Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Phân tích chứng minh sự cần thiết khách quan vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ. liên hệ việc vận dụng nguyên tắc trên ?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.03 KB, 8 trang )

Câu 2: Chu chuyển tư bản là gì? Muốn tăng thêm khối lượng giá trị thặng dư các nhà tư bản sử
dụng phương thức nào? Tại sao? Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
 Chu chuyển tư bản là sự tuần hoàn của tư bản xét trong một quá trình định kì đổi mới, diễn
ra liên tục và lặp đi lặp lại.
Chu chuyển tư bản phản ánh tốc độ vận động của tư bản.
 Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỉ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến đã
được sử dụng.
Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh qui mô bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản
càng phát triển thì khối lượng giá trị thặng dư càng tăng, vì trình độ bóc lột sức lao động càng lớn.
 Tăng khối lượng giá trị thặng dư tối đa là mục đích của nhà tư bản. Khái quát có hai phương
thức để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị
thặng dư tương đối.
• Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo
dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao
động,giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không
thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên khối lượng giá trị thặng dư
tăng lên.
Ví dụ: ngày lao động là 8h, thời gian lao động tất yếu là 4h, thời gian lao động thặng
dư là 4h, khi đó:
Nếu ngày lao động kéo dài thêm 2h, các yếu tố khác không đổi, khi đó:



Lấy ví dụ: bạn thuê nhân công để dệt 5kg vải, bạn trả cho họ 2K/ngày. Tuy nhiên nhân
công chỉ mất có 4h để dệt xong 5kg vải mà bạn thuê họ cả ngày, do vậy bạn cho họ
dệt tiếp 4h nữa (ngày làm 8 tiếng thôi theo luật lao động) như vậy là bạn chiếm dụng
4h lao động của nhân công -> giá trị thặng dư được tạo ra. Bạn không dừng lại mà
cho nhân công làm 16 tiếng/ngày vì bạn là nhà tư bản bóc lột sức lao động -> bạn
chiếm dụng 12h lao động của nhân công (thời gian lao động thặng dư). Giá trị thặng
dư tạo ra bằng cách kéo dài ngày lao động được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối - dễ


nhận biết và không khôn khéo.
Các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động bị giới hạn bởi
thể chất và tinh thần củ người lao động quyết định, cho nên, họ không thể tùy tiện
kéo dài quá mức ngày lao động => gặp những khó khăn nhất định ( sự phản kháng
của công nhân).
Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút
ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong nghành
sản xuất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian
lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động
vẫn như cũ.
Khi tăng thời gian lao động thặng dư lên và giảm thời gian lao động tất yếu xuống
trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi thì sẽ làm cho tỉ suất và khối lượng
giá trị thặng dư tăng lên.
ví dụ: độ dài ngày lao động vẫn không đổi là 8h nhưng thời gian lao động tất yếu
giảm xuống còn 3h, 5h còn lại dành cho thời gian lao động thặng dư. Khi đó:


Lấy ví dụ bạn thuê nhân công làm 8 tiếng/ngày theo đúng luật lao động. Nhân công
của bạn làm 8 tiếng ra 5kg vải, nhân công được trả lương đúng với SLĐ họ bỏ ra, bạn
chẳng thu đc lợi nhuận cho mình. Bạn chuyên môn hóa cho nhân công, 8 tiếng làm
được 10 kg vải, thời gian lao động xã hội cần thiết là 4 tiếng, 4 tiếng là thời gian lao
động thặng dư. Bạn mua thêm máy móc thiết bị, công nghiệp hóa, với 8 tiếng nhân
công tạo ra 40 kg vải, như vậy thời gian lao động xã hội cần thiết là 1 tiếng, và 7 tiếng
còn lại là thời gian lao động thặng dư tạo ra giá trị thặng dư tương đối cho bạn.
Còn nếu như mà công nghệ của bạn giúp sản xuất ra 60kg vải trong khi các nhà tư
bản khác chỉ có được 40kg vải thì lúc đó bạn sẽ đạt được giá trị thặng dư siêu ngạch.
 Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trên được các nhà tư bản sử dụng với nhau để
nâng cao trình độ bóc lột của công nhân làm thuê =>> giúp tăng thêm khối lượng giá trị
thặng dư trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản.
 Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao

động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
 Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay
 Đối với nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu hai phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư gợi mở phương thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều
kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cần tận dụng
triệt để các nguồn lực nhất là lao động vào sản xuất, kinh doanh,nhưng về cơ bản và lâu dài
cần phải coi trọng tăng nâng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nền kinh tế đất nước là con đường cơ bản để tăng nâng suất lao động xã hội, thúc đẩy
tăng trưởng và phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Cần phải nhận thức lại hàng hóa sức lao động không phải là phạm trù riêng có của CNTB và
phạm trù giá trị thặng dư xét về mặt định lượng cũng vậy, nó tồn tại như là một bước tiến
của xã hội mà ở đó nâng suất lao động vượt khỏi lao động tất yếu của họ. Nó là nguồn gốc
của tích lũy để mở rộng và hiện đại hóa sản xuất kinh doanh, là nguồn gốc của sự giầu có văn
minh. Chính nó đòi hỏi xã hội cần phải:
• Tìm mọi cách để tăng thời gian lao động thặng dư và nhất là tăng nâng suất của lao
động thặng dư
• Tuân thủ nguyên tắc bảo tồn vốn và nguyên tắc sinh lợi để một đồng vốn đầu tư sử
dụng được tăng thêm giá trị
• Xây dựng đồng bộ các loại thị trường, kể cả thị trường sức lao động
 Vấn đề đặt ra cho chúng ta là:
• Điều tiết một cách đúng đắn, đầy đủ, không để thất thoát phần giá trị thặng dư vào
ngân sách nhà nước.
• Nhà nước sử dụng giá trị thặng dư được điều tiết sao cho có lợi đối với việc thực
hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
• Nhà nước phải đẩy mạnh về thực lực kinh tế, năng lực quản lí và uy tín đối với xã
hội.
• Ngăn chặn được những thế lực làm sự vận động của nền kinh tế đi chệch khỏi quỹ
đạo XHCN.

Thực tế ở Việt Nam ta ( lợi thế và giải pháp):

 Tỉ lệ dân số nước ta tham gia lao động so với tiêu chuẩn quốc tế là rất cao. Mà yếu tố quan trọng
nhất và quyết định tới quá trình sản xuất giá trị thặng dư đó là lao động mà ở đây chủ yếu là con
người. Việt nam là nước có dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào. Nhưng tỉ lệ lao động có
chuyên môn thấp và chỉ tập trung chủ yếu ở các đô thị lớn, và thu nhập bình quân GDP thấp hơn
tiêu chuẩn một nước đang phát triển.... điều đó có nghĩa là giá lao động thấp =>> là một lợi thế.


 Những nghành công nghệ cao và nguồn nguyên liệu, linh kiện phải nhập nước ngoài thì nên
quy hoạch ở những vùng công nghệ tập trung vì những nghành này yêu cầu dịch vụ kĩ thuật,
cơ sở hạ tầng rất cao mà chỉ những khu công nghiệp tập trung mới có điều kiện đáp ứng.
 Những nghành nguồn nguyên liệu chủ yếu ở trong nước như: sản xuất xi măng và các vật liệu
xây dựng, sản xuất và chế biến nông sản thực phẩm, nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy
sản...cần phải quy hoạch nhà máy gắn với khu nguyên liệu để tạo ra thế mạnh về giảm chi
phí trong vận chuyển nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo gắn kết giữa nhà máy công
nghiệp chế biến với người sản xuất và cung cấp nguyên liệu.
 Những nghành sản xuất phục vụ tiêu dùng thường xuyên tại chỗ thì tổ chức sản xuất với quy
mô nhỏ, phân tán để đáp ứng tiêu dùng thông thường của người dân như chế biến thực
phẩm, sản xuất gạch ngói, sản xuất hàng đan lát, thương nghiệp bán lẻ, vận tải nhỏ.....
 Chú ý tới thế mạnh của các loại hình doanh nghiệp, ví dụ doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có ưu thế về vốn, kỹ thuật cần được quy hoạch phát triển
trong các nghành sản xuất và dịch vụ có yêu cầu kỹ thuật và chất lượng sản phẩm cao, ngược
lại doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ có ưu thế tận dụng nguyên liệu tại chỗ, giải quyết nhiều
việc làm cho lao động nông thôn thì quy hoạch rộng khắp ở các vùng, địa phương.
 Giải pháp về vốn
 Cần điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài cởi mở hơn để nâng cao khả năng thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.
 Hoàn thiện cơ chế huy động vốn cho đầu tư phát triển, tạo thị trường vốn lành mạnh đảm
bảo cung cấp vốn cho các doanh nghiệp vay hoạt động.
 Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả vốn đầu tư.
Đẩy mạnh hoạt xuất khẩu

 Có chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu, quản lí hàng xuất khẩu chặt chẽ nhưng
phải phù hợp cho doanh nhiệp hoạt động.



Thành tựu đạt được và những hạn chế trong việc
vận dụng quy luật sản xuất giá trị thặng dư vào nền
kinh tế Việt Nam

Chuyển nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn, hiện đại Dưới tác động của quy
luật giá trị thặng dư và các quy luật của nền kinh tế của sản xuất hàng hóa, chủ
nghĩa tư bản đã làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng của cải khổng lồ
hơn nhiều xã hội trước cộng lại. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng
con người khỏi xã hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự
cấp, chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghía, chuyển sản xuất
nhỏ lên sản xuất hiện đại.
Gần 20 năm phát triển (1990-2008) tốc độ tăng trưởng kinh tế của VN liên tục
giữ ở mức khá cao, tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 1990-2008 là
7,56%/năm. Tốc độ tăng kinh tế cao, trong khi tốc độ tăng dân số được kìm
hãm, đã dẫn đến mức thu nhập GDP bình quân trên đầu người mỗi năm một
tăng. Nếu năm 1990, GDP trên đầu người của VN chỉ khoảng trên 100 USD, thì
đến năm 2007, GDP/người đã đạt 835 USD, tăng trên 8 lần. Năm 2008, GDP
trên đầu người ước tính đạt khoảng 1.047 USD/người. Với mức thu nhập này,


VN lần đầu tiên thoát ra khỏi nhóm nước nghèo (nhóm nước có thu nhập thấp
nhất). Theo cách phân loại của Ngân hàng Thế giới
So với các nước trong khu vực, VN có mức tăng trưởng cao thứ ba, sau Trung
quốc và Ấn độ.



Hạn chế:

1. Vấn đề sử dụng nguồn vốn:
Hiện nay, trong lĩnh vực quản lý nguồn vốn đầu tư còn nhiều bất cập như:
không theo kịp đòi hỏi của thực tiễn đặt ra, lỏng lẻo trong khâu kiểm tra, giám
sát việc thực hiện nguồn vốn đầu tư, gây những hiện tượng lãng phi, tham
nhũng.
Tình trạng đầu tư dàn trải, kéo dài, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Công tác
giảm nghèo chưa thực sự bền vững... Số lượng văn bản vi phạm pháp luật được
ban hành quá nhiều, tính ổn định chưa cao, nhiều nội dung bị sửa đổi, bổ sung
nhiều lần hoặc thay thế, gây khó khăn trong triển khai thực hiện.
Bố trí vốn thiếu tập trung là điểm yếu lặp đi lặp lại, số dự án đầu tư mới cao hơn
số dự án kết thúc trong mỗi kỳ, vốn bình quân cho một dự án có xu hướng giảm,
nhiều bộ, ngành, địa phương không thực hiện đúng quy định về quản lý đầu tư.
Thất thoát lãng phí vẫn còn lớn. Qua thanh tra một số công trình trong các năm
2002-2003, tỷ lệ sai phạm tài chính là từ 13.6% đến 19% số vốn.
Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn chưa cao, nhất là vốn ngân sách. Vốn tín dụng
đầu tư phát triển, đầu tư của doanh nghiệp nhà nước cũng được đánh giá là kém
hiệu quả, tình trạng nợ quá hạn, nợ kéo dài, công tác quản lý sử dụng vốn còn
nhiều yếu kém, thể hiện cả ở phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ.
2. Áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất:
Chưa coi khoa học và công nghệ là giải pháp thúc đẩy hoạt động của ngành, địa
phương và doanh nghiệp; do vậy, chưa có sự quan tâm thoả đáng đối với hoạt
động này.
Chưa thực sự coi đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển.
Đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ chưa đến 'ngưỡng'.
Thiếu các cơ chế, chính sách hỗ trợ đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời
sống, đổi mới công nghệ.
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ kém hiệu quả không phát huy được

năng lực khoa học và công nghệ hiện có.
Khối doanh nghiệp nhà nước hoạt động ít hiệu quả, trình độ công nghệ, năng


lực cạnh tranh còn rất hạn chế; đối với nhiều doanh nghiệp, ứng dụng tiến bộ
khoa học và công nghệ chưa trở thành nhu cầu bức thiết để nâng cao năng lực
cạnh tranh. Doanh nghiệp khu vực tư nhân thì quá non yếu. Do vậy, đã không
tạo nên được yêu cầu đối với khu vực nghiên cứu để sáng tạo và phát triển công
nghệ. Các trường đại học trên địa bàn thực sự chưa vào cuộc để đóng vai trò là
'người cung cấp chính' trên thị trường khoa học và công nghệ của thành phố.
Thiếu chiến lược qui hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học và công
nghệ. Chưa có cơ chế, qui định về việc huy động, tập hợp lực lượng khoa học
và công nghệ trên địa bàn. Tinh thần cộng tác trong nghiên cứu khoa học và
công nghệ chưa cao.
Theo lý luận giá trị thặng dư của Mác, máy móc không tạo ra gia trị thặng dư,
nhưng nó tạo điều kiện để tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt của
hàng hoá thấp hơn giá trị của thị trường, nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên.
Ngày nay, việc ứng dụng khoa học – kỹ thuật đã trở thành một nhu cầu không
thể thiếu đối với nông nghiệp, đem lại gia trị kinh tế cao như sản xuất thu hoạch
bảo quản chế biến... Đối với công nghiệp, nhất là trong ngành công nghệ thông
tin, điện tử, viễn thông đa ứng dụng nhiều thanh tựu khoa học, kỹ thuật để hội
nhập ra thế giới..
3.Vấn đề bóc lột trong sản xuất và phân phối gia trị thặng dư ở nước ta:
Nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo
điều kiện cho nền kinh tế phát triển nhưng đồng thời cũng tạo ra sự chênh lệch
về thu nhập, mức sống ngày càng rõ nét hơn, trong đó phân hóa giàu nghèo
đang là một trong những vấn đề xã hội bức xúc hiện nay.
Nhóm có thu nhập cao là các giám đốc điều hành, trưởng đại diện, trưởng
phòng, cán bộ phụ trách kinh doanh… đang làm việc tại các doanh nghiệp có
vốn dầu tư nước ngoài, công ty liên doanh, các công ty hoạt động trong lĩnh vực

tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bác sĩ tại một số bệnh viện, phòng khám.
Ngược lại, nhóm có thu nhập thấp là công nhân lao động đang làm việc trong
các khu công nghiệp, doanh nghiệp nước ngoài.
Con số khảo sát lương bổng công nhân tại khu vực Á Châu được nêu ra tại cuộc
hội thảo nói trên cho thấy:
Chỉ được trả “với gần $49 USD/tháng, lương của người lao động Việt Nam chỉ
xếp trên Campuchia – với $47.36 USD/tháng”
Ngay nay sức cạnh tranh trên thị trường ngày càng lớn, để thành công trong
công việc kinh doanh, người chủ kinh doanh ngày nay không chỉ có đóng góp
tài sản, tiền vốn mà còn đóng góp sức lao động của mình vào quá trình sản xuất.
Sức lao động đó trực tiếp góp phần tạo ra giá trị thặng dư. Đồng thời còn tạo


mối quan hệ tinh thần giữa người lao động và cấp trên. Phân phối theo lao động
thì dựa trên nguyên tắc lao động ngang nhau thi hưởng ngang nhau, làm nhiều
hưởng nhiều, lam ít hưởng ít.


Một số giải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư nhằm phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay:

a. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tập trung đầu tư cho công nghiệp:
Cần phải chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu vốn đầu tư theo ngành theo hướng tăng đầu tư
cho ngành sản xuất vật chất. Vi chỉ có phát triển cong nghiệp, chung ta mới thực sự phat huy
được năng lực nội sinh. Tập trung đầu tư cho công nghiệp, với mục tiêu lấy đó làm đà để
phát triển các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, trong đó đặc biệt phải đầu tư cho
ngành công nghiệp chế biến, cần phải chú ý đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến nông –
lâm sản, nhằm nâng cao giá trị, khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông lâm sản trên thị
trường thế giới.
Cần gắn việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đảm bảo

sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện tự do di chuyển vốn giữa các
ngành kinh tế, nhưng đồng thời Nhà nước phải đóng vai điều tiết đầu tư bằng những chinh
sách kinh tế vĩ mô (như thuế, và những ưu đãi, khuyến khích đối với những ngành cần đầu
tư) nhằm đảm bảo việc chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư cũng như cơ cấu kinh tế theo định
hướng phát triển kinh tế - xã hội.
Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong tất cả các ngành, các lĩnh vực để đổi mới và
phát triển. Đảm bảo điều kiện cho mọi người sử dụng thông tin như một nguồn tài nguyên
quan trọng nhất để nâng cao tri thức và cải thiện chất lượng sống; phát huy tiềm năng con
trí tuệ của người Việt Nam, tạo phong cách làm việc trong nền kinh tế năng động. Có chính
sách, biện pháp khắc phục sự cách biệt về thông tin giữa các vùng, các đối tượng dân cư
.
b. . Khuyến khích và thu hút đầu tư:
Cải thiện môi trường kinh doanh trong nước. Thực hiện sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp
nhà nước và cac doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân, đặc biệt la trong lĩnh vực
vay vốn ở các ngân hàng. Tiếp tục tiến hành cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu các thủ
tục cho các doanh nghiệp.
Tăng cường khả năng đầu tư của cac doanh nghiệp trong nước. Xây dựng một hệ thống
thông tin về tinh hinh khoa học kỹ thuật của thế giới cho các doanh nghiệp. Tăng cường hoạt
động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp trong nước. Về thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, cần thông qua các hoạt động ngoại giao, thuyết phục các nước công
nhận rằng hiện nay Việt Nam đang thực hiện kinh tế thị trường, giới thiệu về môi trường
đầu tư tại Việt Nam, các chính sách ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài cho các doanh
nhiệp, doanh nhân nước ngoài, cũng như với kiều bao Việt Nam ở nước ngoài.
Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế, các hình thức đầu tư nước ngoài tham gia phát
triển đầu tư. Tháo gỡ các rào cản, tạo điều kiện cho mọi thành phần và chủ thể kinh tế tham
gia xây dựng, đầu tư và phát triển; khuyến khích cạnh tranh để giảm giá, nâng cao chất
lượng. Có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các doanh nghiệp kinh doanh nước ngoài và
trong nước ( không thu thuế doanh thu, thuế suất thu nhập công ty thấp nhất, cho vay với
lãi suất ưu đãi đặc biệt.... ).



c.

.Không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư:
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá hoạt động đầu tư. Khi
nói đến hiệu quả đầu tư là không chỉ nói đến hiệu quả kinh tế mà còn phải nói đến hiệu quả
xã hội (tức la việc đầu tư đó có thể thu hut được bao nhiêu lao động; ảnh hưởng đến môi
trường ở mức độ nào…).
Thực hiện quyền tự chủ trong kinh doanh của các thành phần kinh tế, tận dụng tính năng
động của các thành phần kinh tế tư nhân, phát triển sản xuất. Chủ đầu tư phải được độc lập
trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư và phương án đầu tư, tránh tình trạng đầu tư theo
phong trào.
Trong quá trinh sản xuất, doanh nghiệp phải chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hoá đáp ứng
nhu cầu thị trường, đồng thời phải sử dụng các phương thức có hiệu quả để ban hành,
nhằm thực hiện giá trị thặng dư. Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng khoa học kỹ thuật
tiên tiến, nhằm nâng cao năng suất lao động, thu giá trị thặng dư siêu ngạch.
Vi vậy, phải chú trọng nâng cao năng lực quản lý vốn đầu tư bằng cách: nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ về quản lý hoạt động đầu tư cho các cán bộ chuyên trách. Thường
xuyên kiểm tra trinh độ của các cán bộ này. Khi giải quyết bất kỳ một vấn đề gì của hoạt
động đầu tư, một mặt phải dựa trên ý kiến, nguyện vọng, lực lượng, tinh thần chủ động,
sáng tạo của các đối tượng bị quản lý , mặt khác phải có một trung tâm quản lý tập trung và
thống nhất với mức độ phù hợp, không quan liêu, có sự phân cấp trong việc quản lý hoạt
động vốn đầu tư.

d.

Nâng cao chất lượng nguồn lao động, phát triển thị trường lao động trong nước:
Phát triển thị trường lao động với tư cách là một yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình
sản xuất, theo đó cung về lao động phải đáp ứng cầu về lao động cho công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Cần phải chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, phù hợp với mục tiêu công nghiệp

hoá, hiện đại hoá hiện nay theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Tăng cả về số lượng và chất lượng của lao động trong ngành công nghiệp, giảm về số lượng
lao động trong ngành nông nghiệp. Phân bố cơ cấu lao động hợp lý giữa nông thôn và thành
thị. Khuyến khích xây dựng các khu công nghiệp, nhà máy ở các vùng nông thôn để thu hút
nguồn lao động làm việc tại địa phương, giảm bớt nguồn lao động quá tải ở thành thị.
Nâng cao chất lượng đao tạo nghề ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.
Cải cách phương pháp đao tạo, gắn việc dạy ly thuyết với thực hành, khuyến khích sinh viên
tham gia nghiên cứu khoa học. Nhằm tăng lao động lành nghề, lao động có tri thức để tiếp
nhận kỹ thuật, công nghệ mới. Tăng nhanh tỷ lệ lao động chất xám, lao động có kỹ thuật.
Thường xuyên đao tạo mới và đào tạo lại lao động, để đáp ứng nhu cầu trên thị trường sức
lao động, đồng thời phải đảm bảo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động. Khuyến
khích các doanh nghiệp phối hợp với nhà trường trong việc đào tạo. Đối với các doanh
nghiệp cần phải thực hiện nghiêm túc việc tổ chức khám chữa bệnh định kỳ cho công nhân,
đặc biệt là với những ngành nghề lao động trong môi trường độc hại.


Để phát triển thị trường sức lao động ở nước ta còn cần phải nhanh chóng cải cách chế độ
tiền lương, chế độ tiền lương mới cần phải có sự phân biệt đáng kể về thu nhập trên cơ sở
lấy hiệu quả lao động làm chính, phân biệt giữa người làm ít với người làm nhiều, giữa lao
động phức tạp với lao động giản đơn. Sự phan biệt này góp phần thúc đẩy quá trình tự nâng
cao chất lượng lao động đối với mỗi người lao động, khuyến khich người lao động ban sức
lao động của họ ở những nơi có mức tiền lương cao. Mặt khac vẫn phải duy trì những ưu đãi
xã hội và thực hiện tốt vấn đề bảo hiểm xã hội…
Đổi mới mạnh mẽ hệ thống quản lý giáo dục, tập trung vào vấn đề quản lý chất lượng. Xây
dựng hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo, tăng cường thanh tra kiểm tra, thay đổi cách tổ
chức thi cử, tuyển sinh (hiện nay chỉ nặng về kiến thức sách vở!), khắc phục tình trạng nặng
về quản lý đầu vào, nhẹ quản lý đầu ra; kiên quyết chống bệnh thành tích đang ngăn cản con
đường đi tới chất lượng.
e.


Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế và giữ vững định hướng XHCN:
Vai trò quản lý của Nhà nước là định hướng chiến lược phát triển, tạo môi trường cho sản
xuất kinh doanh, lo xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, sử dụng các công cụ
chính sách để hướng dẫn sản xuất, dùng công cụ luật pháp để hạn chế mặt trái của kinh tế
thị trường, kiểm soát và can thiệp vào kinh tế vĩ mô không để cho các lực lượng thuần túy
thị trường (nhất là về tài chính tiền tệ) lũng đoạn, làm rối loạn nền kinh tế. Nhà nước có
chính sách điều tiết thu nhập, thực hiện công bằng xã hội, hỗ trợ các "nhóm yếu thế", giữ
định hướng xã hội xã hội chủ nghĩa. Các cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh (giao
thông, năng lượng v.v…) cần có chính sách khuyến khích, thu hút kinh tế tư nhân tham gia
đầu tư họ tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư; giảm hẳn cách làm sử dụng vốn ngân sách
nhà nước giao cho doanh nghiệp nhà nước rất kém hiệu quả như lâu nay. Kể cả phát triển
các dịch vụ công (văn hoá, giáo dục, y tế....) cũng cần có chính sách khuyến khích tư nhân
đầu tư, thực hiện chủ trương xã hội hóa kết hợp với sự quản lý và đầu tư của nhà nước.
Hiện nay, nền kinh tế ở nước ta vẫn còn bóc lột ở mức độ nào đó với nhiều hình thức. Để
giảm sự tiêu cực đó, nhà nước cần thực hiện chế độ phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế; phải thực hiện tốt các chính sách xã hội như phúc lợi xã hội, các ưu đãi xã
hội, bảo hiểm xã hội…
Bên cạnh những ưu đãi đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nhân nước ngoài hiện
nay ở nước ta, cũng cần phải xây dựng hoàn chỉnh và thực hiện nghiêm túc hơn luật kinh
doanh đối với những doanh nhân này, tránh tình trạng coi thường pháp luật Việt Nam của
những người nay.
Trong các doanh nghiệp tư nhân cần phải tăng cường sự hoạt động của các tổ chức, đoàn
thể Đảng, Công đòan, đoàn thanh niên… để bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân. Đặc
biệt là đối với các doanh nghiệp liên doanh, hay các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước
ngoài, cần nâng cao năng lực hoạt động cũng như tư cách đạo đức của những người làm
công tác công đoàn.




×