĂNG TƯ VẤN PHÁP LUẬT
MỤC LỤC

I. LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại kinh tế thị trường như hiện nay, các doanh nghiệp ngày càng mở
rộng việc thành lập với nhiều hình thức khác nhau với nhiều ngành nghề khác nhau thì
việc liên kết, hợp tác thậm chí cạnh tranh nhau đang càng này càng trở nên phổ biến.
Bên cạnh những hợp đồng hợp tác, những giao kết “ thuận buồm xuôi gió” thì vẫn tồn
tại nhiều mâu thuẫn, bất đồng thập chí vi phạm quyền lợi lẫn nhau giữa các doanh
nghiệp. Từ đó, gây nên thiệt hại cho các bên mà còn gây thiệt hai cho nền kinh tế thị
trường. Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến, và thường xuyên diễn ra
trong hoạt động của nền kinh tế thị trường.Do tính chất thường xuyên và hậu quả của
nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói
chung, pháp luật Việt Nam cũng luật sư đã sớm quan tâm nhất định đến hoạt động này,
cũng như các phương thức giải quyết nó thể hiện thông qua các quy định cụ thể trong
nhiều văn bản pháp luật.
Trọng tài thương mại là một trong những hình thức cơ bản để giải quyết tranh
chấp thương mại được quy định ở hầu hết các nước trên thế giới cũng như ở Việt
Nam .Khi phát sinh tranh chấp, doanh nghiệp lựa chọn hình thức trọng tài thương mại
sẽ rất có nhiều ưu điểm .Tuy nhiên, trọng tài thương mại vẫn là phương thức giải
quyết tranh chấp chưa được phổ biến hiện nay.Và đó cũng là môt trong những lý do
luât sư đang mở rộng tham gia vào hoạt động này .Bài tiểu luận dưới đây xin phép
được phân tích và giới thiệu rõ hơn về vấn đề “ các công việc của luật sư phải thực
hiện khi tham gia giải quyết bằng trọng tài thương mại”.
Page 1


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật


II. NHỮNG ĐỊNH CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm về trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến của các
nước trên thế giới, nhất là tạị các nước có nền kinh tế thị trường phát triển . Tại Việt
Nam tuy mới được hình thành nhưng trọng tài thương mại được khuyến khích sử dụng
môt loạt các luật như Luật Thương Mại, Luật Đầu Tư, Luật Doanh nghiệp, bộ luật
Hàng Hải…..Hiện nay, Việt Nam vẫn đang sử dụng luật Trọng tài thương mại 2010 là
văn bản quy định khác chi tiết về trọng tài, trình tự giải quyết bằng trọng tài.Theo đó
trọng tài thương mại là “ Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp
do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này” ( Khoản 1 điều 3
luật Trọng tài thương mại năm 2010”.
Cũng giống như các phương thức giải quyết chanh chấp khác, việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại cũng có một số nguyên tắc nhất định.Một trong
những nguyên tắc cơ bản của trọng tài đó chính là thẩm quyền được hình thành từ ý
chí của các bên tranh chấp.Ý chí đó thường được thỏa thuận bằng văn bản hay thỏa
thuận trọng tài. “Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết
bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh ”
( khoản 2 điều 3 luật trọng tài thương mại).
Thỏa thuận trọng tài là một thỏa thuận đặc biệt bởi nó quy định việc giải quyết
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bằng trọng tài mà thỏa thuận trọng tài được thỏa
thuận ngay trong chính hợp đồng đó.Thỏa thuận này trong hầu hết các trường hợp,
phải được lập bằng văn bản. Tuy nhiên, hình thức bằng văn bản có thể thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau, có thể được ký kết , trao đổi qua thư, telex, điện tín hay fax
trao đổi giữa hai bên , hay bất kỳ phương tiện nào khác mà chứng minh được sự tồn
tại của thỏa thuận đó.
2. Các hình thức trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc và trọng
tài thường trực.
2.1 Trọng tài vụ việc.


Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên thành lập để giải quyết vụ
tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xog vụ tranh
chấp.
Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc điểm dưới đây:
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự
chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp.

Page 2


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

Tính chất “ vụ việc’’ của hình thức trọng tài này thể hiện ở chỗ trọng tài chỉ được
thành lập theo thỏa thuận giữa các bên tranh chấp để giải quyết vụ tranh chấp cụ thể
giữa các bên. Hình thức trọng tài này chỉ tồn tại và hoạt động trong thời gian giải
quyết tranh chấp giữa các bên, khi giải quyết tranh chấp hoạt động trọng tài tự chấm
dứt.
Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực , không có bộ máy điều
hành . Trọng tài viên được các bên lựa chọn hoặc được chỉ định có thể là người có tên
trong hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào.
Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.
Trọng tài vụ việc chỉ được các bên thành lập khi phát sinh tranh chấp nên quy tắc
tố tụng để giải quyết tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng. Tuy nhiên, để
tránh lãng phí thời gian cũng như công sức vào xây dựng quy tắc tố tụng, các bên
tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một quy tắc tố tụng phổ biến nào , mà
thông thường là quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín ở trong nước và
quốc tế.
2.2 Trọng tài thường trực.

Ở các nước trên thế giới, trọng tài thường trực thường được tổ chức dưới những

hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các viện
trọng tài nhưng chủ yếu phổ biến dưới dạng các trung tâm trọng tài.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các trung
tâm trọng tài.Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư các pháp nhân, có con
dấu, có toài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định.
Đặc trưng có bản của hình thức trọng tài này như sau:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ
thống cơ quan nhà nước , thể hiện:
* Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sang kiến của các trọng tài viên
sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chứ không phải được thành
lập bởi nhà nước. Do đó, nó không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước
cũng như không lệ thuộc hệ thống cơ quan xét xử nhà nước.
* Hoạt động của trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không được
cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước.
* Trọng tài viên duy nhất hoặc được hội đồng trọng tài không nhân danh quyền
lực nhà nước mà nhân danh người thứ ba độc lập ra phán quyết.
Page 3


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

* Dù không được thành lập bởi nhà nước nhưng trung tâm trọng tài vẫn luôn đặt
dưới sự quản lý và hỗ trợ của nhà nước, thông qua các hoạt động như: ban hành các
văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của trung tâm
trọng tài, cấp, thay dổi , bổ sung và thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt
động của các trung tâm trọng tài, hỗ trợ trung tâm trọng tài trong việc hủy hoặc không
hủy quyết định trọng tài….
Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân , tồn tại độc lập với nhau.
Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới.
Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ

cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm.
* Ban điều hành gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng tài
và có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử.
* Các trọng tài viên trong danh sách trung tâm trọng tài có thể tham gia vào việc
giải quyêt trnh chấp khi được chọn hoặc chỉ định.
Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố
tụng riêng, thể hiện :
* Tùy theo khả năng chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên, mỗi trung tâm
trọng tài có quyền tự xác định về lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời có thể mỡ
rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động trên cơ sở sự chấp thuận của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền.
* Mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng
được xây dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm và không trái
với quy định của pháp luật về trọng tài thương mại. Khi giải quyết tranh chấp, hội
đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ quy tắc tố tụng này.
* Việc xây dựng quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài dựa trên cơ sở là
một số văn bản quy tắc trọng tài hay một số công ước quốc tế có liên quan cũng như
bản quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín.
Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng
tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải quyết tranh
chấp chỉ được giới hạn trong danh sách trọng tài viên của trung tâm. Vì vậy, hoạt động
xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài viên của chính trung
tâm .
3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại.

Page 4


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật


Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trung tâm trọng tài được quy định tại
Điều 4 Luật trọng tài thương mại:
“1. Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không
vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
2. Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp
luật.
3. Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có
trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
4. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
5. Phán quyết trọng tài là chung thẩm.”
Ta có thể phân tích các nguyên tắc ấy như sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết bằng trọng tài thương mại
khi có sự thỏa thuận sử dụng trọng tài của các bên hay còn gọi là nguyên tắc thỏa
thuận trọng tài đã được Pháp lệnh trọng tài 2003 ghi nhận tuy nhiên lại không được
thể hiện rõ trong Điều 4, Luật trọng tài thương mại 2010. Thỏa thuận trọng tài là thỏa
thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh
hoặc đã phát sinh trong thực tế hoạt động thương mại. Thỏa thuận trọng tài có thể là
một thỏa thuận riêng hay là thỏa thuận trong hợp đồng và phải được lập thành văn bản
và các hình thức văn bản thỏa thuận trọng tài được quy định tại Điều 16 Luật trọng tài
thương mại 2010. Các thỏa thuận trọng tài bị coi là vô hiệu khi thuộc các trường hợp
quy định tại Điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010. Đồng thời trọng tài viên phải tôn
trọng thỏa thuận của các bên nếu các thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái
đạo đức xã hội.
Thứ hai, nguyên tắc trọng tài viên độc lập,vô tư, khách quan và tuân theo quy
định pháp luật. Trọng tài viên phải có đủ các điều kiện nhất định để đảm bảo rằng họ
độc lập, vô tư, khách quan trong việc giải quyết tranh chấp. Tiêu chuẩn để trở thành
trọng tài viên được quy định tại Điều 20 Luật trọng tài thương mại.
Thứ ba, các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Có thể thấy
bình đẳn trước pháp luật chính là một nguyên tắc xuyên suốt tối quan trọng của hệ

thống pháp luật và trong trọng tài thương mại cũng vậy. Qua đó Hội đồng trọng tài có
trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đảm bảo
quyền lợi hợp pháp của các bên.
Thứ tư, trọng tài thương mại được xét xử kín, đây là một nguyên tắc đặc trưng
tạo ra nét khác biệt với việc xét xử tại tòa án, việc xét xử kín nhằm bảo vệ uy tín, các
bí mật kinh doanh và giữ hòa khí hòa khí giữa các bên.
Thứ năm, quyết định của trọng tài là chung thẩm, tức là quyết định của trọn tài
có giá trị pháp lí tương đươc với một bản án được tuyên bởi tòa và có tính cưỡng chế
tương tự. Bên cạnh đó trọng tài chỉ xét xử một lần chứ không xét xử nhiều cấp như tại
tòa án.
4. Ưu và nhược điểm của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Page 5


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

4.1 . Ưu điểm
Khác với phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, thương lượng, phương
thức trọng tài thương mại được pháp luật quy định về trình tự, thủ tục tiến hành giải
quyết tranh chấp thương mại tại Luật trọng tài thương mại năm 2010. Phương thức này
có những ưu điểm mà các bên cần quan tâm khi lựa chọn các phương thức giải quyết
tranh chấp. Đó là:
Thứ nhất, trọng tài thương mại tôn trọng tối đa ý chí tự do thỏa thuận của các
bên. Đây là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại không mang ý chí quyền
lực nhà nước (không nhân danh quyền lực nhà nước như phán quyết của tòa án) mà
chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự do lựa chọn của các bên. Điều này
được thể hiện ở quyền chọn Trọng tài viên của các bên. Các bên có thể chọn một Hội
đồng Trọng tài dựa trên trình độ, năng lực. Các bên tranh chấp có quyền lựa chọn trọng
tài viên để thành lập hội đồng trọng tài để giải quyết tranh chấp. Tuỳ theo hình thức
trọng tài mà các bên lựa chọn, các bên có thể lựa chọn trọng tài viên trong một trung

tâm trọng tài, trọng tài viên ở bất kì trung tâm trọng tài nào, hoặc người không có tên
trong danh sách trọng tài viên. Các bên tranh chấp còn có quyền lựa chọn địa điểm,
thời gian giải quyết. Đối với các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài các bên có thể lựa
chọn pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp và ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng
trọng tài.
Thứ hai, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thể hiện tính năng động,
linh hoạt và mềm dẻo cao hơn so với phương thức bằng Tòa án. Tòa án khi xét xử phải
tuân thủ một cách đầy đủ và nghiêm ngặt các quy định có tính chất quy trình, thủ tục,
trình tự được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và các văn bản hướng dẫn
liên quan. Với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục, thời gian,
địa điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng,
hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Đồng thời Hoạt động
xét xử của Trọng tài là liên tục vì Hội đồng Trọng tài xét xử vụ kiện là do các bên thỏa
thuận lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện, các trọng tài viên là người
theo vụ kiện từ đầu đến cuối, họ có điều kiện để nắm bắt và tìm hiểu thấu đáo các tình
tiết của vụ/việc. Chính điều này có lợi ngay cả khi các bên luôn hòa giải hoặc giải
quyết tranh chấp thông qua đàm phán, trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa
thuận,. Tức là trong suốt quá trình giải quyết vụ việc thỏa thuận về sự hòa giải của 2
bên luôn được lắng nghe và được tạo điều kiện thuận lợi nhất để hòa giải để tìm được
sự đồng thuận. Điều mà ít khi xảy ra trong tố tụng kinh tế diễn ra tại các phiên tòa xét
xử tranh chấp. Nếu như các bên hòa giải thành công đã đồng ý thì ra biên bản hòa giải
và công nhận biên bản.
Hoạt động xét xử của trọng tài là liên tục cũng có thể làm tiết kiệm thời gian và
tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp. Trong khi đó giải quyết tranh chấp
Page 6


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

bằng Tòa án thường rất khó đạt được điều này bởi Tòa án phải giải quyết nhiều tranh

chấp cùng một lúc, do đó tình trạng án tồn đọng là điều không thể tránh khỏi.
Thứ ba, đảm bảo giữ bí mật nội dung tranh chấp. Đó là do nguyên tắc giải quyết
tranh chấp giữa các doanh nghiệp của trọng tài là không công khai. Chính vì vậy sẽ
tránh cho các bên nguy cơ làm tổn thương đến mối quan hệ hợp tác làm ăn vốn có,
trong khi đó việc xét xử công khai tại Tòa án thường dễ làm cho các bên rơi vào thế
đối đầu nhau với kết cục là một bên được thừa nhận như một người chiến thắng, còn
bên kia thấy mình là một kẻ thua cuộc. Trong một vụ tranh chấp, dù là nguyên đơn hay
bị đơn, một khi đã ra toà thì uy tín của thương hiệu ít nhiều giảm sút nơi khách hàng.
Trong quá trình kinh doanh, bí quyết kinh doanh là yếu tố quan trọng nhất là những
lĩnh vực sở hữu trí tuệ, công nghệ cao, nếu giải quyết tại toà án sẽ có nguy cơ lộ bí mật.
Ảnh hưởng đó mờ nhạt hơn khi giải quyết bằng con đường trọng tài. Trong thời đại
Internet thì mọi thông tin đều có khả năng lan truyền rất nhanh và rất rộng vì thế giữ
vững uy tín và thương hiệu luôn luôn là phương châm phát triển bền vững của các
doanh nghiệp. Đây là đặc điểm khác biệt so với việc giải quyết tranh chấp tại toà án và
là ưu điểm nổi trội của phương thức trọng tài.
Bên cạnh đó việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối
hoà khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ
hợp tác kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện. Xét xử
bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của những bất đồng trên cơ sở
những câu hỏi gợi mở, sự hợp tác , thiện chí giữa các bên… Đó là những yếu tố tạo
điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau và
đặc biệt, sự tự nguyện thi hành quyết định trọng tài của một bên sẽ làm cho bên kia có
sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn trong tương lai.
Thứ tư, trọng tài viên có kiến thức chuyên môn cao. Các trọng tài viên thường là
người có nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong một số lĩnh vực cụ thể, như bảo hiểm,
tài chính, vận tải, xây dựng… Những tranh chấp chuyên ngành này đòi hỏi người phân
xử phải có kiến thức rộng và am hiểu trong lĩnh vực đó. Do vậy, việc giải quyết sẽ
được chính xác và khách quan hơn.
Luật TTTM cũng đã quy định rõ tiêu chuẩn trọng tài viên. Điều 20 Luật TTTM
có quy định rõ cá nhân có năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở lên và đã

qua thực tế công tác từ năm năm trở lên có thể là trọng tài viên. Đặc biệt, Luật dành
cho các Trung tâm trọng tài quyền được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối với các
Trọng tài viên trong danh sách của mình (khoản 3, Điều 20). Trong trường hợp đặc
biệt, các bên đương sự có thể lựa chọn dựa trên niềm tin của họ vào tính chuyên
nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó và trong trường hợp đó thì nhà
chuyên môn nào cũng có thể được các bên chọn làm Trọng tài cho vụ việc của họ
Page 7


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

(khoản 1, điểm c, Điều 20). Luật TTTM 2010 cũng không yêu cầu Trọng tài viên phải
có quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ
định làm trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín
nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường
hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời việc quy định những trọng tài viên phải đáp ứng
đầy đủ yêu cầu và năng lực chuyên môn sẽ đảm bảo cho việc giải quyết tranh chấp
nhanh chóng và đúng đắn.
Thứ năm, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một tổ chức phi
Chính phủ, nhưng được hỗ trợ, đảm bảo về pháp lý của toà án trên nhiều mặt như: Xác
định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài; giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài; xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; công nhận và thi hành
quyết định trọng tài. Nhằm giúp cho cơ chế tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả,
Luật TTTM 2010 cũng đã cho phép Hội đồng Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu
tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời (quy định tại Điều 47, 48,
49 và 50). Quy định này là sự tiếp thu những quy định mẫu của UNCITRAL được
thông qua 2006. Điều này cũng thể hiện sự tiếp thu và từng bước điều chỉnh của cơ
quan lập pháp Việt Nam để các quy định trọng tài thương mại Việt Nam hội nhập với
các thông lệ quốc tế.Bên cạnh đó, kết quả của việc giải quyết tranh chấp thương mại
theo phương thức trọng tài được đảm bảo bằng sự cưỡng chế từ phía cơ quan nhà nước

có thẩm quyền. Tại điều 66 của luật trọng tài thương mại 2010 quy định về quyền yêu
cầu thi hành phán quyết trọng tài :
“1. Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết
không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy
định tại Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm
đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài.
2. Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn
yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi
phán quyết được đăng ký theo quy định tại Điều 62 của Luật này.”
Với sự hỗ trợ từ phía cơ quan tư pháp, quyết định trọng tài được thi hành một
cách triệt để tạo điều kiện cho tranh chấp được giải quyết một cách dứt điểm, tránh tình
trạng một bên kéo dài thời gian thi hành án. Có thể nói, đây là ưu điểm nổi trội so với
hai phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thương lượng và hòa giải.
Thứ sáu, phán quyết trọng tài là phán quyết chung thẩm không thể bị kháng cáo,
kháng nghị theo bất cứ thủ tục nào, quy định này khác hẳn với việc giải quyết tại toà án
thông qua nhiều cấp xét xử. Quyết định trọng tài sẽ được thi hành nếu như quyết định
đó là hợp pháp (khi không có đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, hoặc hội đồng xét
Page 8


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

xử đã bác đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài) các bên phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn
thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Chính điều này tạo điều kiện cho tranh
chấp được giải quyết một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian cho doanh nghiệp.
Thứ bảy, phương thức giải quyết tranh chấp theo trọng tài thương mại được sự
thừa nhận của quốc tế. Trọng tài thương mại không đại diện cho quyền lực Nhà nước
nên rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp mà các bên có quốc tịch khác nhau (Toà
án nói là được độc lập nhưng cũng dễ bị chi phối bởi quyền lợi dân tộc, do đó các bên

tranh chấp có quốc tịch khác nhau thường không thích chọn toà án của nhau). Vì vậy,
họ thường thích chọn trọng tài, nhất là trọng tài của nước thứ ba để đảm bảo tính
khách quan trong việc giải quyết tranh chấp. Công ước New York 1958 về công nhận
và cho thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài đã quy định rằng các nước
thành viên của công ước này có nghĩa vụ công nhận và cho thi hành phán quyết của
trọng tài của nước bên kia cũng là thành viên.
4.2 Nhược điểm
Thứ nhất, hiệu lực thi hành của quyết định trọng tài thương mại mặc dù được sự
hỗ trợ từ phía cơ quan thi hành án cấp tỉnh nhưng nói chung vẫn còn thấp. Một trong
những lý do quan trọng khiến doanh nghiệp ít lựa chọn trọng tài để xử lý tranh chấp là
do hiệu quả thi hành án chưa cao, doanh nghiệp “hồ nghi” sức mạnh của phán quyết
trọng tài. Sự thành công của trọng tài phụ thuộc rất nhiều vào việc quyết định trọng tài
có được thi hành hay không. Khi các bên kinh doanh đã lựa chọn trọng tài để giải
quyết tranh chấp, điều mà họ hướng tới là sự đền bù về tiền bạc chứ không phải là một
tờ giấy ghi phán quyết không được thi hành. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là liệu yêu cầu thi
hành quyết định của trọng tài có tính khả thi hay không khi hiện nay khối lượng án
trọng thi hành án dân sự còn tồn rất lớn. Đây rõ ràng là quy định chưa thể thực hiện
được trong hoàn cảnh hiện tại. Cơ quan thi hành án chưa thể gánh vác thêm nhiệm vụ
mới khi công tác thi hành án vẫn đang là một vấn đề. Vì vậy quyền yêu cầu thi hành
quyết định của trọng tài trước mắt khó có thể được đảm bảo, bởi cơ quan thi hành án
còn nhiều hạn chế.
Pháp luật về trọng tài thương mại quy định cơ quan thi hành án có trách nhiệm
cưỡng chế việc thi hành, tuy nhiên với những phán quyết của toà án kinh tế đã là quá
tải đối với cơ quan thi hành án. Do vậy, đứng trước bản án của Toà kinh tế và quyết
định của trung tâm trọng tài, chắc chắn bản án, quyết định của toà án sẽ được thi hành
trước.
Thứ hai, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ không trực thuộc nhà
nước, họ hoạt động trên cơ sở lấy thu bù chi. Nguồn thu chủ yếu của các trung tâm
trọng tài là từ lệ phí giải quyết tranh chấp thương mại, do vậy chi phí cho một vụ việc
Page 9



Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

tranh chấp được giải quyết theo thủ tục tố tụng trọng tài thường cao và tốn kém hơn
phí tòa án. Theo Luật TTTM thí phí trọng tài được quy định tại Điều 43 bao gồm:
“a) Thù lao Trọng tài viên, chi phí đi lại và các chi phí khác cho Trọng tài viên;
b) Phí tham vấn chuyên gia và các trợ giúp khác theo yêu cầu của Hội đồng
trọng tài;
c) Phí hành chính;
của các

d) Phí chỉ định Trọng tài viên vụ việc của Trung tâm trọng tài theo yêu cầu
bên tranh chấp;
đ) Phí sử dụng các dịch vụ tiện ích khác được cung cấp bởi Trung tâm trọng

tài.”
Trong thực tiễn tình hình nước ta hiện nay, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh bằng trọng tài quá lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng
chi trả.
Thứ ba, Phán quyết của trọng tài, tuy là chung thẩm, nhưng bên bị đơn có thể yêu
cầu toà án xem xét lại. Như vậy, phán quyết của trọng tài nhiều lúc làm cho bên thắng
kiện không yên tâm. Mà lo ngại về việc nếu như phán quyết của Hội đồng trọng tài bị
hủy thì sẽ dẫn tới việc tranh chấp giữa các bên dường như “vẫn còn nguyên” và việc
giải quyết tranh chấp này sẽ lại phải bắt đầu lại từ đầu nếu họ muốn bảo vệ quyền lợi
của mình. Điều này sẽ làm mất không ít thời gian, chi phí… ảnh hưởng rất nhiều tới
công việc kinh doanh của doanh nghiệp.

III . LUẬT SƯ KHI THAM GIA GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG
TÀI THƯƠNG MẠI.

Khi tham gia giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại luật sư phải tham
gia các bước, cũng như phải có sự chuẩn bị kỹ lương như sau:
3.1

Khởi kiện vụ việc.
3.1.1 Kiểm tra thỏa thuận trọng tài .

Việc kiểm tra thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tư vấn
lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng, nếu các bên đã có thỏa thuận
trọng tài thì vụ việc sẽ không được tòa án thụ lý giải quyết, trừ trường hợp thỏa thuận
trọng tài bị vô hiệu hoặc không thể thực hiện được.Thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu là
thỏa thuận bị rơi vào các trường hợp được quy định tại điều 18 Luật trọng tài thương
mại ( có hiệu lực từ ngày 1.1.2011). Theo đó luật sư cần đặc biệt chú ý kiểm tra xem
Page 10


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

tranh chấp hợp đồng giữa các bên có thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài hay
không.
Luật sư cần lưu ý theo quy định của luật Trọng tài thương mại, thẩm quyền
của trọng tài thương mại hiện nay đã được mở rộng hơn so với quy định của pháp lệnh
Trọng tài thương mại trước đây. Điều 2 luật Trọng tài thương mại quy định trọng tài có
thẩm quyền giải quyết cả những tranh chấp phát sinh giữ các bên trong đó ít nhất một
bên có hoạt động thương mại.Trước đây trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các bên là cá nhân,
tổ chức kinh doanh. Như vậy, phạm vi thẩm quyền của trọng tài được mở rộng hơn
nhiều so với trước đây.
Bên cạnh đó luật sư cũng cần phải kiểm tra người ký thảo thuận trọng tài có
là đại diện hợp pháp của các bên hay không, và hình thức của thỏa thuận trọng tài có

phù hợp quy định của điều 16 luật Trọng tài thương mại hay không. Thỏa thuận trọng
tài có thể được biểu hiện ở nhiều hình thức khác nhau, có thể là hình thức điều khoản
trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng nhưng phải được thể
hiện bằng văn bản như công văn trao đổi giữa hai bên, bằng telegram, fax, telex, thư
điện tử , thỏa thuận của luật sư, công chứng viên ghi chép lại, chứng từ, các tài liệu
tương tự khác, trao đổi qua văn bản về đơn kiện và bản tự bảo vệ do một bên đưa ra và
bên kia không phủ nhận.
3.1.2

Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.

Hồ sơ khởi kiện ra trọng tài phải có đơn kiện và các tài liệu kèm theo gồm:
Đơn khởi kiện và thỏa thuận trọng tài, bản chính hoặc bản sao các tài liệu có liên
quan. Đơn kiện phải có nội dung sau:







Ngày, tháng , năm làm đơn khởi kiện
Tên, địa chỉ của các bên; tên, địa chỉ của người làm chứng ( nếu có)
Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp
Cơ sở và chứng cứ khởi kiện, nếu có
Các yêu cầu cụ thể của nguyên đơn và giá trị vụ tranh chấp
Tên, địa chỉ người được nguyên đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề
nghị chỉ định Trọng tài viên.
Nếu các bên không có thỏa thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của trung
tâm trọng tài mà các bên lựa chọn không có quy định khác, trong thời

gian 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, các tài liệu kèm theo
và chứng từ nộp tạm ứng phí trọng tài, Trung tâm trọng tài sẽ gửi cho bị
đơn bản sao đơn khởi kiện của nguyên đơn và thỏa thuận trọng tài, bản
chính hoặc bản sao các tài liệu liên quan.

Page 11


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

3.2. Tham gia quá trình giải quyết tranh chấp.
Khi tham gia quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, luật sư cần
lưu ý về phương thức gửi các thông báo trong tố tụng trọng tài. Cụ thể, nếu các bên
không có thỏa thuận nào khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không quy
định khác, cách thức và trình tự gửi thông báo trong tố tụng trọng tài được quy định
như sau:
Các bản giải trình, văn thư giao dịch và tài liệu khác của mỗi bên phải
được gửi tới Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài với số bản đủ
để mỗi thành viên của Hội đồng trọng tài có một bản, bên kia một bản và
một bản lưu tại Trung tâm trọng tài.
• Các thông báo, tài liệu mà trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài
gửi cho các bên được gửi đến địa chỉ của các bên hoặc gửi cho đại diện
của các bên theo đúng địa chỉ do các bên thông báo.
• Các thông báo, tài liệu có thể được trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng
trọng tài gửi bằng phương thức giao trực tiếp, thư đảm bảo, thư thường,
fax, telex, telegram, thư điện tử …


Bên cạnh đó luật sư cũng cần đặc biệt lưu ý khi phát hiện các bên vi phạm thỏa
thuận trọng tài và pháp luật về trọng tài, thì cần phản đối những vi phạm này trong

thời hạn, nếu không phản đối mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài thì mất quyền
phản đối tại trọng tài hoặc tòa án.
Khi luật sư của bị đơn, cần lưu ý đến việc soạn thảo bản tự bảo vệ để bảo vệ
quyền lợi cho bị đơn, và khác với tố tụng tòa án, bản tự bảo vệ này phải gửi tới Trung
tâm trọng tài trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và các tài
liệu kèm theo, nếu các bên không có thỏa thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung
tâm trọng tài không có quy định thời hạn khác, bản tự bảo vệ bao gồm:





Ngày, tháng, năm làm bản tự bảo vệ
Tên, địa chỉ của bị đơn
Cơ sở và chứng cứ tự bảo vệ, nếu có.
Tên và địa chỉ của người được bị đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề
nghị chỉ định Trọng tài viên.

Cùng với việc gửi bản tự bảo vệ, bị đơn còn có quyền kiện lại nguyên đơn về
những vấn đề có liên quan đến vụ tranh chấp. Đơn kiện lại của bị đơn phải được gửi
cho trung tâm trọng tài. Trong trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài
vụ việc, đơn kiện lại phải gửi cho Hội đồng trọng tài và nguyên đơn. Trong thời hạn
30 ngày, kể tử ngày nhận được đơn kiện lại, nguyên đơn phải gửi bản tự bảo vệ cho
Trung tâm trọng tài.Trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc,
nguyên đơn phải gửi bản tự bảo vệ cho Hội đồng trọng tài và bị đơn.
Page 12


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật


Trước khi Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài, các bên có quyền rút đơn
khởi kiện, đơn kiện lại. Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có thể sửa đổi, bổ
sung đơn khởi kiện, đơn kiện lại hoặc bản tự bảo vệ. Tuy nhiên, luật sư cần lưu ý tư
vấn cho các bên không lạm dụng việc sửa đổi, bổ sung nhằm kéo dài thời gian giải
quyết tranh chấp, Hôi đồng trọng tài có quyền không chấp nhận các sửa đổi, bổ sung
này.
3.3. Các công việc sau phiên sử trọng tài
Sau phiên sử trọng tài, nếu một trong các bên có căn cứ để cho rằng phán quyết
của trọng tài không khách quan, có dấu hiệu vi phạm thì trong thời hạn 30 ngày kể từ
ngày nhận được phán quyết trọng tài, luật sư có thể tư vấn cho một trong các bên làm
đơn gửi tòa án có thẩm quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài là có căn cứ và hợp pháp.
Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
Ngày, tháng , năm làm đơn
Tên, địa chỉ của bên có yêu cầu
Yêu cầu và căn cứ phán quyết trọng tài
Các giấy tờ kèm theo ( bản chính hoặc bản sao phán quyết trọng tài đã
được chứng thực hợp lệ; bản chính hoặc bản sao thỏa thuận trọng tài đã
được chứng thực hợp lệ).
• Các giấy tờ kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được dịch
ra bằng tiếng việt và bản dịch phải được chứng thực hợp lệ.





Trường hợp phán quyết trọng tài bị tòa án hủy, các bên có thể thỏa thuận lại để
đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Trọng tài hoặc một bên có quyền khởi kiện tại
Tòa án. Trường hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu không hủy phán quyết trọng tài thì

phán quyết trọng tài được thi hành. Để thực hiện việc thi hành phát quyết trọng tài,
luật sư có thể tư vấn cho các bên thực hiện thủ tục đăng ký phán quyết trọng tài nếu
việc giải quyết tranh chấp do Hội đồng trọng tài lâm thời giải quyết để thuận lợi hơn
cho việc thi hành án, tuy nhiên thủ tục đăng ký không phải là thủ tục bắt buộc. Luật sư
cần nắm vững các quy định của pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự để tư vấn cho
khách hàng việc thi hành án phán quyết trọng tài .
IV. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM.
Nhưng việc giải quyết tranh chấp thương mại lại không được các doanh nghiệp
quan tâm. Đánh giá một cách khách quan và khái quát thì trọng tài chưa thể hiện được
vai trò cuả mình với chức năng là một cơ quan tài phán có vai trò hỗ trợ đắc lực cho
Page 13


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp. Hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
đã xuất hiện từ rất lâu với đủ cả hình thức văn bản nghị định, pháp lệnh và luật điều
chỉnh. Như vậy trọng tài thương mại hoàn toàn không phải là điều mới mẻ, nhưng lại
vẫn còn quá lạ lẫm, mờ nhạt trên thị trường.
Trên thực tế, vẫn còn rất nhiều doanh nhân và doanh nghiệp chưa quan tâm đến cơ
chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài cũng như sự hiện hữu của các Trung tâm Trọng
tài thương mại. Nếu so sánh giữa ưu và nhược điểm thì việc giải quyết tranh chấp kinh tế
qua trọng tài là con đường tốt hơn đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến nay, số lượng
giải quyết tranh chấp qua trọng tài kinh tế hết sức nhỏ.
Ý thức về pháp luật của các doanh nghiệp và việc kinh doanh trong điều kiện cạnh
tranh khốc liệt làm cho các chủ thể trong quan hệ đều vi phạm hợp đồng. Trong một giao
dịch, bên này vi phạm việc này, bên kia sai việc khác; hoặc hôm nay, bên này sai, thì ngày
mai, bên kia sai; người ta tìm cách thương thuyết “tay đôi” để giải quyết ổn thoả, nhằm giữ
quan hệ làm ăn lâu dài. Vì lẽ đó, việc đưa nhau ra xử lý bằng trọng tài hoặc toà án các bên

đều không muốn. Theo số liệu của Phòng kinh tế thương mại Việt Nam, giải quyết tranh
chấp kinh tế qua toà án và trọng tài chỉ chiếm khoảng 90% số lượng các vụ tranh chấp
trong thực tế.
Nhiều doanh nghiệp, cá nhân không am hiểu những vấn đề liên quan đến tố tụng
thông qua con đường trọng tài thương mại. Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, ở nước ta có
trọng tài kinh tế nhà nước – cơ quan này quản lý hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể kinh tế
nhà nước. Nhưng việc đó đã bãi bỏ lâu. Từ đó, các doanh nghiệp và nhân dân chỉ quen
tranh chấp bằng con đường tố tụng tại toà kinh tế. Nghiên cứu cho thấy, hầu hết các hợp
đồng kinh tế chỉ có quy định hai biện pháp tranh chấp là tự thương lượng giải quyết, nếu
không giải quyết được thì đưa ra giải quyết tại toà án có thẩm quyền. Trong một ngàn hợp
đồng, chỉ có một vài hợp đồng chế định việc tranh chấp tại trọng tài kinh tế. Như vậy,
phương pháp tự xử và xử lý tranh chấp tại toà đã ăn sâu vào tiềm thức của các doanh
nghiệp.
Trọng tài kinh tế là tổ chức phi Chính phủ. Chúng ta sống trong hệ thống chính trị mà
người dân nghĩ rằng chỉ có các quyết định của Đảng và Nhà nước mới có hiệu lực và tính
khả thi. Với chiều dài của lịch sử, với thực tiễn cuộc sống đã làm cho dân ta nhận thức một
cách không đầy đủ về xã hội dân sự. Đây là nhận thức về bề nổi, nhưng lại ảnh hưởng
quan trọng đến hoạt động của tổ chức phi Chính phủ. Thực trạng này, phần lớn cũng do
các yếu tố pháp lý gây nên. Luật trọng tài vẫn còn có những hạn chế, làm giảm hiệu lực
hoạt động của các trung tâm trọng tài. Một phán quyết của trọng tài dù có chính xác đến
đâu cũng cần phải có một quyết định công nhận và cho thi hành của Toà án hoặc quyết
định của cơ quan thi hành án. Quy định này, làm tăng thêm tâm lý e ngại của các doanh
nghiệp khi sử dụng trọng tài để phân xử tranh chấp.
Page 14


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

Tồn tại trong bản thân của các trung tâm trọng tài. Thực tiễn là như vậy, nhưng mạng
lưới trọng tài của chúng ta lại quá thưa thớt. Đến thời điểm hiện nay, chúng ta chỉ có thể

đếm trên đầu ngón tay. Hoạt động của các trung tâm trọng tài chỉ dựa vào nguồn vốn tự có
của các nhà sáng lập, nguồn thu từ các vụ tranh chấp. Nhưng các vụ tranh chấp quá ít ỏi,
nguồn thu quá hạn hẹp, hạn chế khả năng phát triển công nghệ, mạng lưới, tuyên truyền,
đào tạo…
Tuy nhiên, sau thời gian thi hành luật Trọng tài thương mại , thì nhận thức của
các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp về vai trò, tính hiệu quả của hoạt động trọng tài đã
được nâng lên một bước mới trên tư duy mới, từ đó đã có sự chuyển biến cơ bản trong
hành động, sự quan tâm và hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức đối với tổ chức và hoạt
động trọng tài ở nước ta. Thể chế trọng tài ngày càng được cải thiện, đội ngũ trọng tài
viên ngày càng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, hoạt động trọng tài đã có
các bước khởi sắc, số lượng vụ, việc đã được giải quyết bằng trọng tài đang có xu
hướng tăng, loại tranh chấp được giải quyết bằng trung tâm trọng tài cũng đã đa dạng
hơn.
Tính đến ngày 31/7/2017 cả nước đã có 12 Trung tâm trọng tài với tổng số 350
trọng tài viên. Từ năm 2011 đến tháng 6/2015 các trung tâm trọng tài đã thụ lý 879 vụ
việc và ban hành 586 phán quyết trọng tài, trong đó 180 phán quyết đã được thi hành
xong với số tiền là 3.612.000 USD và 300 tỉ đồng. Với số lượng phán quyết được thi
hành tuy không phải là con số khả quan nhưng cũng đã ghi nhận sự hiện diện và có su
hướng đi lên của phương thức gaiir quyết trọng tài so với thời điểm luật trọng tài
thương mại chưa ra đời.
Với những số liệu còn khá khiêm tốn cũng phần nào thể hiện sự chưa hoàn toàn tin
tưởng vào tố tụng trọng tài của các doanh nghiệp hiện nay.
Thêm vào đó án phí xét xử tại tòa án được ấn định theo sẵn quy định của pháp luật và
thấp hơn rất nhiều so với chi phí phải trả để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài . Phí
trọng tài khác nhau tùy thuộc vào giá trị tranh chấp và do trung tâm trọng tài ấn định,
với biểu chi phí trọng tài của VIAC từ 16,5 triệu đồng đến hơn 3,6 tỷ đồng hiện này
nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không đáp ứng được sẽ chọn con đường giải quyết
tranh chấp bằng tòa án để giảm bớt chi phí.
V. NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
Một là, quy định rõ về phạm vi điều chỉnh của Luật Trọng tài nhằm tạo điều kiện

thuận lợi cho các bên tranh chấp và các chủ thể có liên quan xác định đúng thẩm
quyền của Trọng tài thương mại một cách thống nhất, tránh tình trạng có nhiều quan
điểm khác nhau về thẩm quyền trọng tài như hiện nay.
Page 15


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

Hai là, cần bổ sung quy định cụ thể về hòa giải trong thủ tục tố tụng trọng tài.
Trước hết nên quy định hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong tố tụng trọng tài. Trọng
tài chỉ đưa vụ tranh chấp ra giải quyết nếu các bên hòa giải không thành công. Quy
định này sẽ làm tăng thêm trách nhiệm của Trọng tài viên trong việc cho các bên tranh
chấp hoà giải với nhau trước khi đi vào giải quyết vụ tranh chấp. Quy định này cũng
không làm mất đi quyền tự định đoạt của đương sự vì quyền quyết định trong hòa giải
phụ thuộc hoàn toàn vào các bên. Nếu các bên hòa giải không thành, trọng tài vẫn có
thể đưa vụ việc ra giải quyết.
Ba là, nên bổ sung quy định về nội dung thỏa thuận trọng tài trong Luật Trọng tài
thương mại. Thực tế, có rất nhiều thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu, dẫn đến các bên
tranh chấp không thể lựa chọn trọng tài để giải quyết. Để khắc phục tình trạng này,
Luật Trọng tài thương mại cần có quy định cụ thể về nội dung của thỏa thuận trọng tài
như: Trung tâm trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp; ngôn ngữ sử dụng trong
tố tụng trọng tài; chi phí, lệ phí trọng tài; quy tắc tố tụng của trọng tài; cam kết thực
hiện quyết định của Trọng tài.
Bốn là, bổ sung quy định về điều kiện công nhận Trọng tài và tiêu chuẩn Trọng
tài viên. Sự thiếu sót các căn cứ pháp lý về tiêu chuẩn Trọng tài và điều kiện công
nhận Trọng tài viên là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng giải quyết
các vụ tranh chấp của Trọng tài chưa đạt hiệu quả. Điều này không những gây phiền
toái cho doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến uy tín của Trọng tài thương mại Việt
Nam trên trường quốc tế. Để nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm
quyền của Trọng tài, cần xây dựng các quy định pháp lý về điều kiện công nhận Trọng

tài viên một cách chặt chẽ để đảm bảo Trọng tài viên có đủ năng lực thực thi nhiệm
vụ.
Năm là, bổ sung quy định về thời gian tiến hành tố tụng trọng tài. Luật Trọng tài
thương mại có quy định về thời hạn thông báo đơn khởi kiện, thời hạn gửi bản tự bảo
vệ của bị đơn, thời hạn thành lập Hội đồng trọng tài, thời hạn bầu chủ tịch Hội đồng
trọng tài nhưng lại không quy định rõ về thời hạn giải quyết tranh chấp, nên trên thực
tế việc giải quyết vụ việc trong thời hạn bao lâu phụ thuộc hoàn toàn vào Trọng tài.
Bởi vậy, Luật cần quy định rõ về thời hạn giải quyết vụ tranh chấp từ khi Hội đồng
trọng tài được thành lập đến khi ra phán quyết trọng tài. Ví dụ như: Mỗi vụ kiện có
bao nhiêu phiên họp, mỗi phiên họp cách nhau bao lâu, phiên họp cuối của trọng tài
được tổ chức khi nào và cần phải thông báo công khai cho các bên tranh chấp biết về
phiên họp cuối.
Sáu là,cần có quy định rõ về “những hành vi được coi là bất lợi đến quá trình tố
tụng trọng tài” trong Luật Trọng tài thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Hội
đồng trọng tài thực hiện biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích của các bên.
Bảy là, để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tranh chấp thực hiện phán quyết
của Trọng tài, thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức trọng tài và phương thức giải
Page 16


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

quyết tranh chấp bằng trọng tài, tránh tình trạng hủy hoặc không công nhận phán
quyết trọng tài tùy tiện, làm mất lòng tin của doanh nghiệp vào các tổ chức trọng tài,
làm ảnh hưởng đến uy tín của Trọng tài Việt Nam trên trường quốc tế, cần bổ sung các
quy định trong kết quả giải quyết tranh chấp trong Luật Trọng tài thương mại. Kết quả
giải quyết tranh chấp cần ghi rõ quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, thời hạn
thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên… có như vậy các bên liên quan mới có thể
dễ dàng thực thi phán quyết của Trọng tài.

Tám là, các doanh nghiệp cần phải trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về
trọng tài thương mại. Khi ký kết hợp đồng cần lưu ý phải ghi rõ trung tâm trọng tài
nào sẽ xử lý khi tranh chấp xảy ra. Các thỏa thuận càng chi tiết càng tốt.
Chín là, pháp luật cần phải làm rõ, đầy đủ cả hình thức và nội dung của thoả thuận
trọng tài, bao quát hết các trường hợp thoả thuận của các bên về giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài. Bên cạnh đó xác định rõ một số vấn đề như nội dung tối thiểu của thoả
thuận trọng tài, các trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu, các thoả thuận trọng tài
không thể thực hiện được…Đồng thời pháp luật về trọng tài thương mại nên bổ sung
thêm các quy định về hiệu lực thoả thuận trọng tài cho rõ ràng hơn. Nhanh chóng giải
quyết các tranh chấp về thẩm quyền giữa Tòa án và trọng tài thương mại đặc biệt trong
việc hủy quyết định của trọng tài. Pháp luật về trọng tài cũng nên cho phép Hội đồng
trọng tài được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và trực tiếp yêu cầu cơ quan thi
hành án hỗ trợ thực hiện biện pháp này.
Mười là, để cơ chế trọng tài trở thành một thành tố không thể thiếu trong hoạt
động thương mại thời gian tới, các trung tâm trọng tài nói chung và VIAC nói riêng
vẫn cần phải liên tục khẳng định năng lực xét xử của mình. Các trung tâm trong tài
cần tiến tới không chỉ là chỗ dựa tin cậy của doanh nghiệp Việt Nam mà có thể còn là
sự lựa chọn của các doanh nghiệp nước ngoài trong các giao thương quốc tế.
Mười một là, cần có những biện pháp cụ thể nhằm tăng cường sự hỗ trợ của Cơ
quan thi hành án đối với thực thi quyết định của trọng tài thông qua việc quy định rõ
tiêu chí xác định cơ quan thi hành có liên quan. Giống với Tòa án, phán quyết trọng tài
là chung thẩm, có hiệu lực kể từ ngày công bố. Trong trường hợp các bên không tự
nguyện thi hành thì sự can thiệp và hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả của Cơ quan thi hành
án là một điều vô cùng quan trọng để bảo đảm hiệu lực của phán quyết của trọng tài
thương mại.
Mười hai là, Nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong việc tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về Trọng tài; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trọng tài; hướng dẫn việc đào
tạo, bồi dưỡng Trọng tài viên; tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp
luật về Trọng tài.
Mười ba là, hiện nay các cơ quan nhà nước vẫn can thiệp khá nhiều vào hoạt động

của các trung tâm trọng tài. Do đó cần có các giải pháp hạn chế sự quản lý, can thiệp
hành chính nhà nước vào hoạt động của trọng tài nhằm thực sự thừa nhận tính chất phi
chính phủ của trọng tài. Điều này sẽ khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông
Page 17


Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

qua hệ thống trọng tài, qua đó giảm tải công việc cho hệ thống Toà án qua đó đáp ứng
được nhu cầu của các doanh nghiệp trong tranh chấp kinh tế

KẾT LUẬN
Trọng tài thương mại là một trong bốn hình thức cơ bản để giải quyết tranh chấp
thương mại được quy định ở hầu hết các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Với
sự ra đời của luật trọng tài thương mại 2010, cùng với sự phân tích những ưu điểm nổi
bật và một số kiến nghị nêu trên chúng em hy vọng trong thời gian tới các doanh
nghiệp sẽ có cách nhìn nhận mới hơn về hình thức giải quyết tranh chấp thương mại
này, sẽ có nhiều doanh nghiệp tìm đến với các trung tâm trọng tài hơn nữa và đó cũng
chính là cơ hội để các luật sư tham gia hoạt động này nhiều hơn.
Bên cạnh đó, việc hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam cần phải
được tiến hành một cách đồng bộ, trên nhiều phương diện. Để đẩy mạnh và phát huy
hơn nữa ưu thế của trọng tài thương mại ở Việt Nam, đòi hỏi phải có sự quan tâm cũng
như nỗ lực của toàn Đảng, Nhà nước và các Bộ, ngành có liên quan, kết hợp với việc
trang bị kiến thức cơ bản cho các doanh nghiệp về trọng tài thương mại. Có như vậy,
hoạt động trọng tài của ta mới có thể phát triển một cách phù hợp với pháp luật và
thông lệ quốc tế, từ đó tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho các doanh nghiệp bước vào
sân chơi hội nhập.

Page 18



Tiểu luận môn Kỹ năng tư vấn pháp luật

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Trọng tài thương mại 2010.
2. Pháp lệnh trọng tài 2003.
3. Giáo trình Kỹ năng tư vấn Pháp luật của Học viện Tư pháp.

Page 19



×