Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Giới, hôn nhân và sinh sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.15 KB, 11 trang )

Giới, hôn nhân và sinh sản
Nhân học về giới là một môn học chuyên ngành của
nhân học. Ở Việt Nam, môn nhân học về giới được
giảng dạy tại trường Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn thuộc khối Đại học ốc gia.

theo các nhà nghiên cứu về giới, thì khái niệm giới có
những đặc điểm sau: + tính quan hệ. + tính thứ bậc tôn
ti. + tính lịch sử. + tính thiết chế. + bối cảnh cụ thể.
+quan hệ giới có tính cá nhân và cụ thể

1

1.2 Nam tính và nữ tính

Các khái niệm cơ bản

Nam tính (masculine) và nữ tính (feminine)là các khái
niệm chỉ tập hợp các phẩm chất, đặc điểm hoặc các vai
trò thường được coi là điển hình hoặc phù hợp với nam
Giới tính (sex) là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ, mang màu sắc giới (gender). Cụ thể:
và nữ về mặt sinh học, gen và các yếu tố di truyền khác.
Giới tính có các đặc điểm:
• Nam tính: Những người có đặc điểm hung

1.1

Giới và giới tính

hăng/hiếu chiến, duy lý, mạnh mẽ. thống trị, năng
nổ, vô tình, độc lập, cạnh tranh, tự quyết định và


ít bộc lộ tình cảm.

• Bị quy định hoàn toàn bởi gen cụ thể là hai cặp
nhiễm sắc thể XX và XY. Trong đó XX là nữ và
XY là nam.

• Nữ tính: Những người trực giác, tình cảm, yếu
đuối, dễ xúc động, phụ thuộc, dễ bị tổn thương,
dễ bảo/ngoan ngoãn, không cạnh tranh, mềm
yếu/nhân hậu và dễ bộc lộ tình cảm.

• Là yếu tố bẩm sinh, có ngay từ khi mới lọt lòng.
• Không phụ thuộc vào thời gian, không gian nào
cụ thể. Ở bất cứ nơi nòa trên thế giới, vào bất kì
giai đoạn lịch sử nào cũng đều giống nhau.

1.3 Bình đẳng và bất bình đẳng giới

• Là biểu hiện thể chất bên ngoài có thể quan sát
được.

Bình đẳng giới: Là sự thừa nhận và coi trọng như nhau
các đặc điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam
giới.

• Gắn chặt với chức năng sinh học, đặc biệt đối với
nữ là tái tạo con người và nuôi con.

Bất bình đẳng giới: Là sự phân biệt đối xử với nam, nữ
về vị thế, điều kiện và cơ hội bất lợi cho nam, nữ trong

việc thực hiện quyền con người, đóng góp và hưởng lợi
từ sự phát triển của gia đình, của đất nước.

• Biến đổi theo quy luật sinh học, không phụ thuộc
vào ý muốn của con người.

Giới (gender) là khía cạnh chỉ về sự kiến tạo xã hội về
Các tiêu chí nhận biết bất bình đẳng:
văn hóa đối với sự khác biệt giữa nam và nữ, nói cách
khác giới là khái niệm chỉ đặc trưng xã hội gán cho nam
• Điều kiện sống và thu nhập
và nữ. Giới có các đặc điểm:
• Địa vị và vai trò

• Một phần bị quy định bởi giới tính, qua ảnh hưởng
của 2 hoocmon Estrogen và Testosteron.

• Sự hưởng thụ vật chất, văn hóa, tinh thần
• Giáo dục và tri thức

• Không mang tính di truyền, bẩm sinh mà mang
tính tập nhiễm.

• ái độ và hành vi ứng xử

• Có tính biến thiên, có thể thay đổi bởi nhiều tác
động.

Mối quan hệ giữa giới và giai cấp, giới và chủng tộc là
mối quan hệ phức tạp và đan xen. Phụ nữ ở cùng giai

cáp, cùng chủng tộc và dân tộc thì không bình đẳng
với đàn ông. Trong khi đó, phụ nữ ở giai cấp, chủng tộc
được cho là giàu hơn, ưu thế hơn thì đàn ông ở vị trí
thấp hơn không bình đẳng với phụ nữ. VD

• Đa dạng, phong phú về nội dung, hình thức và tính
chất.
• Đặc điểm của giới
1


2

2

SIMONE DE BEAUVOIR VÀ CHỦ THUYẾT FEMINISM

“Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt Dưới sân quan cử ngỏng tính thứ hai được nhìn nhận như là kinh điển của chủ
đầu rồng”
nghĩa nữ quyền hiện đại. Bước vào thế kỷ XX, dường
Bất bình đẳng giới là sâu sắc nhất trong các loại bất như giới nữ đã được tự do hơn về mặt chính trị và tình
bình đẳng vì nó tồn tại ở trong xã hội và gia đình, xuất dục. Tuy nhiên, theo Beauvoir, những điều đó vẫn chưa
hiện sớm nhất nhưng được phát hiện muộn nhất. Nhìn đủ cho việc giải phóng hoàn toàn phụ nữ khỏi sự thống
chung trong gia đình, bất bình đẳng giới không dễ nhận trị dai dẳng của đàn ông cũng như của nền văn hóa phụ
biết bằng ngoài xã hội vì đã bị tình cảm che mất. Không hệ phương Tây, và về cơ bản họ vẫn chịu thiệt thòi và
những thế đấu tranh chống bất bình đẳng giới trong gia bị kiềm tỏa trong các mối liên hệ phụ thuộc ấy. Ý thức
được điều ấy, trong tác phẩm đồ sộ Giới tính thứ hai
đình không thể giải quyết bằng đấu tranh bạo lực hoặc
(gần 1.000 trang), Beauvoir đã cố gắng họa lên một bức
hòa đàm.

tranh khá hoàn chỉnh về đề tài phụ nữ với nhiều mảng
màu khác nhau như văn học, thần thoại, tôn giáo, sinh
học, phân tâm học, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
1.4 Các khái niệm khác
• an hệ giới: Là các mối quan hệ xã hội giữa phụ
nữ và nam giới, đặc biệt là cách thức phân chia
quyền lực giữa nam và nữ
• Vai trò giới: Là những hoạt động khác nhau mà xã
hội mong nuốn phụ nữ và nam giới thực hiện.
• Nhạy cảm giới: Là sự nhận thức đầy đủ và đúng
đắn về nhu cầu, vai trò và trách nhiệm khác nhau
của phụ nữ và nam giới.

Khi xem xét về lịch sử, Beauvoir đi đến kết luận, hầu
hết các xã hội trong lịch sử phương Tây từ cổ đại đến
hiện đại dưới sự chi phối của hệ thống phụ hệ nên đã
xem phụ nữ như là a nhân-Khách thể và đàn ông
như là Cái tôi-Chủ thể. eo cách đó, nhân loại được
xác định là đàn ông, là giống đực, còn phụ nữ thì luôn
được xác định trong sự lệ thuộc vào đàn ông. Và như
vậy, chỉ duy nhất đàn ông mới có tự do lựa chọn để xác
lập bản chất và tính chủ thể của mình, còn phụ nữ chỉ
là hệ quả của sự lựa chọn ấy.

Trong vấn đề tại sao phụ nữ lại bị xem là “a nhân”
(the Other), là kẻ bị đặt ra bên lề xã hội trong suốt chiều
• Trách nhiệm giới: Là việc nhận thức được các vấn dài của lịch sử, Beauvoir cho rằng cần phải “soi lại” một
đề giới, sự khác biệt giới và nguyên nhân của nó, cách nghiêm túc các quan điểm truyền thống về giới
từ đó đưa ra biện pháp tích cực nhằm giải quyết nữ. Mặc dù thừa nhận vai trò quan trọng của các yếu tố
và khắc phục mọi bất bình đẳng trên cơ sở giới.

sinh học trong đời sống, tuy nhiên Beauvoir kiên quyết
phản đối những kết luận về địa vị lệ thuộc của phụ nữ
• Phân công lao động trên cơ sở giới: Là sự phân từ góc nhìn quyết định luận sinh học. eo Beauvoir, về
công việc và trách nhiệm khác nhau giữa phụ nữ mặt sinh học, chức năng sinh sản là một trở ngại rất lớn
và nam giới
đối với người phụ nữ trên con đường vươn đến tự do.
Song điều đó không có nghĩa người ta có quyền định
nghĩa phụ nữ một đơn giản như là “một cái tử cung,
2 Simone de beauvoir và chủ thuyết một cái buồng trứng, một con cái"; rằng nhiệm vụ của
phụ nữ không là gì khác ngoài việc “suốt đời lo công
feminism
việc thai nghén”. Bởi lẽ phụ nữ có thể siêu vượt chức
năng sinh sản của họ để đạt được cuộc sống tự do.

2.1

Simone de Beauvoir – “Người ta không Beauvoir tỏ ra nghi ngờ quan điểm duy vật lịch sử cho
phải sinh ra là phụ nữ, mà trở thành rằng trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mọi thứ (bao gồm
phụ nữ”
cả tình trạng áp bức phụ nữ) đều nảy sinh từ các mối

quan hệ kinh tế và quyền lực của giai cấp lãnh đạo, và
chừng nào chưa tiến tới chủ nghĩa xã hội thì khi ấy địa
vị lệ thuộc của phụ nữ sẽ vẫn chưa bị xóa bỏ. Mặc dù là
một người ít nhiều có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa,
song Beauvoir nhận thấy rằng, hoàn cảnh của phụ nữ
Beauvoir (1908-1986) sinh ra ở Paris, là bạn đồng môn không phải là hệ quả của chế độ tư hữu và chủ nghĩa
của nhiều nhân vật nổi tiếng trong làng triết học Pháp tư bản, mà là do sự thống trị của nam giới đối với nữ
như Simone Someil, Maurice Merleau-Ponty, Claude giới.
Lévi-Strauss, và đặc biệt là Jean Paul Sartre – người bạn Một tư tưởng đáng chú ý khác của Beauvoir trong Giới

tâm giao suốt đời của bà. Không chỉ là nhà triết học, tính thứ hai đó là sự xem xét về thân phận của phụ nữ
Beauvoir cũng hoạt động trong lĩnh vực văn chương. trong nền văn hóa nam quyền phương Tây với tư cách
Suốt cả cuộc đời hoạt động sáng tạo của mình, Beauvoir là người vợ, người mẹ. Beauvoir cho rằng, do lệ thuộc về
đã để lại không ít tác phẩm có giá trị, trải rộng trên kinh tế và chức năng sinh sản nên phụ nữ không thể
nhiều lĩnh vực khác nhau, từ khảo luận triết học, tiểu phản đối uy quyền tuyệt đối của nam giới trong hôn
thuyết đến các bài báo, tiểu sử tự thuật, trong đó Giới
Nói đến chủ nghĩa nữ quyền Pháp, không thể không
nhắc đến nhà hiện tượng học, nhà triết học hiện sinh
Pháp Simone de Beauvoir. Bà được xem là “chị cả” của
chủ nghĩa nữ quyền Pháp.


2.2

Về chủ thuyết feminism

nhân. Mặc dù Beauvoir thừa nhận các hình thức hôn
nhân truyền thống chỉ tồn tại trong các thời kỳ quá độ,
song bà vẫn duy trì quan điểm rằng trong hầu hết các
thể chế hôn nhân, phụ nữ là kẻ lệ thuộc, thứ yếu và ký
sinh; rằng sự bình đẳng trong hôn nhân sẽ vẫn là ảo
tưởng chừng nào đàn ông vẫn nắm quyền chi phối về
kinh tế của gia đình. iên chức làm mẹ, theo Beauvoir,
đối với nhiều phụ nữ là hình thái cao nhất và hạnh phúc
nhất trong cuộc đời của họ. Bà nhận thấy, một số phụ
nữ đã quy toàn bộ cuộc đời của họ vào việc sinh đẻ, lấy
sinh đẻ làm mục đích vì họ quan niệm rằng sinh nhiều
con sẽ mang lại cho người phụ nữ sự sung túc và tự do.
eo Beauvoir, quan niệm như thế là rất ngớ ngẩn và
đầy ảo tưởng. Bà cho rằng, để trở thành người mẹ tốt,

người phụ nữ phải tạo ra được sự cân bằng giữa những
bận tâm trong cuộc sống và nhiệm vụ nuôi dưỡng con
cái. Vì thế, trong cách nhìn của Beauvoir, những người
phụ nữ đảm trách công việc ngoài xã hội tích cực nhất
cũng chính là những người mẹ tốt nhất. Đưa ra những
lập luận trên, có lẽ Beauvoir mong muốn người phụ nữ
ngày càng trở nên giống đàn ông hơn. Cách hiểu này
của Beauvoir về sau đã gây ra sự phản đối mạnh mẽ từ
phía các nhà nữ quyền hậu cấu trúc Pháp vốn đề cao sự
khác biệt hơn là tính đồng nhất. Nói đến Beauvoir và
tác phẩm Giới tính thứ hai, sẽ là thiếu sót nếu không
nhắc đến luận điểm nổi tiếng của bà: “Người ta không
sinh ra là phụ nữ, người ta trở thành phụ nữ”. Có lẽ đây
là luận điểm quan trọng nhất, cô đọng tất cả ý hướng
của Beauvoir khi viết Giới tính thứ hai. Đưa ra luận
điểm này, Beauvoir muốn khẳng định không tồn tại bất
cứ bản chất tự nhiên và bất biến nào quy định người
phụ nữ; rằng tất cả những trải nghiệm sống, tâm sinh
lý và khả năng của họ được hình thành trong hoàn cảnh
văn hóa xã hội; phụ nữ không phải là một thực thể tự
nhiên mà là một thực thể văn hóa. Đây là cơ sở để chủ
nghĩa nữ quyền hiện đại tiếp tục triển khai theo nhiều
khuynh hướng khác nhau.
Cố nhiên, không phải tất cả những vấn đề mà Beauvoir
đặt ra và giải quyết đều được các nhà nữ quyền đương
đại tán đồng. Song có thể nói, trong nhiều vấn đề,
Simone de Beauvoir vẫn còn có thể đối thoại với chúng
ta. Từ những đóng góp quan trọng ấy của Beauvoir đối
với sự phát triển của chủ nghĩa nữ quyền đương đại,
bà hoàn toàn xứng đáng được nhìn nhận như là “một

trong những nhà triết học nữ quyền nổi tiếng nhất thế
kỷ XX”.

2.2

Về chủ thuyết feminism

Chủ thuyết feminism là một phong trào xã hội mà mục
đích căn bản là sự bình đẳng giữa đàn bà và đàn ông.
Ở nhiều thời và nhiều nơi trong quá khứ, người ta từng
kiên quyết rằng đàn bà và đàn ông có những khả năng
tương tự nhau và đã cố gắng cải thiện địa vị xã hội của
tất cả đàn bà, cũng như các địa vị của những đàn ông.
Tuy nhiên, như một phong trào có tổ chức, chủ thuyết
feminism trỗi dậy trong thế kỉ mười chín ở châu Âu và

3
châu Mĩ để đáp ứng những bất bình đẳng lớn lao giữa
những vị thế pháp lí của những công dân nữ và nam ở
những xứ sở phương Tây đã công nghệ hoá.
• Lược sử về chủ thuyết feminism có tổ chức - đợt
sóng thứ nhất
Lí thuyết về sự bình đẳng mà những nhà nữ quyền
của thế kỉ mười chín đã sử dụng trong cuộc tranh đấu
của họ cho những quyền của đàn bà đã xuất phát từ
triết học chính trị tự do, vốn cho rằng tất cả đàn ông
phải bình đẳng trước luật pháp, rằng không ai nên có
những đặc quyền hoặc những quyền đặc biệt. Dĩ nhiên,
khi Hoa Kì của châu Mĩ được thành lập, quan niệm về
sự bình đẳng đó loại trừ những người đàn là nô lệ và

những đầy tớ nam theo khế ước, bởi vì họ không phải
là những công dân tự do, cũng như tất cả đàn bà, bất
kể vị thế xã hội của họ ra sao, bởi vì họ cũng không tự
do thực sự. Vị thế pháp lí của họ giống như vị thế pháp
lí của trẻ em – lệ thuộc kinh tế và vay mượn vị thế xã
hội từ cha hoặc chồng.
Mục đích của đợt sóng thứ nhất của chủ thuyết là đạt
được quyền bình đẳng về pháp lí cho đàn bà, đặc biệt
quyền bỏ phiếu, hay đầu phiếu. (Những nhà nữ quyền
thường được gọi là những người tranh đấu đầu phiếu/
suffragists). Ở Hoa Kì, đàn bà không được quyền bỏ
phiếu mãi tới năm 1919. Nhiều quốc gia ở châu Âu cũng
chỉ cho đàn bà quyền bỏ phiếu sau ế chiến I, để đền
đáp cho những nỗ lực của họ trong chiến tranh. Tuy
nhiên, đàn bà Pháp không được quyền đầu phiếu mãi
tới sau ế chiến II, khi tướng Charles de Gaulle biết
ơn đã cho họ quyền bỏ phiếu vì công sức của họ trong
cuộc chiến đấu ngầm chống lại ốc xã và chính phủ
hợp tác của nước Pháp bị chiếm đóng. Cách mạng Nga
trong đầu thế kỉ hai mươi [1917] đã cho đàn bà những
quyền bình đẳng, mặc dù những người Bolshevik phê
phán chủ nghĩa cá nhân của “nữ quyền tư sản”. Họ
nhấn mạnh về công cuộc trong kinh tế tập thể, với việc
chăm sóc bà mẹ trước khi sanh và việc chăm sóc trẻ
em được nhà nước cung cấp để cho đàn bà có thể vừa
làm công nhân vừa làm mẹ. yền đầu phiếu là mục
đích chính của sự giải phóng đàn bà trong đợt sóng thứ
nhất ở những xứ sở phương Tây, nhưng những quyền
liên quan tới tài sản, thu nhập, giáo dục cao đẳng – tới
cuối thế kỉ mười chín, nhiều quyền trong số đó đã được

trao – cho đàn bà một cơ may độc lập kinh tế. Những
quyền này thiết yếu cho việc nâng cao vị thế của đàn
bà đã kết hôn khỏi sự lệ thuộc giống như trẻ con vào
ông chồng, và cho những quả phụ và phụ nữ độc thân
cách sống tự lực nào đó thay vì như một người bà con
nghèo nàn trong căn hộ của cha hoặc anh em hoặc con
trai họ. Đàn bà được giải phóng trong nửa đầu thế kỉ
hai mươi bao gồm những cô gái đi làm ở xưởng máy
độc lập đã làm việc cả ngày và đi khiêu vũ ban đêm, và
đàn bà có học thuộc tầng lớp trung lưu và thượng lưu
đã có “những hôn nhân kiểu Boston” (là những đồng
cư cả đời nhưng không làm hôn thú).


4

2

SIMONE DE BEAUVOIR VÀ CHỦ THUYẾT FEMINISM

Có một nhánh khác của nữ quyền thế kỉ mười chín
không tập trung vào những quyền bình đẳng mà vào
quyền “sở hữu” thân thể của một đàn bà và quyền đặt
kế hoạch cho những lần thai nghén của chị. Cuộc tranh
đấu của những nhà nữ quyền thế kỉ hai mươi cũng gay
go tranh đấu trong những xứ sở phương Tây như cuộc
tranh đấu cho quyền đầu phiếu, cho những phương tiện
hợp pháp để ngừa thai mà đàn bà có thể kiểm soát. Đàn
bà không thể tự do để làm mẹ và vợ tốt, đặc biệt là khi
họ nghèo, khi họ có đứa con này đến đứa con khác.

Nhưng những bác sĩ bị cấm đặt cho đàn bà màng tránh
thai hoặc mũ ở xương chậu (những thứ đi trước của
vòng tránh thai và thuốc ngừa thai [tới những năm
1960 mới có]). Ở Hoa Kì, thậm chí gửi thông tin về
những hiểu biết này qua đường ranh tiểu bang là bất
hợp pháp. Việc đàn bà đã kết hôn sử dụng phổ biến
biện pháp ngừa thai đã gây lo sợ cho những người theo
truyền thống, vì họ thấy trong đó sự suy sụp của gia
đình. Những nhà nữ quyền lo sợ rằng đàn ông sẽ khai
thác tính dục những người đàn bà không kết hôn nếu
họ được bảo vệ không mang thai. Còn đối với chính
đàn bà, hậu quả tích cực của trận chiến dài lâu này cho
việc tránh thai do đàn bà kiểm soát được hợp pháp hoá
đã là sự tự do tính dục lớn hơn trước hôn nhân và việc
làm cha mẹ có kế hoạch sau hôn nhân.

sinh ra tạo vật này… cái được mô tả như nữ tính”.
["One is not born, but rather becomes, a woman…; it
is civilization as a whole that produces this creature…
which is described as feminine”.

Mặc dù cuốn Giới tính thứ hai được đọc một cách rộng
rãi, đợt sóng thứ hai không thành hình như một phong
trào chính trị có tổ chức mãi cho đến thập niên 1960, khi
những người trẻ tuổi công khai phê phán nhiều phương
diện của xã hội phương Tây. Tuy nhiên, quan điểm nữ
quyền về điều khiến đàn bà và đàn ông bất bình đẳng
ngày nay ít thống nhất so với trong nữ quyền đợt sóng
thứ nhất, và có vô vàn giải pháp cho bất bình đẳng
giới. Những tiếng nói dường như mang tính phân mảnh

nhiều hơn ở thế kỉ mười chín, nó là kết quả của một
sự hiểu biết sâu hơn về nguồn gốc của bất bình đẳng
giới. Nó cũng là hiệu ứng mâu thuẫn của sự thành công
không đều. Những nhà nữ quyền ngày nay là thành
viên của các tập đoàn, giới đại học, hoặc chính phủ,
là những luật sư hoặc bác sĩ hoặc nghệ sĩ và giới cầm
bút được tôn kính, nhận thức tốt về những hạn chế do
những địa vị của họ, vốn có những trần nhà bằng kiếng
(glass ceilings) và sự quấy rối tính dục. Nhưng quan
điểm của họ thì khác với quan điểm của những phê bình
nữ quyền chống cơ chế cấp tiến hơn, là những người tố
giác sự áp chế tính dục được định chế hoá và sự hạ giá
Như hiển nhiên ta thấy qua việc nhìn bao quát ngắn bao trùm về đàn bà.
gọn này, phong trào nữ quyền đợt sóng thứ nhất có Mặc dù phần lớn phong trào feminism của thế kỉ hai
nhiều dị biệt về lí thuyết và chính trị với phong trào mươi đã xảy ra trong những xứ sở công nghiệp hoá,
nữ quyền kế tục nó. Câu hỏi về những dị biệt giữa đàn nhưng vẫn có những cuộc tranh đấu thiết yếu và quan
ông với đàn bà, và vậy là họ có nên được đối xử bình
trọng về tài nguyên cho những cô gái và đàn bà ở những
đẳng (equally) vì họ là sự giống nhau hoặc công bằng xứ sở châu Phi và Nam và Trung Mĩ. Khi những xứ sở ở
(equitably) một cách thiết yếu vì họ dị biệt một cách
châu Phi, châu Á, và Trung và Nam Mĩ thoát ra khỏi sự
thiết yếu, hiện vẫn còn được tranh luận. Câu hỏi về nơi kiềm chế thực dân sau ế chiến II và thiết lập những
nào chính trị nữ quyền nên đặt sự nỗ lực nhất – bầu khí
chính phủ độc lập, họ, cũng, cho những công dân đàn
quyển công cộng (công việc và chính phủ) hoặc bầu khí bà của mình quyền bỏ phiếu. Nhờ các phong trào đàn
quyển riêng tư (gia đình và tính dục) – vẫn còn đặt ra
bà mạnh mẽ, nhiều trong những quốc gia mới đã viết ra
với chúng ta.
sự bình quyền cho đàn bà vào trong những hiến pháp
của họ, và một số nơi thậm chí còn đặt định sự đại diện

chính trị có bảo đảm. Rwanda, một nền dân chủ mới,
trong năm 2004 có 48,8% đàn bà trong hạ viện và 30%
Phong trào nữ quyền hiện hành được gọi là đợt sóng trong thượng viện. Tương phản lại, Hoa kì có 60 người
thứ hai. Là một phong trào hậu ế chiến II, nó bắt đầu đàn bà (14,5%) trong Viện Dân biểu và 14 người đàn bà
với sự xuất bản ở Pháp trong năm 1949 cuốn Giới tính (trong số 100 người) trong ượng nghị viện.
thứ hai (Le deuxième sexe/ e Second Sex) của Simone Ở mút kia của cán cân chính trị, trong những xứ sở
de Beauvoir. Kết toán bao trùm này về vị thế lịch sử và Hồi giáo, đàn bà tới nay vẫn không thể bỏ phiếu, vẫn
hiện hành của đàn bà trong ế giới phương Tây lập không được rời bỏ xứ sở nếu không có sự cho phép của
luận rằng đàn ông thiết lập những tiêu chuẩn và giá chồng, hoặc không được lái xe hơi. Ở Trung Đông, đàn
trị và rằng đàn bà là Kẻ Khác (a Nhân/ the Other), bà và đàn ông đã tranh đấu để hoà giải những quyền
là những người thiếu những phẩm chất mà những kẻ của đàn bà với những giáo luật truyền thống của Hồi
thống trị phô bày. Đàn ông là những kẻ hành động, đàn giáo và Do thái giáo. Ở châu Á, những vấn đề nghèo
bà là những kẻ phản ứng. Vì vậy đàn ông là giới tính thứ khó và quá đông dân, mặc dù chúng tác động hơn một
nhất, đàn bà luôn là giới tính thứ hai. De Beauvoir kiên cách trái ngược lên đàn bà và những cô gái, cần những
quyết rằng sự thống trị của đàn ông và sự tuân phục phương thuốc chữa trị tác động lên mọi người. Những
của đàn bà không phải là một hiện tượng sinh học mà phong trào chính trị của đàn bà trong những xứ sở này
là sự sáng tạo của xã hội:
hẳn không được gọi là “mang tính nữ quyền”, tuy vậy
“Người ta không sinh ra làm đàn bà mà đúng hơn trở chúng vẫn dựa trên cơ sở giới tính. Xa hơn dòng chủ
thành đàn bà…; chính toàn thể nền văn minh đã sản lưu là những chủ nghĩa nữ quyền thách thức “điều mọi
• Đợt sóng thứ hai của chủ thuyết feminism


5
người đều biết” về tính dục (sex), dục tính (sexuality),
và giới tính (gender) – sự song hành và đối nghịch của
nữ và nam, đồng tính và dị tính, đàn bà và đàn ông.
Chúng lập luận rằng có rất nhiều tính dục, dục tính
và giới tính, và nhiều cách để biểu lộ nam tính và nữ
tính. Một số trong những lí thuyết nữ quyền này bây

giờ đang được gọi là đợt sóng thứ bacủa nữ quyền. Nếu
những ý tưởng này dường như xa lắc hoặc lạ lẫm, hãy
nhớ rằng vào lúc khởi đầu của đợt sóng thứ hai, khi
những nhà nữ quyền sử dụng “anh hoặc chị” (he or
she) cho từ “anh” chủng loại (the generic “he”), “Ms.”
(cô hoặc bà) thay thế cho “Miss” (Cô) hoặc “Mrs.” (Bà),
và “những người làm việc toàn thời gian ở nhà” thay
cho “nội trợ”, họ bị gọi là những kẻ gây rối. ay đổi
xã hội sẽ không diễn ra nếu không có sự chạm trán,
và điều quan trọng là biết điều những nhà nữ quyền
đang lên tiếng mà không được nghe thấy trong những
phương tiện truyền thông đại chúng họ đang nói về bất
bình đẳng giới và nó có thể bị bài trừ như thế nào.

3

Từ WID đến GAD

khác nhau. Do đó, cần phải hệ thống và lý giải mối
quan hệ giữa phụ nữ và nam giới trong các bối cảnh xã
hội khác nhau và xây dựng các chiến lược thay đổi có
tính đến các mối quan hệ này. Phương pháp tiếp cận
Giới và Phát triển (GAD) mới đây thừa nhận rằng:
• Giới không phải là “vấn đề của phụ nữ" mà là vấn
đề về mối quan hệ
• Phụ nữ và nam giới có nhu cầu khác nhau và mang
đặc thù của giới
• Không thể cư xử với phụ nữ như nam giới
• Phụ nữ thường yếu thế hơn so với nam giới
• Bản chất của sự bất bình đẳng thường có tính hệ

thống và cơ cấu
• Những khác biệt về giới cũng có thể làm nam giới
bị yếu thế
Có rất nhiều tranh luận về sự khác nhau giữa phương
pháp WID và GAD, bao gồm cả những ý kiến ủng hộ
và phản đối. a phân tích, hai phương pháp này có
thể bổ sung cho nhau chứ không mâu thuẫn nhau. Các
cá nhân và tổ chức cần tránh sự nhầm lẫn về 2 phương
pháp này và cần xây dựng phương pháp tiếp cận kết
hợp các chiến lược tối ưu nhằm thực hiện bình đẳng
giới.

Phụ nữ trong Phát triển (Women in Development) là
một phương pháp tiếp cận xuất hiện từ những năm
1970 với mục đích đưa phụ nữ tham gia đầy đủ hơn
vào quá trình phát triển. Phương pháp này bao gồm các
biện pháp xây dựng các dự án dành riêng cho phụ nữ,
các dự án tín dụng và đào tạo cho phụ nữ. Phương pháp
tiếp cận Giới và Phát triển (Gender and Development)
được xây dựng vào những năm 1980 để thay thế cho 4
phương pháp tiếp cận Phụ nữ và Phát triển. ay vì
chỉ tập trung vào phụ nữ, phương pháp tiếp cận này
4.1
quan tâm đến mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới.
Phưong pháp này là một thách thức đối với quá trìh
đưa ra quyết định và các mối quan hệ quyền lực thiếu 4.2
bình đẳng không chỉ giữa nam giới và phụ nữ, mà còn
4.3
giữa người giàu với người nghèo.
Từ WID đến GAD đã có sự tiến bộ đáng kể về quan

điểm, nhận thức và phương pháp tiếp cận nhằm đạt
bình đẳng cho phụ nữ kể từ Hội nghị Liên Hợp ốc
về Phụ nữ được tổ chức tại Nai-rô-bi năm 1975. Những
năm đầu, hầu hết các mối quan tâm chỉ là “các vấn đề"
của phụ nữ, “sự tiếp cận và cơ hội của phụ nữ. Phương
pháp tiếp cận Phụ nữ trong Phát triển (WID) đã tập
trung vào việc làm thế nào để phụ nữ có thể được tham
gia tốt hơn vào các sáng kiến phát triển hiện có, chủ yếu
thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ với tư cách là người
thụ hưởng chứ chưa phải là tác nhân của các công cuộc
phát triển. Tuy nhiên, phưong pháp WID chỉ tập trung
vào phụ nữ, còn những vấn đề xã hội, kinh tế, chính trị
và văn hóa lại được xem xét một cách hoàn toàn độc
lập hoặc tách biệt. Do đó vô hình chung đã tách phụ
nữ ra khỏi quá trình ra quyết định của chính quyền.

Các nhóm khái niệm
Power, Discouse, Descontruction
Agency, Emotion, Inter subjectnity
De-centralization, Diffirence, Ethnicity

5 Giới, sinh học và sự tiến hóa loài
người
5.1 Thuyết sinh học xã hội (Sociobiological
models)
5.2 Lý thuyết Cyborg
Định nghĩa về cyborg: “Một người có hạn chế hoặc
khiếm khuyết về thể chất được mở rộng ra ngoài giới
hạn của con người bình thường bằng máy móc hoặc cơ
quan bên ngoài khác làm thay đổi các chức năng của

cơ thể"

Lý thuyết cyborg ra đời chỉ rõ rằng không có lằn ranh
Sự bất bình đẳng của phụ nữ thường do nhiều yếu tố giữa những người máy cyborg với cơ thể sinh học. Rằng
kết hợp lại (xã hội, kinh tế, chính trị và văn hóa), tác thực chất công nghệ cyborg đã được ứng dụng từ sớm
động đến đời sống của phụ nữ và nam giới một cách hơn người ta nghĩ. Lý thuyết cyborg được ra đời từ bài


6

6 VĂN HÓA, CƠ THỂ VÀ TÍNH DỤC

tiểu luận nổi tiếng của Donna Haraway “e Cyborg
Manifesto” xuất bản lần đầu vào năm 1985, đã trở thành
một phần của chương trình giảng dạy đại học tại vô số
các trường đại học .
Nói đến cyborg không có nghĩa là nói đến cái gì đó ở
tương lai hoặc một công nghệ vô cùng tiên tiến. ời
đại của cyborg là ở ngay hiện tại, ở khắp mọi nơi. Là
một cyborg không nhất thiết phải là bao nhiêu bit của
silicon bạn có dưới da hoặc có bao nhiêu bộ phận nhân
tạo trên cơ thể bạn. Đó là việc bạn đi đến phòng tập
thể dục , nhìn vào một bảng tiêu chuẩn thức ăn, kiểm
tra ra các máy tập , và nhận ra rằng thời đại mà bạn
đang sống tràn đầy những ý tưởng cho rằng cơ thể con
người nên được chăm sóc như một cỗ máy có hiệu suất
cao . Chiến thắng ế vận hội ngày nay không chỉ đơn
thuần là chạy thật nhanh. Nó còn phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố như “sử dụng thuốc nhưu thế nào , chế độ
ăn uống , hoạt động đào tạo ra làm sao, quần áo và thiết

bị có tốt không. Dùng thuốc theo tiêu chuẩn , đào tạo
và công nghệ làm cho tất cả các vận động viên Olympic
chỉ như những người máy " nhân tạo ".
Mạng máy tính (Internet) cũng là một cyborg , nó
không chỉ bao quanh mà nó còn kết hợp với chúng ta.
Một dây chuyền sản xuất tự động trong một nhà máy,
một mạng máy tính văn phòng , ánh sáng, và hệ thống
âm thanh - tất cả đều là công trình xây dựng của người
và máy móc. Internet cũng ở ngay trong cơ thể chúng
ta . Lương thực, thực phẩm đều là sản phẩm của nông
nghiệp , dược phẩm để gìn giữ hoặc tô đậm vẻ đẹp, tất
cả đều không được tự nhiên. Sự thật là, chúng ta đang
xây dựng chính chúng ta, giống như chúng ta thiết kế
sản xuất một con chip hoặc một hệ thống chính trị.
Luận điểm cuối cùng của lý thuyết này là “We are all
cyborgs”

với văn hoá, học hỏi văn hoá, tiếp thu văn hoá.
Văn hoá ở đây được hiểu là tất cả những cái gì
phi tự nhiên, tức là thành quả của con người. Đặt
người nam gắn bó với văn hoá cũng tức là chấp
nhận người nam mang trong mình tất cả những
cái tinh tuý của văn hoá.
Còn nữ giới thuộc về những phẩm chất tự nhiên, vốn
có. Điểu nhình là câu “thiên chức làm mẹ". Người ta
thường cho rằng bẩm sinh thì người phụ nữ đã có trách
nhiệm sinh con đẻ cái và nuôi con, còn người nam
không có khả năng này. Cái tự nhiên cũng có nghĩa là
phi văn hoá, tức là người phụ nữ ít được kế thừa những
thành tựu, không có chức năng văn hoá.

ực chất không phải vậy, cả nam và nữ đều mang
trong mình cả cái tự nhiên lẫn văn hoá. “thiên chức
làm mẹ" chẳng qua là sự gán ghép, áp đặt của xã hội
đối với người phụ nữ khi tập trung chỉ nhìn nhận vào
chức năng sinh sản của họ.

6.2 Sự phân định: Ngoài xã hội >< Trong
nhà
6.3 Cơ thể trong chủ thuyết phụ nữ
6.4 Phân loại cơ thể
Cơ thể không chỉ đơn thuần là thuôc về sinh học, cơ
thể cũng mang yếu tố XH, thể hiện trong các cách phân
loại:
• Giới: cơ thể đặt trong giới hàm ý nói đến rằng có
sự khác biệt giữa cơ thể hai giới. ường ngưòi ta
có những tiêu chuẩn để gọi là cơ thể đẹp theo từng
giới. Tiêu chuẩn của nam khá đồng nhất trong
tất cả các nền văn hoá và bối cảnh lịch sủ, trong
đó tiêu chuẩn của nữ lại không giống nhau, khác
nhau ở từng nền văn hoá, khác nhau qua lịch sử.

Kĩ thuật cyborg có mục đích ban đầu là để phát hiện,
khắc phục dị tật cơ thể. Nó đã được tận dụng để phục vụ
nhiểu mục đích khác nhau, và giờ đây đã trở thành kĩ
thuật kiến tạo con người. Việc lạm dụng kĩ thuật cyborg
cũng đã đem lại những vấn đề nhức nhối. Khi đến xã
hội phương Đông, nó đã bị biến đổi đi để phục vụ lợi
• Y học: cơ thể theo ý học có nghĩa là phân định cơ
ích cá nhân, đáng lo ngại nhất là vào việc lựa chọn giới
thể khoẻ với cơ thể yếu. Tiêu chuẩn giữa khoẻ và

tính bằng cách siêu âm. nạo phá thai, thậm chí ở Việt
yếu có khi không rõ ràng, gây ra những hạn chế
Nam còn có hiện tượng “chọn giờ đẻ" rất đáng lên án.
cho chính sách ý tế.
Đó là trong vấn đề sinh sản, ngoài ta kĩ thuật cyborg
được dùng vào hoạt động làm đẹp, từ nhẹ như dùng mỹ
phẩm, dược phẩm cho đến phức tạp hơn là phẫu thuật Một cơ thể khoẻ phải đựoc quan sát từ ngay bên ngoài,
nhưng nó hơi khó nhận thức được. VD nếu coi tính
thẩm mỹ, nắn xương chỉnh hình…
trạng trội là tóc đen, xoăn là khoẻ thì tính trạng lặn
là tóc vằng, thẳng là yếu. Các tỉ lệ cho thấy cơ thể đẹp
,cơ thể yếu chủ yếu chỉ có giới nghiên cứu hình thể là
6 Văn hóa, cơ thể và tính dục
biết rõ.

6.1

Người ta thường quan niệm cơ thể đẹp (quan sát được)

Sự phân định: Nam/Văn hóa >< là cơ thể giống với người bình thường (không có dị tật).
Nữ/Tự nhiên
Nhiều khi có một số biến dị có lợi lại bị cho là dị dạng,

• Từ trước đến nay, quan niệm cho rằng nam giới
là sự đóng góp, kiến tạo của xã hội. Nam giới gắn

khuyết tật. Nói chung nói đến cơ thể khởe thì người ta
thường chỉ nghĩ đến là cơ thể không có bệnh tật, khoẻ
mạnh, dèo dai (phải thể hiên quan vận đông)



7
• Tình dục: trong một số nền văn hoá, ngưòi ta
gắn vẻ đẹp cơ thể với khả năng tình dục cao
(như những bức tượng của tín ngưỡng phồn thực).
Nhưng một số khác lại cho rằng cơ thể càng thể
hiện tính dục ra bên ngoài thì càng “yếu”. Tức là
anh/cô phải kiềm chế sự hấp dẫn của mình trứoc
mặt người khác, nếu không sẽ bị coi là “lẳng lơ"
hoặc “gợi dục” với hàm ý xấu.
• ương mại: cơ thể còn bị gắn với mục đích
thương mại. Một truờng hợp dễ nhận thấy đó là
các quảng cáo đồ công nghệ rất hay dùng hình ảnh
của những cô người mẫu xinh đẹp thay vì dùng
hình ảnh của nam giới. Các nhà kinh doanh có xu
hướng thích dùng hình ảnh phụ nữ để quảng bá
cho sản phẩm, với mon muốn thu hút sự chú ý
của phải mạnh đối với sản phẩm đó. Đôi khi gây
ra sự xúc phạm mà phụ nữ lại không ý thức được,
như trường hợp quảng cáo các loại nước cọ rửa
nhà vệ sinh với hình ảnh một người phụ nữ cầm
chổi!

• Transgender: chuyển giới hay nói chính xác hơn
là chuyển đổi giới, là trạng thái khi một người có
giới tính sinh học không trùng với bản dạng giới
hay thể hiện giới của họ (ví dụ có cơ thể là nam và
nghĩ mình là nữ, hoặc cư xử giống như nữ). Người
chuyển đổi giới liên quan tới việc người đó nhận
dạng hoặc thể hiện mình là nam hay nữ, trong

khi người đồng tính lại liên quan tới việc người
đó yêu người cùng giới hay khác giới. Cần chú ý
rằng người chuyển giới không có nghĩa là phải qua
phẫu thuật hay sử dụng hormone rồi.

7 Giới, hôn nhân và sinh sản
7.1 Hôn nhân
Luật pháp Việt Nam quy định hôn nhân là sự kết hợp
giữa một nam và một nữ trên nguyên tắc hoàn toàn tự
nguyện. Cơ sở của sự tự nguyện là tình yêu chân chính
giữa nam và nữ. Hôn nhân là sự liên kết bình đẳng, về
địa vị xã hội, về kinh tế, về văn hóa.

Người ta lại rất ít sử dụng hình ảnh của đàn ông, và khi
sử dụng lại nhằm đến thu hút chính đàn ông thay vì Hôn nhân là sự liên kết giữa nam và nữ theo quy định
của pháp luật. Nghĩa là việc đăng ký kết hôn phải theo
phụ nữ!
quy định của pháp luật để được công nhận hợp pháp,
và được pháp luật bảo vệ.
• Chính trị: Cơ thể còn có thể được sử dụng nhằm
mục đích chính trị. Chẳng hạn, khi quảng bá hình Như vậy định nghĩa về hôn nhân theo pháp luật Việt
ảnh Việt Nam, trong các cuộc gặp thì người ta Nam đã chỉ rõ chỉ công nhận hôn nhân 1 vợ một chồng,
thường lấy hình ảnh các cô gái mặc áo dài để không chấp nhận hình thức đa thê. Hơn nữa đó là sự
nói lên bản sắc dân tộc. Trường hợp cũng diễn liên kết giữa 2 giới là nam và nữ, tức là ngoài 2 giới
ra tương tự với đàn ông. Việc sử dụng nhưng này thì pháp luật không công nhận. Nhận thấy hạn chế
hình ảnh, trang phục truyền thống nhằm mục đích trên, luật pháp đã có những sửa đổi quan trọng để thích
chứng tỏ vị thế, bản sắc của quốc gia, đại diện nghi với những tình hình mới, đặc biệt khi vấn đề giới
tính thứ 3 đang nổi lên hiện nay:
chung cho tất cả những vẻ đẹp của dân tộc.


6.5

Kiểm soát cơ thể

Khoản 5 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
quy định cấm kết hôn đồng giới.

Điều 17 Dự thảo luật quy định: “Nhà nước không thừa
nhận quan hệ hôn nhân giữa những người cùng giới
6.6 Phân biệt khái niệm LGBTIQATS
tính”. Tức là sẽ không xử phạt, ngăn cản nhưng cũng
LGBTI là thuật ngữ viết tắt của các từ tiếng Anh: lesbian không công nhận về mặt pháp lý, giấy tờ.
(đồng tính nữ), gay (đồng tính nam), bisexual (song tính Dự thảo cũng đã thừa nhận việc chung sống như vợ
luyến ái hay lưỡng tính luyến ái), transgender (chuyển chồng giữa hai người cùng giới bằng việc bổ sung vào
giới) và intersex (giao/liên/ lưỡng giới tính), thuật ngữ khoản 4 Điều 8 khái niệm về “chung sống như vợ chồng
này ám chỉ bộ phận người thuộc giới tính thứ ba, đây là là việc hai người khác giới tính hoặc cùng giới tính thỏa
sự trộn lẫn của các khái niệm giới tính sinh học, khuynh thuận tổ chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng,
hướng tình dục, thể hiện giới, bản dạng giới.
có tổ chức lễ cưới hoặc được gia đình một hoặc hai bên
chấp nhận”.
• Lesbian, Gay: là những người đồng tính luyến ái,
có cảm giác hấp dẫn về tình cảm, thể chất với
người cùng giới.

7.2 Các hình thức cư trú sau hôn nhân

• Bisexsual : là những người song tính, có cảm giác
hấp dẫn về tình cảm, thể chất với cả hai giới.

• Bên vợ (uxorilical/matrilocal residence)


3 từ này là thuộc về khái niệm khuynh hướng tình dục.

• Mẫu hệ/matrilineal>
• Bên chồng (virilocal/patrilocal residence)


8

8 GIỚI, GIA ĐÌNH VÀ THÂN TỘC
• Mẫu quyền/matriarchy>< Phụ quyền/patriarchy

Không có chứng cứ về sự hiện hữu của một xã hội mẫu
quyền thuần túy (vd, vai trò ưu thế về kinh tế, chính trị
của nam giới);Trong xã hội phụ quyền còn tùy thuộc
vào các căn tính xã hội khác như chủng tộc, tộc người,
tôn giáo và giai tầng, đẳng cấp XH.

7.3

Chức năng của hôn nhân

Hôn nhân là thể chế vừa thỏa mãn nhu cầu cá nhân
vừa phục vụ cho mục đích của xã hội. Người ta đặc biệt
nhấn mạnh chức năng tái sản xuất ra con người để duy
trì nòi giống.
i định về hôn nhân nhằm tạo lập và duy trì một gia
đình bền vững để các cá nhân có thể hỗ trợ nhau trên
mọi phương diện của cuộc sống lâu dài.

Tuy nhiên cũng có những quan điểm trái chiều: Tiếp
nối giống nòi là điều đương nhiên, nhưng khi mà xuyên
suốt lịch sử, chưa bao giờ có, và hiện cũng không hề có,
đe dọa tự nhiên nào về sự tuyệt chủng của loài người,
mà lấy đạo lý sinh tồn làm điều tiên quyết để áp đặt
lên một thiểu số người, là việc làm phi lý. Trong bối
cảnh không đe dọa đó, quan hệ giữa người với người
là quan hệ của con người xã hội chứ không phải của
con người giống loài, nên cái đạo lý hàng đầu là đạo lý
hành xử của con người với nhau chứ không phải đạo
lý sinh tồn của loài. Và do vậy, nói đến trách nhiệm xã
hội của con người, trước tiên đó phải là trách nhiệm đối
với đời sống xã hội chứ không phải trách nhiệm phối
giống cho loài. Ngoài ra, nói việc duy trì nòi giống ở
con người được thực hiện chủ yếu và chính thức qua
hôn nhân, thì chính xác; còn nói ngược lại, cho rằng
nội dung, chức năng của hôn nhân là để duy trì nòi
giống, thì đã vô tình hạ thấp giá trị của nó. Loài vật
không cần hôn nhân cũng có thể duy trì giống nòi. Tạp
hôn và quần hôn của con người cũng thừa khả năng
duy trì giống nòi. Bởi vậy, đi đến chỗ nói hôn nhân là
để “giải quyết nhu cầu sinh lý” thì lại càng bất tín, vì
đã hoàn toàn hạ cấp hôn nhân và không cố ý mà nâng
cấp những hình thức “giải quyết sinh lý” khác.
Giá trị của hôn nhân, với tư cách một định chế xã hội,
là cái cao quý hơn nhiều so với một “định chế sinh vật”.
Cái cao quý đó, đơn giản chính là điều mà mệnh đề A
đã khái quát, là quan hệ giữa các bên phối ngẫu với
nhau và với con cái của họ, tức quan hệ và đời sống
gia đình. Nói một cách đơn giản, con người (nói chung)

tạo ra hôn nhân là để ràng buộc các cá thể với nhau,
tạo thành liên kết gia đình, qua đó người ta tạo ra một
đơn vị kinh tế, chia sẻ các nguồn lực, còn giáo dục và
chức giải quyết nhu cầu tâm lý là những chức năng có
sau. Điều này giải thích tại sao xã hội thường hạn chế
hiện tượng hôn nhân có sự chênh lệch độ tuổi quá lớn,
vì nó không đảm bảo duy trì mối liên kết, tương trợ lâu
dài (trường hợp một người qua đời).

8 Giới, gia đình và thân tộc
8.1 Khái niệm gia đình
Gia đình gắn chặt với những nhân tố văn hóa và xã hội
nhất định, cho nên khó có thể đưa ra một khái niệm gia
đình chung cho tất cả các xã hội. an niệm về gia đình
trong xã hội này khác với quan hệ gia đình trong xã hội
kia, Không có định nghĩa phổ quát, có thể áp dụng và
chấp nhận phổ biến. Luật hôn nhân và gia đình ở nước
ta năm 2000 đưa ra khái niệm về gia đình: “Gia đình
là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân,
quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm
phát sinh các nghĩa vị và quyền lợi giữa họ với nhau”
trong đó chỉ công nhận những cặp vợ chồng có đăng ký
kết hôn chính thức. Điều này là đúng đắn dưới góc độ
khoa học pháp lý và đạo lý, phục vụ cho sự quản lý nhà
nước về gia đình, nhưng rõ ràng về mặt xã hội học nó
lại chưa đủ cơ sở thực tiễn, không bao quát được thực
trạng của nhiều gia đình khác nhau, dẫn đến sự tồn tại
của những gia đình “bất hợp pháp”. Một cách chung
nhất phần lớn mọi người có thể hiểu rằng: Gia đình
là một thiết chế xã hội liên kết con người lại với nhau

nhằm thực hiện việc duy trì nòi giống và chăm sóc con
cái. Đó là sự liên kết ít nhất là hai người dựa trên cơ
sở huyết thống, hôn nhân hoặc nhận con nuôi. Những
người này cũng phải sống cùng nhau (cùng chung sống
có nghĩa là có thể xa cách về mặt địa lý nhưng vẫn chia
sẻ cuộc sống chung) Gia đình là tổ chức kinh tế đầu tiên
của nhân loại, nó liên kết các cá nhân cùng huyết thống
trong việc tổ chức các hoạt động lao động sản xuất. Sự
phân công lao động đầu tiên là sự phân công trong gia
đình. Những người đàn ông đi săn bắt hái lượm, những
người đàn bà ở nhà lo chuyện bếp núc và chăm sóc con
cái

8.2 Các hình thức gia đình
Các hình thái gia đình rất đa dạng, muôn màu muôn
vẻ, đặc biệt là trong khoảng thời gian trở lại đây. Trước
hết xét theo số thế hệ trong gia đình, có các loại sau: +
Gia đình hạt nhân (nuclear family) Đơn vị gia đình nhỏ
nhất được gọi là gia đình hạt nhân, và bao gồm một cặp
vợ chồng và con cái chưa kết hôn của họ. Nó bao gồm
chỉ hai thế hệ: cha mẹ và con cái. Tuy vẫn thường được
coi là đơn vị gia đình nhỏ nhất nhưng thực tế vẫn có
những hình thái gia đình nhỏ hơn hình thái hạt nhân,
chẳng hạn gia đình (cha) mẹ đơn thân. Trong hình thái
gia đình hạt nhân, có ba trục quan hệ cơ bản sau: an
hệ vợ chồng an hệ cha mẹ - con cái Nếu gia đình có
từ hai con trở lên, thì thêm trục quan hệ giữa con cái
với nhau, tức là quan hệ anh chị em Đối với một số xã
hội có sự phân biệt gia đình với cặp vợ chồng. Nếu hai
người kết hôn hay chung sống với nhau mà chưa hoặc

không có con, họ là một cặp hôn nhân, chưa phải là
một gia đình. an điểm ở đây cho rằng cặp vợ chồng
cũng là một gia đình, gọi là gia đình vợ chồng. Trong


8.4

Chức năng của gia đình

gia đình hạt nhân có hai biến thể: gia đình đẩy đủ: đủ cả
cha lẫn mẹ Gia đình không đầy đủ (incomplete family)
gần đây người ta không thích dùng kiểu gọi này mà
hay gọi là gia đình (cha) mẹ đơn thân (single-parent
family) ông thường mối liên kết của các thành viên
trong gia đình hạt nhân rất chặt chẽ nếu được thành
lập do kết quả của tự do hôn nhân và tình yêu, nó tạo
ra nhiều lợi thế về tình cảm cho quan hệ vợ chồng và
giảm khả năng mâu thuẫn thế hệ. + Gia đình mở rộng
Là gia đình bao gồm bố mẹ, con cái và cả những người
gọ hàng khác nữa. Nó có thể: mở rộng theo chiều dọc:
từ ba thế hệ trở lên Mở rộng theo chiều ngang: gồm
cả các thành viên của thế hệ ngang hàng với người vợ
hoặc người chồng (cụ thể là anh chị em chồng, anh chị
em vợ hay vợ cả, vợ hai…) Gia đình mở rộng có ưu thế
trong việc tập trung nhân lực cho sản xuất gia đình,
khắc phục “gánh nặng sinh sản”

9
lưu hay lớp dưới
c. Bạo lực trong quan hệ vợ chồng Nhiều nhà nghiên

cứu đặt ra câu hỏi: gia đình là thiên đường với ai, với
giới nào và của giới nào? Câu trả lời là đối với nhiều
phụ nữ, nếp nhà thực tế là nơi nguy hiểm nhất trên đời
và nguy cơ bị đánh đập cao hơn so với bên ngoài xã
hội. Vì sao bạo lực vợ chồng lại phổ biến? Có nhiều lý
do nhưng quan trọng nhất là do xã hội đã dung túng,
thậm chí tán thành. Trong khi ở bên ngoài gia đình, có
một quy tắc là không ai được đánh người khác

Tình trạng bạo lực gia đình liên quan đến bản chất quan
hệ gia đình. So với các thể chế xã hội khác, nơi con
người chỉ đóng một vai trò nào đó, và biểu hiện một
vài khía cạnh của nhân cách, thì gia đình là nơi người
ta bộc lộ toàn bộ nhân cách của mình. Do đó gia đình có
nhiều chủ đề gây bất đồng tranh cãi, bạo lực hơn. Cùng
với đó nhiều xã hội lại coi bạo lực gia đình là chuyện
Xét về mối quan hệ sinh học thì còn có: + Gia đình riêng tưm không nên can thiệp, chỉ khi có thương tích
huyết thống + Gia đình lựa chọn: VD: những người phụ nghiêm trọng người ta mới báo chính quyền
nữ ế chồng hoặc bị chồng bỏ rơi tập hợp lại với nhau
cùng con cái của mình, đòi hỏi quyền được coi là một
gia đình Câu hỏi: tại sao chúng ta lại công nhận các gia
đình nuôi con nuôi là một gia đình hợp pháp, mà không 8.4 Chức năng của gia đình
công nhận những người có cùng cảnh ngộ và rất yêu
a/ Chức năng kinh tế (kiếm sống, thu nhập và tiêu
thương nhau là một gia đình
dùng)
Xét về cơ cấu gia đình theo nơi cư trú của cặp vợ chồng
Chức năng cung cấp lực lượng LĐXH và của cải cho
mới cưới, đây là loại phức tạp nhất: + Gia đình ở nhà


hội
chồng + Gia đình ở nhà vợ + Gia đình gần nhà chồng +
Gia đình gần nhà vợ + Gia đình có vị trí không rõ ràng
am gia vào quá trình phát triển kinh tế của xã hội
giữa hai bên (tức là có lúc thì ở bên này, có lúc ở bên từ sản xuất, phân phối đến trao đổi và tiêu dùng
kia theo những quy định truyền thống) + Gia đình ra ở
Đây là chức năng nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển
riêng
của mỗi gia đình, góp phần vào sự phát triển toàn xã
Ngoài ra còn có các tiêu chí theo số người tham gia hôn hội. Lao động của mỗi thành viên gia đình hoặc hoạt
nhân, số lần kết hôn, số con…
động kinh tế của gia đình nhằm tạo ra nguồn lợi đáp
ứng các nhu cầu đời sống vật chất ( ăn, ở, đi lại ) lẫn
nhu cầu tinh thần ( học hành tiếp cận thông tin, vui
chơi giải trí ). Gia đình còn là đơn vị tiêu dùng, việc
8.3 Các mối quan hệ giới
tiêu dùng sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong xã hội đã
a. Phân công lao động gia đình Ở nhiều xã hội sự phân tác động vào sản xuất, tiền tệ, thúc đẩy kinh tế đất nước
công lao động phổ biến theo giới là giao việc nấu ăn phát triển.
Gia đình là một thực thể xã hội, sự tồn tại của nó được
xã hội thừa nhận. Như vậy bản thân gia đình đã mang
một giá trị xã hội. Chính các chức năng của gia đình
mới đem lại cho nó một giá trị đích thực. Cho đến nay
các chức năng cơ bản của gia đình vẫn còn giữ nguyên
giá trị. Sự thừa nhận các chức năng của gia đình tức là
Không những thế người ta trả tiền cho người giúp việc đã thừa nhận gia đình là một giá trị trong xã hội./.
gia đình một phần lớn là công họ nấu ăn, những hiếm b/ Chức năng sinh sản:
thấy người chồng nào trả công cho vợ nấu cơm (không Gia đình là nơi tái sản sinh con người, cung cấp thành
phải là ch phí đi mua thức ăn), đây rõ ràng là sự lợi viên, nguồn nhân lực cho gia đình và xã hội. eo dòng
dụng, bóc lột không công.

văn hóa, ở mỗi thời đại, việc sinh sản của gia đình có
cho phụ nữ. Người ta tin rằng phụ nữ có tài thiên bẩm
về nấu ăn, và nam giới không có khả năng sinh học
đó. Không nam giới nào cảm thấy xấu hổ, mà coi đó
là đương nhiên khi họ không biết hoặc nấu ăn vụng;
những ngược lại, một phụ nữ nấu ăn dở thì bị phê phán
thậm tệ

b. Ra các quyết định gia đình Trên quan điểm giới về
vấn đề này, cần xem xét nhiều yếu tố, chẳng hạn quyết
định được đưa ra thuộc lĩnh vực nào: chi tiêu hàng ngày,
hay xây nhà hoặc mua sắm lớn ứ hai, gia đình được
nói đến thuộc tầng lớp xã hội nào: thượng lưu, trung

những hệ quả nhận thức khác nhau về giới tính, số
lượng con người. Mặt khác, sự sinh sản trong gia đình
giúp cho việc xác định nguồn cội của con người, từ đó
tránh nạn quần hôn, góp phần tạo nên tôn ty gia đình,
trật tự xã hội, đảm bảo các điều kiện cơ bản cho nòi


10
giống phát triển.
Ngày nay, khoa học sinh sản phát triển cao nhưng sinh
sản tự nhiên trong gia đình vẫn là ưu thế bởi đó là điều
kiện cơ bản để bảo vệ nòi giống người, là cơ sở, nền
tảng cho mỗi người tham gia vào đời sống xã hội vì sự
phát triển. Tất cả các nhóm xã hội, các thiết chế xã hội
khác không có chức năng này, trừ gia đình. Việc thực
hiện chức năng này không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu,

mong ước của người vợ, người chồng mà còn là vấn đề
xã hội, vấn đề duy trì tính liên tục của xã hội.
c. Chức năng giáo dục, xã hội hóa
Gia đình là nơi dưỡng dục về thể chất, tinh thần, hình
thành nhân cách cho mỗi con người trong xã hội. Từ
trường học đầu tiên này, mỗi cá nhân được những
người thầy thân yêu là cha mẹ, ông bà giáo dục kiến
thức, kỷ năng sống để có thể thích ứng, hòa nhập vào
đời sống cộng đồng. Nêu gương là cách giáo dục tốt
nhất trong gia đình (Cha mẹ thương yêu chân thành,
tôn trọng, giúp đỡ nhau; cha mẹ, ông bà vừa yêu quý
vừa nghiêm khắc và bao dung với con cháu ), giữa gia
đình với họ hàng, với láng giềng, với cộng đồng (trọng
nhân nghĩa, làm điều thiện, sống chan hòa, ghét thói
gian tham, điều giả dối), qua đó giúp con cháu tiếp thu
một cách tự nhiên, nhẹ nhàng những bài học cuộc đời
nhưng lại tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành
và phát triển nhân cách.
d. Chức năng văn hóa
Văn hóa của xã hội được giữ còn sống do gia đình. Gia
đình các thành viên dạy trẻ về phong cách sống, truyền
thống, giá trị đạo đức và giá trị xã hội mà gia đình sau.
Gia đình, do đó khắc sâu vào tâm trí và chuyển văn hóa
từ một thế hệ tiếp theo.
f. Chức năng tinh thần, tình cảm
Nhờ vào quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống
nên thành viên gia đình có tình yêu thương và ý thức,
trách nhiệm với nhau. Chính vì vậy, gia đình là nơi để
mỗi được chăm sóc cả về vật chất lẫn tinh thần, được
thỏa mãn nhu cầu tình cảm, cân bằng tâm lý, giải tỏa

ức chế… từ các quan hệ xã hội.
Khi một thành viên gặp biến cố, gia đình, dòng họ sẽ có
sự quan tâm, chia sẻ và có sự giúp đỡ để niềm vui được
nhân đôi, nỗi buồn được vơi đi một nửa. Điều đó sẻ tạo
nên sợi dây vô hình nhưng bền chặt kết nối nghĩa tình
những người trong gia đình, dòng họ, thân tộc lại với
nhau. Mối quan hệ đồng bào cũng từ đó mà hình thành
trong làng xóm, trong xã hội, trở thành nền tảng của
tình yêu quê hương, đất nước, con người.

8 GIỚI, GIA ĐÌNH VÀ THÂN TỘC


11

9

Nguồn, người đóng góp, và giấy phép cho văn bản và hình ảnh

9.1

Văn bản

• Bộ môn nhân học/Nhân học về giới Nguồn: />Nh%C3%A2n_h%E1%BB%8Dc_v%E1%BB%81_gi%E1%BB%9Bi?oldid=95459 Người đóng góp: AmieKim, Maihuongly, Tactic03 và 5 người
vô danh

9.2

Hình ảnh


9.3

Giấy phép nội dung

• Creative Commons Aribution-Share Alike 3.0



×