Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phương thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.61 KB, 12 trang )

Căn cứ và phương thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và
một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một vấn đề quan trọng
trong đời sống vợ chồng. Lần đầu tiên việc chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân được quy định tại Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và tiếp tục
cụ thể hóa phát triển trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Để có cái nhìn khái
quán về chế định này với bài tập học kỳ em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích căn cứ
và phương thức chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật về vấn đề này”.
NỘI DUNG
1. Khái quát về chế độ tài sản của vợ chồng.

Tài sản là gì ? theo từ điển học thì tài sản được hiểu là những của cải vật chất được
sử dụng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng, theo Điều 163 Bộ luật dân sự năm
2005 thì tài sản bao gồm: “vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.

Chế độ tài sản của vợ và chồng là loại quan hệ đặc biệt rằng buộc hai người (có
quan hệ hôn nhân hợp pháp) liên quan đến tài sản, nói chung là đến các lợi ích vật
chất có giá trị. Trong khung cảnh của Luật thực định của nước ta, sự tồn tại của
quan hệ tài sản giữa vợ và chồng lệ thuộc vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân.
Quan hệ tài sản vợ chồng không tồn tại giữa hai người chung sống với nhau như vợ
chồng mà không có đăng ký kết hôn. Quan hệ này cũng bị thủ tiêu trong trường hợp
hai người có đăng ký kết hôn nhưng sau đó hôn nhân bị hủy bỏ theo một bản án
hoặc quyết định của Tòa án, đồng thời sảy ra với trường hợp vợ chồng ly hôn hoặc
một người chết.


Vậy có thể hiểu một cách khái quát rằng: “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng thể
các quy phạm pháp luật điều chỉnh về (sở hữu) tài sản của vợ chồng, bao gồm các
quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản
chung, tài sản riêng, các trương hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng


theo Luật định” (Ts Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật
hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2008). Theo đó phần tài sản
riêng của vợ chồng được quy định tại Điều 32 và 33 của Luật hôn nhân và gia đình
năm 2000.
Tài sản chung của vợ chồng: Theo khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 thì tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Theo quy định
tại Khoản 1 Điều 217 Bộ luật dân sự năm 2005 thì: “Sở hữu chung hợp nhất là sở
hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được
xác định đối với tài sản chung”, và sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng thuộc hình
thức sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia khi vợ chồng có lý do chính đáng; khi
quan hệ hôn nhân chấm dứt. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ
thể các căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng dựa vào: “ Thời kỳ hôn nhân” và
nguồn gốc các loại tài sản; theo đó, tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ
chồng tạo ra , thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng
được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung cùng các tà sản khác mà vợ chồng
thỏa thuận là tài sản chung. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất, pháp luật quy định
quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được sau khi kết hôn, được thừa kế
riêng chỉ là tài sản chung của vợ chồng khi có thỏa thuận. Như vậy, những tài sản
do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân thuộc khối tài sản chung của vợ
chồng
2. Căn cứ và phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.


Khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình quy định về việc chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân như sau: “ Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp
vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do
chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung ; việc chia tài sản
chung được lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa

án giải quyết”. Với quy định trên ta có thể xác định được căn cứ và phương pháp
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
2.1 Căn cứ để chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, việc chia
tài sản chng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chỉ được đặt ra khi có yêu cầu của
một bên vợ hoặc chồng hoặc của cả hai người. Nếu một người thấy rằng việc chia
tài sản là cần thiết thì có thể thỏa thuận với vợ chồng mình để chia tài sản, nếu
không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Như vậy, Luật hôn
nhân và gia đình hiện hành chỉ cho phép vợ hoặc chồng mới có quyền yêu cầu Tòa
án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà không cho bất kỳ
một chủ thể nào khác có quyền này, kể cả người có quyền và lợi ích liên quan đến
việc chia tài sản chung của vợ, chồng. Để hiểu kỹ hơn ta đi vào phân tích cụ thể
từng căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Trường hợp, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng
Theo BLDS năm 2005 nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể
phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện
công việc khác hoặc không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc
nhiều chủ thể khác. Việc thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng là việc thực hiện nghĩa vụ
mà chỉ một người(vợ hoặc chồng) phải thực hiện còn người kia không phải liên đới
thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng này. Nghĩa vụ dân sự riêng bao gồm các trường hợp
thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên thực hiện trước thời kỳ hôn
nhân hoặc không nhằ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Nghĩa vụ dân sự này


có thể là người vợ hoặc người chồng đã vay nợ chủ thể thứ ba để sử dụng vào nhu
cầu riêng hay trong trường hợp người vợ hoặc người chồng đã vi phạm pháp luật
dẫn tới hậu quả buộc phải thực hiện một nghĩa vụ dân sự nào đó như bồi thường
thiệt hại.
Khí phát sinh các nghĩa vụ dân sự riêng, về nguyên tắc người vợ hoặc người chồng
có nghĩa vụ dân sự riêng phải dùng tài sản riêng của mình, nếu tài sản riêng của

người đó không có hoặc không đủ mà vợ chồng không thể thỏa thuận dùng tài sản
chung để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng cho một bên thì vợ chồng có quyền yêu
cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân để người vợ, chồng lấy phần
tài sản đã chia trong khối tài sản chung của vợ chồng thanh toán nghĩa vụ dân sự
cho người thứ ba. Đồng thời tạo điều kiện để vợ, chồng có thể thực hiện tốt nhất
trách nhiệm của mình khi tham gia quan hệ tài sản với người thứ ba. Nó còn là cơ
sở để phân định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên vợ, chồng trong việc quản lý, sử
dụng và định đoạt tài sản trong gia đình.
Trường hợp, đầu tư kinh doanh riêng
Đầu tư kinh doanh riêng là khái niệm tương đối rộng và tương đối khó xác định. Đó
có thể là việc thành lập một doanh nghiệp tư nhân, tham gia thành lập một công ty
hay đơn giản chỉ là buôn bán một mặt hàng nào đó. Dự án đầu tư kinh doanh có thể
đang được thực hiện , nhưng cũng có thể chỉ mới được chuẩn bị thực hiện thậm chí
đang trong giai đoạn thai nghén hình thành. Việc đầu tư kinh doanh được coi là một
lý do chính đáng để vợ chồng có thể yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vọ
chồng trong thời kỳ hôn nhân. Bởi để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh thì
người vợ hoặc chồng chắc chán phải có một khối tài sản thuộc sở hữu của mình để
đảm bảo thực hiện các giao dịch. Nếu tài sản mang đầu tư là tài sản thuộc sở hữu
chung sẽ gây nhiều phiền phức cho việc thực hiện các giao dịch, vì việc định đoạt
tài sản đó cần có sự thỏa thuận của các đồng sở hữu mà nếu như người kia không
quan tâm cũng không muốn đầu tư kinh doanh thì việc thỏa thuận sẽ rất khó thực
hiện được. Xuất phát từ yêu cầu của thực tế nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện


nay, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định “Đầu tư kinh doanh riêng ” là
một lý do chính đáng để vợ chồng có thể chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Hơn nữa, hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện nay có nhiều biến
động mà người đầu tư không thể dự liệu trước, việc đầu tư kinh doanh có thể sẽ rất
mạo hiểm nên người đầu tư cần cần tách riêng phần tài sản đầu tư để phòng trường
hợp việc kinh doanh bị thua lỗ thì cũng không ảnh hưởng quá nhiều đến gia đình.

Nói chung là việc chia tài sản này nhằm để một người có tài sản riêng để thực hiện
các giao dịch bảo đảm vay vốn kinh doanh, để giúp việc thực hiện các giao dịch bớt
phức tạp và đảm bảo cuộc sống gia đình không bị ảnh hưởng. Việc chia tài sản
chung cũng có thể được yêu cầu ngay cả trong trường hợp người có nhu cầu đầu tư
kinh doanh không có ý định đưa tài sản được chia vào khai thác trong khuẩn khổ
hoạt động đầu tư, mà chỉ muốn chứng tỏ với mọi người về tiềm lực vật chất trong
tay mình, nhằm củng cố lòng tin cậy của các đối tác có quan hệ làm ăn với mình.
Trường hợp, có lý do chính đáng khác
Trong đời sống xã hội, có rất nhiều lý do mà pháp luật không thể dự liệu hết được,
vì vậy để đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của nền kinh tế kèm theo đó là sự phát
triển của các mối quan hệ xã hội mà pháp luật không kịp dự liệu để điều chỉnh Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định trong trường hợp vợ chồng có “lý do
chính đáng khác” thì có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đây là một quy định mở chứ không mang tính
chất liệt kê cụ thể. Điều này tạo ra được sự linh hoạt tỏng việc giải quyết các trường
hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, theo đó pháp luật đã
mở rộng các trường hợp vợ chồng có thể chia tài sản chung. Trên thực tế, có những
trưởng hợp vợ chồng sống với nhau về già tính tình lại không hợp và phát sinh mâu
thuẫn, do vậy mà cả cùng thỏa thuận chia tài sản chung rồi sống ly thân. Luật hôn
nhân và gia đình tôn trọng vấn đề này vì việc chia tài sản chung và ở riêng là có sự
thỏa thuận và nhất trí của hai vợ chồng nhằm ổn định cuộc sống mỗi bên. Nhưng
khi xem xét việc chia tài sản chung của vợ chồng cần lưu ý, đó là lý do chính đáng


đấy phải hết sức đặc biệt đối với vợ, chồng. Tuy nhiên, khi áp dụng quy định này
trên thực tế nó cũng phát sinh mặt trái, vợ chồng có thể nhân cơ hội này để thỏa
thuận chia tài sản chung một cách tùy tiện nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ dân
sự về tài sản đối với chủ thế thứ ba. Nếu như trước đây theo sự hướng dân của Nghị
quyết số /NQ/HĐTP ngày 20/1/1988 của Hội đồng thẩm phán hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì: “Trong khi hôn nhân

còn tồn tại, Điều 18 cho phép chia tài sản của vợ chồng nếu có lý do chính đáng
như: vợ chồng tính tình không hợp nhưng con cái đã lớn nên không muốn ly hôn
mà chỉ muốn ở riêng, do đó một bên hoặc cả hai bên xin chia tài sản thì tài sản được
chia như khi ly hôn”. Quy định này thể hiện bản sắc dân tộc, phù hợp với phong
tục tập quán của nước ta và tạo điều kiện thuận lợi cho vợ, chồng và Tòa án xác
định làm căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đến Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000 lại chưa quy định cụ thể thế nào được coi là “lý do
chính đáng khác”, vì vậy không có cơ sở để đánh giá lý do mà vợ chồng đưa ra để
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân có hợp lý hay không. Chính điều này đã
làm nảy sinh nhưng quan điểm không thống nhất khi xem xét các lý do chính đáng,
phát sinh chuyện Tòa án này cho đó là lý do chính đáng Tòa án khác lại không cho
đó là lý do chính đáng để cho phép vợ chồng được chia tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân. Đây là một trong nhưng mặt hạn chế của pháp luật về hôn nhân và gia
đình cần các nhà làm luật giải quyết để phù hợp với thực tế nhất.
2.2 Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân có thể được thực hiện theo yêu cầu của một bên vợ chồng hoặc do
hai bên cùng thỏa thuận (Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình). Căn cứ vào quy định
này có thể xác định được việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân có thể thực hiện theo hai phương pháp. Theo thỏa thuận của vợ chồng hoặc do
Tòa án quyết định khi vợ chồng không thỏa thuận được và có yêu cầu Tòa án giải
quyết.


Thứ nhất, trường hợp hai vợ chồng cùng thỏa thuận việc chia tài sản chung được
lập thành văn bản.
Theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì văn bản thỏa thuận thì
văn bản thỏa thuận của vợ chồng có thể có người làm chứng hoặc được công chứng,
chứng thực. Văn bản thỏa thuận phải ghi rõ các nội dung như: lý do chia tài sản,
phần tài sản chia, phần tài sản còn lại không chia, thời điểm có hiệu lực của việc

chia tài sản chung. Đồng thời văn bản cũng phải ghi rõ: ngày, tháng, năm lập văn
bản và phải có chữ kỹ của vợ, chồng, văn bản phải có người làm chứng hoặc được
công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật. Văn bản này có giá trị pháp lý
và là cơ sở để giải quyết các tranh chấp sau này. Thời điểm có hiệu lực của việc chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân do vợ, chồng xác định. Nếu vợ,
chồng không xác định được thì hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản hoặc từ ngày
mà văn bản đó được công chứng, chứng thực.
Khác với quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, yêu cầu văn bản thỏa
thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải được Tòa án công nhận, Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng
có thể được công chứng, chứng thực hoặc không tùy theo yêu cầu của vợ, chồng.
Trừ trường hợp pháp luật quy định các trường hợp văn bản thỏa thuận chia tài sản
chung của vợ chồng phải công chứng, chứng thực thì văn bản đó phải công chứng,
chứng thực. Với quy định này chúng ta có thể thấy Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 tôn trọng tối đa quyền tự định đoạt của vợ, chồng đối với khối tài sản do họ
làm ra. Tuy nhiên Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 lại không quy định rõ về các
nguyên tắc chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân khi vợ chồng tư
thỏa thuận bằng văn bản. Vì vậy khi vợ chồng tự thỏa thuận chia tài sản chung trong
thời kỳ hôn nhân bằng văn bản thì cần thiết phải áp dụng các quy định tại Điều 4 Bộ
luật dân sự năm 2005 để đảm bảo một số nguyên tắc chia nhất định. Thứ nhất, việc
thỏa thuận của vợ chồng là không trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Thứ hai, việc
chia tài sản chung của vợ chồng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng
trong đó ưu tiên quyền và lợi ích của người vợ và con chưa thành niên hoặc đã


thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có tài sản để tự
nuôi mình. Thứ ba, việc thỏa thuận chia tài sản của vợ chồng không nhằm trốn tránh
nghĩa vụ tài sản của vợ hoặc chồng với người thứ ba…
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp các cặp vợ chồng đều có thể tự thỏa
thuận chia tài sản chung của mình được vì một lý do nào đó. Vì vậy Luật hôn nhân

và gia đình năm 2000 đã quy định trong trường hợp vợ chồng không thỏa thuận
được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Thứ hai, trường hợp vợ yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Trước đây Điều 18 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: “Khi hôn nhân
tồn tại nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng thì có thể chia tài sản chung của
vợ chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật này. Theo đó, tài sản chung của vợ
chồng được chia theo nguyên tắc tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở
hữu của bên đó, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có xem xét một
cách hợp lý đến tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình và công sức đóng
góp của mỗi bên. Trong trường hợp vợ chồng do còn sống chung với gia đình mà tài
sản của người thân vợ chồng không xác định được thì thì vợ hoặc chồng được chia
một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức của người được
chia đóng góp vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung đó. Kế thừa quy định
này của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 quy định: “ Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh
doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ
chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành
văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”. Tuy
nhiên, theo quy định trước đây tại Điều 18 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì
nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân với trường hợp
vợ chồng yêu cầu Tòa án giải quyết được quy định tương đối rõ rang và chi tiết thì
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 lại không quy định các nguyên tắc chia đối với
trường hợp này. Có lẽ các nhà làm luật đã “bỏ quên” nguyên tắc chia này dẫn đến


tình trạng thực tiễn khi Tòa án giải quyết gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc vì
không biết chia như thế nào. Vì vậy, để Tòa án có thể chia được trong trường hợp
vợ chồng có yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì Tòa án
cần áp dụng các nguyên tắc chia tài sản cung của vợ chồng như khi ly hôn đã được
quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Đây được coi là bước thụt lùi

của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, vì vậy các nhà làm luật cần được bổ xung
và hoàn thiện các quy định liên quan đến vấn đề này trong dự thảo Luật hôn nhân
và gia đình mới.
3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân
Thứ nhất, cần hoàn thiện pháp luật về xác định tài sản chung của vợ chồng. Trong
quá trình áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn
thi hành đã bộc lộ nhiều điểm bất cập, nhiều quy định không phù hợp với thực tế
khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến hôn nhân và gia đình nói chung và tranh
chấp về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng nói riêng. Cụ thể là: Pháp luật cần
bổ sung các quy định hướng dẫn về các trường hợp được coi là: “lý do chính đáng
khác” để chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Luật hôn nhân và
gia đình hiện hành mới chỉ quy định vợ chồng được thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án
chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh
doanh riêng, để thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng và trường hợp có lý do chính đáng
khác. Tuy nhiên lý do nào được xác định là chính đáng thì hiện nay pháp luật vẫn
chưa có hướng dẫn cụ thể. Trên thực tế khi xét xử hầu hết các Tòa án chỉ dựa vào sự
phán xét cá nhân của mình để nhận định đó có phải là lý do chính đáng hay không
để giải quyết cho chia tài sản chung của vợ chồng. Thực trạng này nảy sinh nhiều
vấn đề bất cập khác gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của những người có liên
quan. Do vậy để tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án khi xem xét lý do của các bên vợ
chồng và quyết định vợ chồng có được phép chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân hay không. Xuất phát từ lý do này thiết nghĩ các cơ quan lập pháp cần xem xét
ban hành một văn bản hướng dẫn cụ thể về: “các lý do chính đáng” như: trong quá


trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn tới mức không thể chung đụng tại sản với
nhau nhưng không muốn ly hôn để tránh ảnh hướng tới chuyện học hành của con
cái, vợ chồng tuổi đã cao trái tính, trái nết không thể chiều nhau và quyết định dọn
đi ở cùng các con và muốn chia tài sản chung, trường hợp một bên vợ hoặc chồng

có hành vi phá tán tài sản vì ham mê cờ bạc, lô đề hoặc có hành vi ngoại tình mang
tài sản cho người khác…mà chưa quyết định lý hôn…Đây có thể coi là các lý do
chính đáng để vợ chồng có thể yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân.
Thứ hai, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm
dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Có trường hợp vợ chồng tự thỏa thuận hoạc
yêu cầu Tòa án chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung. Có trường hợp sau khi đã
chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng vẫn cùng chung
sống hoặc đã ở riêng, do vậy cần dự liệu về nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau, đối
với con chung và nghĩa vụ đóng góp tài sản chung nhằm bảo đảm đời sống chung
của gia đình. Ví dụ như hang tháng căn cứ vào mức thu nhập của mỗi bên vợ chồng
mà trích ra một khoản tiền nhất định để đảm bảo đời sống chung của gia đình. Mặt
khác pháp luật cũng cần dự liệu trường hợp sau khi đã chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân, mà một thời gian sau vợ chồng mới có yêu cầu ly
hôn hoặc một bên vợ hoặc chồng chết trước những tài sản nào được xác định là
khối tài sản chung của vợ chồng thì mới được chia.
Thứ ba, theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 hiện hành chỉ công nhận vợ,
chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân, quyền khởi kiện của người thứ ba trong trường hợp này không được
công nhận(Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000) là hoàn toàn phù hợp về
mặt nguyên tắc. Tuy nhiên, nếu áp dụng quy định này vào thực tiễn vẫn còn vấn đề
bất cập cần phải có sự vận dụng linh hoạt hơn. Theo luật hiện hành khi vợ hoặc
chồng có nghĩa vụ tài sản riêng thì nghĩa vụ tài sản đó được thực hiện bằng tài sản
riêng của họ, tài sản chung của vợ chồng không được sử dụng cho việc thanh toán
các khoản nợ này trừ khi vợ chồng có thỏa thuận(Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình


2000). Ví dụ: Anh A và chị B là vợ chồng, anh chị có khối tài sản chung là 100 triệu
đồng. Vì ham mê cờ bạc lô đề nê anh A đã vay nặng lãi số tiền 50 triệu đồng. Áp
dụng quy định trên, khoản nợ 50 triệu của mình anh A phải trả bằng tài sản riêng

của mình chứ không được sử dụng tài sản chung của vợ chồng anh chị là 100 triệu
để trả, trừ trường hợp chị B đồng ý. Vấn đề đặt ra là rất có thể người có nghĩa vụ tài
sản với người thứ ba không có hoặc không đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản
nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung để
trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản với người thứ ba. Trong trường hợp này
nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền(chủ nợ) về chia tài sản
chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ thanh toán nợ thì
quyền lợi của họ sẽ không được đảm bảo. Bên cạnh đó, trong thực tế cũng xuất hiện
nhiều yêu cầu đề nghị chấp nhận quyền yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân cho người than của hai bên vợ hoặc chồng. Ví dụ: Vợ
chồng anh A và chị B là chủ một doanh nghiệp tư nhân với khối tài sản chung lên
tới hàng chục tỷ đồng. Không may một ngày chị B bị tai nạn giao thông nghiêm
trọng, bác sỹ kết luận giờ chị B chỉ sống thực vật. Khoảng thời gian đầu anh A còn
quan tâm chăm sóc vợ và gia đình tuy nhiên thời gian trôi qua anh A có biểu hiện
phá tán tài sản, sử dụng tài sản chung của vợ chồng để bao gái. Mà không hề quan
tâm tới vợ con, anh cũng không có ý định xin lý hôn vì muốn nắm giữ hết số tài sản
trên. Thấy việc làm của anh A là sai bố mẹ đẻ của chị B rất bức xúc và muốn làm
đơn đề nghị Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng anh chị nhưng chị B không thể
trực tiếp thực hiện được vì vậy Tòa án không có căn cứ pháp lý để giải quyết.
Theo em, trong những trường hợp này pháp luật cần có những quy định rằng: Trong
trường hợp người có quyền có đủ chứng cứ cho rằng vợ chồng không có thỏa thuận
hoặc không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục
đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản thì người có quyền có thể yêu cầu Tòa
án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của
người vợ hoặc người chồng có nghĩa vụ thực hiện thanh toán các khoản nợ. Đồng
thời khi người thân của vợ hoặc chồng có đầy đủ chứng cứ chứng minh rằng người
vợ hoặc người chồng có hành vi phá tán tài sản chung của vợ chồng trong khi người


kia không có điều kiện quản lý thì Tòa án chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung của

vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân của người đó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của vợ hoặc chồng. Tuy nhiên, yêu cầu của người có quyền hoặc người than của vợ
hoặc chồng sẽ không được Tòa án công nhận nếu việc chia tài sản chung ảnh hưởng
nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình của người có nghĩa vụ.
Thứ tư, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy
định các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà
không có lý do chính đáng thì bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Tuy nhiên Luật lại
không quy định ai là người có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ thỏa thuận chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng. Mặt khác, Luật hôn nhân và gia đình
cũng chưa quy định hậu quả pháp lý của việc Tòa án tuyên bố vô hiệu đối với thỏa
thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Cần bổ sung quy
định trong trường hợp thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân bị Tòa án tuyên vô hiệu, chế độ tài sản của vợ chồng được khôi phục lại tình
trạng như trước khi có thỏa thuận chia tài sản chung.
KẾT LUẬN
Để pháp luật có thể bám sát đời sống xã hội và thực hiện chức năng điều chỉnh các
quan hệ xã hội đòi hỏi các nhà làm luật cần xem xét nghiên cứu tình hình thực tế để
bổ xung và hoàn thiện các quy định của pháp luật về các quan hệ hôn nhân và gia
đình đáp ứng yêu cầu của xã hội đạt ra trong thời gian gần đây.



×