BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TDTT BẮC NINH
TRƯƠNG ĐỨC THĂNG
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO
TẠO CỬ NHÂN NGÀNH Y SINH HỌC TDTT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
BẮC NINH - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TDTT BẮC NINH
-----------------------
TRƯƠNG ĐỨC THĂNG
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO
TẠO CỬ NHÂN NGÀNH Y SINH HỌC TDTT
Chuyên ngành:
Giáo dục thể chất
Mã số:
62140103
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS Vũ Chung Thủy
2. PGS.TS Đồng Văn Triệu
BẮC NINH – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận án
Trương Đức Thăng
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AUN
Asian University
AUN-QA Asian University – Quality Assurance
CNH
Công nghiệp hóa
CP
Chính phủ
CTĐT
Chương trình đào tạo
ĐVHT
Đơn vị học trình
GDTC
Giáo dục thể chất
GD&ĐT
Giáo dục và Đào tạo
HĐH
Hiện đại hóa
NQ
Nghị quyết
PGS.TS
Phó giáo sư, tiến sĩ
PTCT
Phát triển chương trình
QĐ
Quyết định
TDTT
Thể dục thể thao
tc
Tiêu chí
TC
Tiêu chuẩn
TW
Trung ương
TT
Thông tư
TTg
Thủ tướng
VĐV
Vận động viên
DANH MỤC CÁC ĐƠN VỊ ĐO LƯỜNG
cm
Centimét
g
gam
kg
Kilôgam
m
Mét
s
Giây
p
Phút
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thể Dục Thể Thao (TDTT) được xác định là một bộ phận của sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc, phục vụ trực tiếp các nhiệm vụ phát triển kinh
tế - văn hóa - xã hội và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy việc đưa nền TDTT nước nhà
phát triển là nhằm mục đích tạo ra những tiền đề cần thiết cho công cuộc đổi
mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ngày nay, nhiệm vụ đào tạo đội
ngũ VĐV (VĐV) có thành tích xuất sắc ngang tầm khu vực, châu lục và trên thế
giới là một việc cấp thiết, đòi hỏi phải tổ chức qui trình đào tạo dài hạn, có định
hướng, có hình thức tổ chức, có phư ơng tiện và phương pháp huấn luyện hiệu
quả, trong đó cần đặc biệt quan tâm tới việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thật công nghệ, y học TDTT ... vào trong quá trình huấn luyện thể thao hiện đại.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, công tác giáo dục và đào tạo bậc đại học của
nước ta đang từng bước đi vào chuẩn hoá nội dung đào tạo nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ khoa học trẻ theo hướng toàn diện, có chuyên môn sâu, tự
chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, có tinh thần yêu nước, yêu
Chủ nghĩa xã hội, đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn đặt ra trong xã hội
hiện đại. Vì vậy đổi mới công tác đào tạo cũng chính là nhiệm vụ và yêu cầu
bức thiết của công tác giáo dục trong các trường Đại học nói chung, và các trong
các trường Đại học TDTT nói riêng.
Cùng với sự phát triển của nền TDTT nước nhà, những năm qua trường
Đại học TDTT Bắc Ninh không ngừng phát triển và trưởng thành. Từ khi được
thành lập cho đến nay công tác đào tạo của nhà trường luôn nhận được sự quan
tâm của các cấp ủ y Đảng và chính quyền, không ngừng mở rộng về qui mô và
nâng cao chất lượng đào tạo để xứng đáng là ngôi trường số một của cả nước về
đào tạo các chuyên ngành TDTT. Thực hiện chương trình cải cách giáo dục đại
học của Chính phủ, đồng thời để tiến kịp trình độ đào tạo cán bộ TDTT của các
trường Đại học TDTT trong khu vực và trên thế giới, hiện nay trường Đại học
TDTT Bắc Ninh đang tiến hành mở rộng quy mô đào tạo theo hướng đa ngành,
đa hệ và đổi mới chương trình đào tạo (CTĐT) định hướng khoa học, dân tộc và
2
hiện đại, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Một trong những kết quả thu được từ công
cuộc cải cách và đổi mới đào tạo đó là xây dựng chương trình và tiến hành tổ
chức đào tạo hệ Cử nhân TDTT theo 4 ngành (từ năm học 2007 - 2008): Sư
phạm TDTT, Huấn luyện thể thao, Y sinh học TDTT và Quản lý TDTT. Để thực
hiện tốt mục tiêu đào tạo theo các ngành đào tạo đã được triển khai thì việc xây
dựng các mô hình tổ chức đào tạo, nội dung đào tạo và các chỉ tiêu kiểm tra
đánh giá năng lực của cử nhân TDTT từng ngành theo hướng đáp ứng nhu cầu
của xã hội đóng vai trò hết sức quan trọng.
Việc xác định mô hình tổ chức đào tạo, xây dựng nội dung đào tạo và các
chỉ tiêu kiểm tra đánh giá năng lực của cử nhân TDTT từng ngành đào tạo trong
trường Đại học TDTT Bắc Ninh đã được các nhà giáo dục, các nhà khoa học
tiến hành nghiên cứu và đưa vào CTĐT cử nhân TDTT thuộc 3 ngành: Sư phạm
thể thao, Huấn luyện thể thao và Quản lý TDTT. Kết quả này đã được các nhà
chuyên môn đánh giá rất cao và đang được ứng dụng rộng rãi tại các cơ sở đào
tạo cử nhân TDTT trong phạm vi cả nước.
Đối với công tác đào tạo cử nhân ngành Y sinh học TDTT, năm học 2007
- 2008, Trường Đại học TDTT Bắc Ninh chính thức chiêu sinh khoá đầu tiên
đào tạo ngành Y sinh học TDTT theo Quyết định số 462b/QĐ-ĐHI-ĐT của
Hiệu trưởng Trường Đại học TDTT 1. Tuy nhiên, trước đó nhà trường đã đào
tạo được ba lớp chuyên sâu Y học thuộc các khóa 12,13,14 và mở nhiều lớp bồi
dưỡng kiến thức về Y sinh học TDTT cho cán bộ TDTT, cũng như đào tạo
ngành Y sinh học TDTT cho bậc đào tạo sau đại học. Kết quả đào tạo đã đạt
được một số thành công nhất định, các sinh viên ra trường đã tích cực tham gia
vào các hoạt động trong lĩnh vực TDTT, bước đầu đã có những đóng góp cho sự
nghiệp phát triển TDTT nước nhà. Tuy nhiên do ngành đào tạo còn khá mới, vì
vậy mà nội dung đào tạo, kế hoạch đào tạo, cũng như hệ thống tiêu chí và tiêu
chuẩn đánh giá năng lực chuyên môn của cử nhân y học TDTT tất yếu còn rất
nhiều hạn chế. Trong những năm gần đây, được sự chỉ đạo và quan tâm của
Đảng và Nhà nước, TDTT Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ về
3
quy mô và chất lượng. Trong thực tiễn công tác huấn luyện, đào tạo và tuyển
chọn VĐV, công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học đã áp dụng nhiều
phương pháp, phương tiện huấn luyện, các thiết bị nghiên cứu hiện đại. Trong
đó các huấn luyện viên và các nhà chuyên môn, các nhà khoa học đã và đang nỗ
lực tiếp cận, ứng dụng kiến thức và các phương tiện nghiên cứu y sinh học vào
trong thực tiễn của mọi lĩnh vực hoạt động thể thao. Thực tiễn này đã cho thấy
nhu cầu cần thiết của việc đào tạo cử nhân ngành y sinh học TDTT góp phần
đáp ứng một phần nhu cầu của thực tiễn công tác TDTT ở nước ta trong giai
đoạn mới.
Xuất phát từ chính sự bất cập giữa nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn công tác
TDTT với năng lực đào tạo còn hạn chế do thiếu kinh nghiệm đào tạo, CTĐT
mang tính chủ quan, chưa bám sát nhu cầu thực tiễn của xã hội trong tiến trình
xây dựng mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo, phương pháp và kế hoạch giảng
dạy, đặc biệt là chưa xác định được đầy đủ các chỉ tiêu, cũng như chưa xây dựng
được hệ thống tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả CTĐT và trình độ năng lực chuyên
môn của cử nhân Y sinh học TDTT đã cho thấy vấn đề kiểm chứng hiệu quả đào
tạo và phát triển CTĐT có hiệu quả đã trở nên cấp thiết. Vấn đề xây dựng và đổi
mới CTĐT trong các lĩnh vực khác nhau của thực tiễn công tác TDTT đã có một
số công trình nghiên cứu, tiêu biểu như tác giả Phạm Đình Bẩm (2003), “
Nghiên cứu ứng dụng các phương pháp giảng dạy đại học nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo của trường đại học TDTTI”[1]; Nguyễn Cẩm Ninh (2011),
“Nghiên cứu xây dựng nội dung giảng dạy cho cử nhân quản lý TDTT”[38];
Nguyễn Thị Toàn (2010), “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất định hướng đổi
mới CTĐT bậc đại học cho học viên hệ vừa làm vừa học chuyên ngành sư phạm
TDTT trường Đại học Sư phạm Hà Nội”[46]; Trần Vũ Phương (2015) “Ứng
dụng chương trình đổi mới đào tạo chuyên ngành Giáo dục thể chất trình độ cao
đẳng ở trường Cao đẳng Tuyên Quang”[39]. …Các đề tài đã đánh giá được thực
trạng công tác đào tạo của các cơ sở đào tạo, đồng thời đề xuất các giải pháp đổi
mới góp phần nâng cao hiệu quả công tác đào tạo trong thời gian qua. Tuy nhiên
4
việc khảo sát và đánh giá hiệu quả công tác đào tạo ngành Y sinh học TDTT non
trẻ vẫn chưa có tác giả nào đề cập tới. Xuất phát từ các lý do trên, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài:
“ NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
CỬ NHÂN NGÀNH Y SINH HỌC TDTTT”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở kết quả xác định khung các kiến thức và kỹ năng chuyên môn
cần trang bị cho cử nhân Y sinh học TDTT, kết quả đánh giá thực trạng hiệu quả
CTĐT và mức độ đáp ứng nhu cầu thực tiễn của cử nhân y sinh học TDTT, đề
tài tiến hành lựa chọn và xây dựng các nội dung hoàn thiện CTĐT theo hướng
đáp ứng yêu cầu của xã hội về năng lực chuyên môn của cán bộ y sinh học
TDTT trong giai đoạn mới. Đồng thời đề tài lựa chọn và xác định các tiêu chí và
xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá năng lực chuyên môn của cử nhân y sinh
học TDTT nhằm tạo lập cơ sở đánh giá thống nhất về mặt bằng trình độ chung
và chất lượng đào tạo cử nhân y sinh học TDTT được đào tạo tại các cơ sở đào
tạo trong cả nước.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài giải quyết các nhiệm
vụ:
Nhiệm vụ 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn đánh giá hiệu quả CTĐT
cử nhân ngành y sinh học TDTT.
Nhiệm vụ 2. Đánh giá thực trạng hiệu quả CTĐT cử nhân y sinh học
TDTT.
Nhiệm vụ 3. Đề xuất nội dung đổi mới nâng cao hiệu quả CTĐT cử nhân
y sinh học TDTT.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Quá trình nghiên cứu luận án đã hệ thống hóa lý thuyết các mô hình phát
triển chương trình, đánh giá hiệu quả chương trình, các tiêu chuẩn và tiêu chí
đánh giá trình độ chuyên môn của cử nhân Y sinh học TDTT, cũng như đổi mới
được chương trình đào tạo cử nhân Y sinh học TDTT theo hướng tích cực hóa
5
và đáp ứng nhu cầu xã hội.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Luận án đã đánh giá được thực trạng hiệu quả CTĐT và thực trạng năng
lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu công tác của cán bộ Y sinh học TDTT đã được
trường Đại học TDTT Bắc Ninh đào tạo.
Luận án đã nghiên cứu lựa chọn được các nội dung đổi mới CTĐT ngành
Y sinh học TDTT tại trường Đại học TDTT Bắc Ninh:
Nội dung 1: Đổi mới mục tiêu đào tạo
Nội dung 2: Đổi mới về nội dung chương trình
Nội dung 3: Đổi mới tổ chức đào tạo
Nội dung 4: Đổi mới phương thức tuyển sinh
Nội dung 5: Tăng cường liên kết đào tạo các lĩnh vực về chuyên ngành Y
học TDTT
Luận án đã xây dựng được chương trình đào tạo đổi mới ngành Y sinh
học TDTT căn cứ vào các quy định của nhà nước và ý kiến của các chuyên gia,
nhà tuyển dụng, người học, sinh viên đã ra trường.
6
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục đào
tạo bậc đại học
Giáo dục đại học hiện nay ở nước ta nhận được sự quan tâm rất lớn của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Để giáo dục đại học phát triển chính phủ đã chỉ
đạo bằng văn bản để định hướng phát triển cụ thể: Hoàn thiện cơ cấu hệ thống
giáo dục nghề nghiệp và đại học; điều chỉnh cơ cấu ngành nghề và trình độ đào
tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh
tế - xã hội; đào tạo ra những con người có năng lực sáng tạo, tư duy độc lập,
trách nhiệm công dân, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp, năng lực ngoại ngữ, kỷ
luật lao động, tác phong công nghiệp, năng lực tự tạo việc làm và khả năng thích
ứng với những biến động của thị trường lao động và một bộ phận có khả năng
cạnh tranh trong khu vực và thế giới. Đến năm 2020, các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp có đủ khả năng tiếp nhận 30% số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở; tỷ
lệ lao động qua đào tạo nghề nghiệp và đại học đạt khoảng 70%; tỷ lệ sinh viên
tất cả các hệ đào tạo trên một vạn dân vào khoảng 350 – 400 [44].
Nghị quyết 29 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã đề ra định hướng dổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đối với đại học đã có định hướng
cụ thể “Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi
dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức,
sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ
cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực
quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và
quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công
nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội
nhập quốc tế”. [5]
Đây là kim chỉ nam đối với đổi mới trong các trường đại học từ đó các
trường có những hành động cụ thể đối với việc đổi mới để đáp ứng được đào tạo
chất lượng nguồn nhân lực trong tình hình mới.
7
1.2. Quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển TDTT
Đường lối, quan điểm của Đảng về công tác TDTT, được hình thành ngay
từ những năm đầu của cách mạng nước ta, đã từng bước được bổ sung, hoàn
chỉnh phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn cách mạng và luôn luôn
là kim chỉ nam cho sự phát triển của nền TDTT nước nhà.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX trình
bày tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng về TDTT đã nêu rõ: Xây
dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam,
tăng cường tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nòi. Tăng cường thể lực của
thanh niên. Phát triển mạnh TDTT, kết hợp tốt thể thao phong trào và thể thao
thành tích cao, dân tộc và hiện đại. Có chính sách và cơ chế phù hợp để phát
hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng, đưa thể thao nước ta đạt vị trí cao của khu
vực, từng bước tiếp cận với châu lục và thế giới [3].
Nghị quyết 08 của Bộ chính trị khóa XI đã khẳng định “Tiếp tục hoàn
thiện bộ máy tổ chức, đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thể
dục, thể thao; tăng cường cơ sở vật chất, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công
nghệ làm nền tảng phát triển mạnh mẽ và vững chắc sự nghiệp thể dục thể thao;
đến năm 2020, phấn đấu 90% học sinh, sinh viên đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân
thể; các trường học, xã, phường, thị trấn, khu công nghiệp có đủ cơ sở vật chất
thể dục, thể thao phục vụ việc tập luyện của nhân dân; trình độ một số môn thể
thao trọng điểm được nâng cao ngang tầm Châu Á và thế giới; bảo đảm các điều
kiện để sẵn sàng đăng cai tổ chức thành công các sự kiện thể thao lớn của Châu
Á và thế giới”[4].
Các quan điểm của Đảng về phát triển TDTT là những định hướng cơ bản
để xác định vị trí và mối quan hệ của toàn bộ sự nghiệp TDTT đối với các lĩnh
vực kinh tế, văn hoá, xã hội...các mối quan hệ nội tại của TDTT. Vì vậy đó
chính là các cơ sở để lựa chọn, xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp để
xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp TDTT trong một thời kỳ
tương đối dài.
8
1.3. Công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
Thể dục thể thao trong giai đoạn hiện nay
Luật TDTT quy định tại khoản 2 Điều 6 về công tác tổ chức, chỉ đạo, đào
tạo, bồi dưỡng nhân lực cho phát triển TDTT là một trong những nội dung quan
trọng của quản lý nhà nước về TDTT. Để đảm bảo phát triển sự nghiệp TDTT
theo đúng định hướng, không ngừng nâng cao chất lượng các hoạt động TDTT,
đòi hỏi phải có nguồn nhân lực rất lớn, đa dạng, phong phú bao gồm nhiều lực
lượng lao động khác nhau về chuyên môn nghiệp vụ và trình độ đào tạo từ cán
bộ quản lý cấp cao ở trung ương đến cán bộ quản lý ở cơ sở [42].
Từ cán bộ giảng viên đại học đến giáo viên tiểu học, mầm non, từ huấn
luyện viên đội tuyển quốc gia đến hướng dẫn viên thể thao ở cơ sở và các cán bộ
chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ khoa học thuộc các lĩnh vực chuyên ngành có
liên quan cho đến các lực lượng lao động kinh doanh dịch vụ khác tác nghiệp
trong lĩnh vực TDTT. Vì vậy Nhà nước ban hành các chính sách và thống nhất
quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực nhằm đáp ứng được yêu cầu phát
triển sự nghiệp TDTT [42].
Nhà nước chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho TDTT
dựa trên chiến lược đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế
xã hội của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở chiến lược chung đó, cơ quan quản lý
nhà nước về thể dục, thể thao ở trung ương có trách nhiệm xây dựng và tổ chức
thực hiện quy hoạch , kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực TDTT chung cho toàn
quốc phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội từng thời kỳ theo từng đối tượng,
vùng lãnh thổ. Quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng phát triển nguồn nhân
lực được xây dựng một cách tổng thể và chi tiết theo những tiêu chí đáp ứng
nhu cầu phát triển sự nghiệp TDTT của cả thời kỳ và từng giai đoạn đã được xác
định trong chiến lược và quy hoạch phát triển TDTT của đất nước [11], [42].
Đặc biệt chú trọng ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho các vùng có điều
kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn bằng nguồn kinh phí từ ngân sách do các
cơ quan nhà nước chủ trì thực hiện. Cơ quan quản lý hành chính Nhà nước về
9
TDTT các cấp chịu trách nhiệm tham mưu, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng nhân lực TDTT cho các đối tượng thuộc các ngành,
lĩnh vực, vùng, miền do địa phương được phân cấp quản lý như: tổ chức và chỉ
đạo công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, giáo viên TDTT cho các nhà
trường và cơ sở giáo dục đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tổ chức và
chỉ đạo công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cộng tác viên thể thao cơ sở. Tổ
chức và chỉ đạo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ HLV và cán bộ quản lý thể thao
trong lực lượng vũ trang trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ thể thao
[3], [42]. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho TDTT mang tính đặc thù
của hoạt động thể thao là nhằm điều khiển sự phát triển thể chất nâng, cao sức
khoẻ của con người, có tác dụng giáo dục nâng cao khả năng thành tích tối đa
của con người nên đòi hỏi phải dựa trên cơ sở khoa học của nhiều chuyên ngành
khác nhau về con người như y sinh học, tâm lý học, đạo đức học, xã hội
học...[47]. Do đó, để đào tạo được nguồn nhân lực TDTT có chất lượng trước
hết phải đào tạo và bồi dưỡng được đội ngũ cán bộ giảng viên có trình độ cao
thuộc nhiều lĩnh vực làm nhiệm vụ nghiên cứu, đào tạo tại các cơ sở đào tạo,
nghiên cứu trọng điểm của Nhà nước nơi đào tạo ra đội ngũ cán bộ quản lý,
HLV, giáo viên, giảng viên, cán bộ y sinh học TDTT và bác sỹ thể thao có trình
độ chuyên môn giỏi. Nhà nước ban hành chính sách đào tạo bồi dưỡng và thu
hút các nhà khoa học đầu ngành về làm việc tại các cơ sở đào tạo này [42].
Chính sách đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực luôn luôn gắn kết không
thể tách rời với chính sách sử dụng cán bộ, lao động hợp lý, đãi ngộ và trả công
tương xứng cho từng vị trí công việc được đảm trách. Nhà nước giữ vai trò chủ
đạo trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho
TDTT, đồng thời chỉ đạo các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp TDTT [2].
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng nhân lực cho TDTT nêu
trên, cơ quan quản lý nhà nước về TDTT ở trung ương có trách nhiệm phối hợp
với các bộ ngành có liên quan như: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động,
10
Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch
đầu tư, Bộ Tài chính… giúp Chính phủ xây dựng quy hoạch mạng lưới các cơ
sở đào tạo cán bộ, HLV, giáo viên GDTC trong cả nước, quản lý thống nhất
chương trình khung đào tạo cán bộ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ về thể thao ở
các cấp độ khác nhau đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động trong các cơ sở
thể thao [53]. Nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích các cơ sở đào tạo
ngoài công lập đào tạo nhân lực cho thể thao trên cơ sở thực hiện quy hoạch
chung thống nhất. Liên doanh liên kết với các cơ sở đào tạo cán bộ thể thao
nước ngoài để hợp tác đào tạo cán bộ khoa học, nhất là ở các lĩnh vực mà Việt
Nam còn thiếu hoặc còn yếu.
Cơ quan quản lý nhà nước về TDTT chỉ đạo và phối hợp với các tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp về thể thao, mà trước hết và chủ yếu là với
Uỷ ban Olympic Việt Nam và các Liên đoàn thể thao quốc gia tổ chức đào tạo
và bồi dưỡng cán bộ quản lý thể thao, kinh doanh hoạt động thể thao, huấn
luyện viên, hướng dẫn viên, kỹ thuật viên chăm sóc sức khoẻ, phục hồi chức
năng, cứu hộ, cứu đuối và các loại nhân viên phục vụ khác. Việc chỉ đạo và kết
hợp với các tổ chức xã hội và các cơ sở đào tạo ngoài công lập nhằm thực hiện
chính sách xã hội hoá trong đào tạo bồi dưỡng nhân lực có trình độ, đủ tiêu
chuẩn đáp ứng nhu cầu của công tác thể thao phù hợp với điều kiện kinh tế xã
hội ở từng vùng, miền và từng đối tượng khác nhau [42].
Như vậy, Nhà nước đã có sự chỉ đạo về bồi dưỡng nguồn nhân lực cho
Ngành TDTT thông qua các văn bản như Chỉ thị 17/CT-TW ngày 23-10-2002
về phát triển TDTT đến năm 2010, Luật TDTT 2006... từ đó Ngành TDTT có
chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho ngành của mình nhằm phát triển nền
TDTT của nước ta.
1.4. Khái quát về lịch sử phát triển, công tác đào tạo cán bộ TDTT tại
trường Đại học TDTT Bắc Ninh
1.4.1. Khái quát về lịch sử phát triển, công tác đào tạo cán bộ Thể dục
Thể thao tại trường Đại học Thể dục Thể thao Bắc Ninh
11
Trường Đại học TDTT Bắc Ninh là loại hình công lập trong hệ thống giáo
dục đại học Việt Nam. Nhà trường được coi như cơ sở số 1 về đào tạo cán bộ
TDTT từ trình độ cử nhân trở lên, xúc tiến công tác nghiên cứu khoa học
(NCKH) của trường và ngành, làm điểm tựa cho các cơ sở, trường đào tạo cán
bộ TDTT khác. Ngoài ra trường còn được chọn là nơi đào tạo VĐV trẻ cho đất
nước [48].
Với bề dày hơn 50 năm trưởng thành và phát triển, các nhà khoa học và
lực lượng nòng cốt của các trường Đại học TDTT trên phạm vi cả nước, các
khoa GDTC của các trường đại học và cao đẳng trong cả nước đều hầu hết được
đào tạo ở trường Đại học TDTT Bắc Ninh. Sinh viên của Trường được trang bị
kiến thức tương đối toàn diện về các lĩnh vực khoa học xã hội, khoa học tự
nhiên, khoa học Mác Lê nin, y sinh học và những kiến thức chuyên ngành
TDTT. Từ đó cán bộ tốt nghiệp có tri thức vững về chính trị, đạo đức và chuyên
môn, có khả năng tổ chức vận động phong trào, tổ chức huấn luyện giảng dạy và
bồi dưỡng hướng dẫn viên thể thao nhằm tạo mạng lưới rộng khắp về cán bộ đáp
ứng mục tiêu GDTC và rèn luyện thể chất của người dân, phát triển con người
toàn diện, tạo lực lượng sản xuất góp phần phát triển xã hội [49], [50]. Việc đáp
ứng cán bộ TDTT cho nhu cầu xã hội còn làm tăng giá trị văn hoá, tinh thần, tạo
một cuộc sống lành mạnh đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Trường đại học TDTT Bắc
Ninh ngoài là nơi đào tạo cán bộ TDTT cho đất nước, còn là nơi xúc tiến
NCKH, ứng dụng khoa học kỹ thuật và chuyển giao kết quả nghiên cứu, là nơi
có tương đối đủ nhân lực, phương tiện khoa học kỹ thuật để nghiên cứu thực
tiễn, đúc kết thực tiễn thành lý luận và lấy lý luận để soi chiếu thực tiễn [48].
Với sự định hướng đúng đắn về mục tiêu và nhiệm vụ đào tạo của Nhà
trường, trong những năm qua trường Đại học TDTT Bắc Ninh đã đạt được kết
quả đáng kể về công tác đào tạo. Về quy mô đào tạo, lưu lượng sinh viên các hệ
trong nhà trường đạt 5.000 sinh viên, trong đó: đại học chính quy 3.200 sinh
viên, đại học vừa làm vừa học 1200 sinh viên; hoàn thiện đại học quy đổi đạt
600 học viên, cao học và nghiên cứu sinh trên 400 học viên. Trong điều kiện
12
hiện nay định hướng của lãnh đạo nhà trường là nâng cao chất lượng đào tạo, vì
vậy, chất lượng cán bộ được nhà trường đào tạo đã nhận được sự khẳng định và
đánh giá tốt của các cơ sở sử dụng cán bộ, nâng cao uy tín trong hệ thống các
trường đào tạo cán bộ TDTT ở Việt Nam [53], [49], [52].
1.4.2. Khái quát về ngành y sinh học Thể dục Thể thao và công tác đào
tạo cán bộ y sinh học Thể dục Thể thao tại trường Đại học Thể dục Thể thao
Bắc Ninh.
Ngày nay, thành tích thể thao với kỷ lục luôn được lập rồi lại bị “xô đổ”
trong thời gian ngắn, điều đó có được là nhờ việc ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào trong quá trình tuyển chọn và huấn luyện thể thao. Việc sử dụng các phương
pháp, phương tiện y sinh học TDTT ngày càng nhiều hơn và đem lại hiệu quả
đáng kinh ngạc trong việc nâng cao thành tích thể thao. Ở các nước có nền
TDTT phát triển như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga ... khoa học y sinh học TDTT
luôn được đầu tư phát triển nhằm phục vụ cho quá trình tập luyện, huấn luyện
thể thao và thi đấu TDTT.
Ở nước ta hiện nay, việc ứng dụng các phương pháp, phương tiện trong y
sinh học TDTT còn chưa được áp dụng phổ cập, số lượng bác sỹ TDTT và cán
bộ y sinh học TDTT còn rất hạn chế, do vậy việc hỗ trợ quá trình tập luyện,
huấn luyện và thi đấu thể thao còn chưa đáng kể đã dẫn đến thành tích thể thể
thao còn khiêm tốn so với các nước có nền TDTT phát triển. Cho đến trước năm
2007 chưa có cơ sở đào tạo TDTT nào đào tạo lực lượng cán bộ y sinh học
TDTT đã tạo ra sự thiếu hụt rất lớn trong thực tiễn công tác TDTT ở Việt Nam.
Trước thực tế đó Trường Đại học TDTT Bắc Ninh đã mở ngành đào tạo
mới và thành lập Khoa Y sinh học TDTT vào ngày 04 tháng 9 năm 2007, (trước
đây Trường đã đào tạo cán bộ y sinh học TDTT được ba khoá với ba lớp chuyên
sâu y học 12, 13 và 14) với mục tiêu đào tạo:
Về kiến thức:
Trang bị cho sinh viên kiến thức ngành y sinh học TDTT đáp ứng yêu
cầu của công tác huấn luyện, góp phần nâng cao trình độ huấn luyện và thành
13
tích thể thao. Có đủ kiến thức cơ bản trong chẩn đoán, điều trị và phòng ngừa
chấn thương, bệnh lý xuất hiện trong hoạt động TDTT.
Về kỹ năng:
Biết vận dụng những kiến thức y sinh học TDTT vào thực tiễn công tác
giảng dạy và huấn luyện TDTT. Có kỹ năng tổ chức các hoạt động y tế trong tập
luyện và thi đấu thể thao. Ứng dụng thành thạo các thành tựu khoa học kỹ thuật
y học tiên tiến vào trong công tác chẩn đoán, điều trị chấn thương, phục hồi
chức năng cho người tập, tuyển chọn VĐV và phục vụ công tác nghiên cứu khoa
học. Việc mở thêm ngành đào tạo y sinh học TDTT phần nào giải quyết đã sự
thiếu hụt về cán bộ y sinh học TDTT cho ngành TDTT nước ta hiện nay [51].
1.5. Một số khái niệm cơ bản trong xây dựng chương trình đào tạo và quả
chương trình đào tạo
1.5.1. Một số khái niệm cơ bản trong xây dựng chương trình đào tạo
Ở Việt Nam, khái niệm “Chương trình khung” chỉ mới xuất hiện lần đầu
tiên trên Luật giáo dục (1998), với việc Quốc hội thông qua Luật Giáo dục.
Phương thức quản lý CTĐT tại các cơ sở đào tạo được điều chỉnh theo hướng
tăng trách nhiệm quản lý ở cấp Bộ, không chỉ quy định đến khung chương trình
mà phải nắm đến tận chương trình khung của tất cả các ngành đào tạo [43] .
Chương trình khung: Là văn bản Nhà nước ban hành cho từng ngành đào
tạo cụ thể, trong đó quy định cơ cấu nội dung môn học, thời gian đào tạo, tỷ lệ
phân bố thời gian đào tạo giữa các môn học cơ bản và chuyên môn, giữa lý
thuyết và thực hành, thực tập. Nó bao gồm khung chương trình cùng với những
nội dung cốt lõi, chuẩn mực tương đối ổn định theo thời gian và bắt buộc phải
có trong CTĐT của tất cả các trường. Căn cứ vào chương trình khung, các
trường xác định CTĐT của trường mình. Khác với chương trình khung, CTĐT
có thể hàm chứa kiến thức từ một ngành hoặc từ một số ngành [6].
Với khái niệm nêu trên có thể nhận thấy ý nghĩa tương đồng trong thuật
ngữ của J.M. Shafritz, 1988, cho rằng “chương trình khung” là những quy định
chung về nội dung đào tạo cho tất cả các học sinh, sinh viên thuộc một ngành
14
học cụ thể, cũng tương tự như khái niệm của giáo dục Đại học quốc tế và giáo
dục Đại học Nga hiện nay [57].
Khung chương trình: Là văn bản nhà nước quy định khối lượng kiến thức
tối thiểu và cơ cấu kiến thức cho các CTĐT. Khung chương trình xác định sự
khác biệt về chương trình tương ứng với các trình độ đào tạo khác nhau.
Khái niệm CTĐT: Là văn bản chính thức quy định mục đích, mục tiêu,
yêu cầu, nội dung kiến thức và kỹ năng, cấu trúc tổng thể các bộ môn, kế hoạch
lên lớp và thực tập theo từng năm học, tỷ lệ giữa các bộ môn, giữa lý thuyết và
thực hành, quy định phương thức, phương pháp, phương tiện, cơ sở vật chất,
chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp của cơ sở giáo dục và đào tạo [54].
Theo Wentling (1993): CTĐT là một bản thiết kế tổng thể cho một hoạt
động đào tạo (khoá đào tạo) cho biết toàn bộ nội dung cần đào tạo, chỉ rõ những
gì có thể trông đợi ở người học sau khoá đào tạo, phác thảo ra quy trình cần thiết
để thực hiện nội dung đào tạo, các phương pháp đào tạo và cách thức kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập và tất cả những cái đó được sắp xếp theo một thời gian
biểu chặt chẽ.
Theo Tyler (1949) cho rằng, CTĐT về cấu trúc phải có 4 Phần cơ bản :
Mục tiêu đào tạo;
Nội dung đào tạo;
Phương pháp hay quy trình đào tạo;
Cách đánh giá kết quả đào tạo.
Như vậy CTĐT hay chương trình giảng dạy không chỉ phản ánh nội dung
đào tạo mà là một văn bản hay bản thiết kế thể hiện tổng thể các thành phần của
quá trình đào tạo, điều kiện, cách thức, quy trình tỏ chức, đánh giá các hoạt động
đào tạo để đạt được mục tiêu đào tạo.
1.5.2. Hiệu quả chương trình đào tạo
Khái niệm hiệu quả:
Nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản trị học quan niệm hiệu quả là một tương
quan so sánh giữa kết quả đạt được theo mục tiêu đã được xác định với chi phí
15
bỏ ra để đạt được kết quả đó. Theo Manfred Kuhn: “Tính hiệu quả được xác
định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh”
[58]. Từ các quan điểm trên có thể hiểu một cách khái quát “hiệu quả là phạm
trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (nhân, tài, vật lực, tiền vốn) để đạt
được mục tiêu xác định. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể được đánh
giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét xem với mỗi sự hao phí
nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Hiệu quả phản ánh mặt
chất lượng các hoạt động, trình độ lợi dụng các nguồn lực trong sự vận động
không ngừng của các quá trình, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến
động của từng nhân tố” [58]. Hiệu quả có thể được đánh giá ở nhiều góc độ, đối
tượng, phạm vi và các thời kỳ khác nhau. Tuỳ vào từng góc độ cụ thể mà phân
biệt các loại hiệu quả khác nhau như hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế, hiệu quả
kinh tế - xã hội, hiệu quả kinh doanh, hiệu quả đầu tư, hiệu quả ngắn hạn, hiệu
quả dài hạn ...
Hiệu quả đào tạo: Khi nói đến hiệu quả là nói đến góc nhìn của nhà đầu
tư. Các nhà đầu tư chính cho đào tạo là người học và gia đình, cơ sở đào tạo,
Nhà nước và xã hội. Ở mỗi cấp độ, quan niệm về hiệu quả đào tạo của các nhà
đầu tư có khác nhau.
Ở cấp độ cá nhân người học và phụ huynh, hiệu quả đào tạo thể hiện ở
“giá trị gia tăng” về kiến thức, kỹ năng họ nhận được sau quá trình đào tạo, giúp
họ có việc làm, thành đạt trong cuộc sống và có khả năng thích ứng với những
thay đổi. Học nghề mà không có cơ hội hành nghề, cơ may phát triển, kỹ năng
đủ để thích ứng với những thay đổi trong thị trường lao động và cuộc sống thì
khó có thể nói là có hiệu quả.
Ở cấp độ cơ sở đào tạo, hiệu quả đào tạo thể hiện ở chỗ sử dụng hiệu quả
các nguồn lực đào tạo đem lại kết quả đào tạo (số lượng, chất lượng, công tác hỗ
trợ trong đào tạo và cơ cấu sinh viên tốt nghiệp) tốt nhất có thể.
Ở cấp độ nhà nước và xã hội, hiệu quả đào tạo nghề thể hiện ở chỗ đầu tư
của nhà nước và xã hội đảm bảo cung cấp được nguồn nhân lực có chất lượng,
16
quy mô đủ lớn tương xứng với nguồn lực đầu tư, cơ cấu phù hợp với nhu cầu mà
nền kinh tế cần. Thiếu hoặc thừa về số lượng, chất lượng không đảm bảo, cơ cấp
không phù hợp với nhu cầu của kinh tế-xã hội đều là lãng phí và không hiệu
quả.
Như vậy có thể thấy, hiệu quả có quan hệ mật thiết với chất lượng. Không
có chất lượng thì khó có thể sử dụng, khó đem lại hiệu quả. Trong thế giới việc
làm cũng cần quan tâm đến việc sử dụng và phát huy đầy đủ chất lượng đào tạo
nghề; việc sử dụng không hết chất lượng, hay giá trị tích lũy về kiến thức và kỹ
năng của người học- thường được xem là khiếm dụng cũng là một biểu hiện của
không hiệu quả. Có thể thấy trong thị trường lao động hiện nay, nhiều sinh viên
tốt nghiệp đại học mà phải đi làm công việc của lao động phổ thông hoặc loại
hình công việc không đòi hỏi trình độ cư nhân là một sự lãng phí của người học
và gia đình, nhà nước và xã hội. Hiệu quả đào tạo cũng có thể xem xét dưới góc
độ hiệu quả trong (trong quá trình đào tạo) - những kết quả học tập, rèn luyện
của người học tại cơ sở đào tạo và hiệu quả ngoài (kết quả sau khi đào tạo) - khả
năng đóng góp của người học vào sự nghiệp phát triển đời sống kinh tế - xã hội
bằng công ăn việc làm cụ thể, bằng sự thích ứng với thực tiễn, phát huy và phát
triển được nghề nghiệp của bản thân sau khi được đào tạo.
Từ những phân tích trên có thể hiểu, hiệu quả của CTĐT tạo chính là chất
lượng đào tạo mang lại cho người học và kết quả tốt đẹp (lợi ích mang lại) của
cơ sở đào tạo khi triển khai thực hiện CTĐT (bao gồm vận hành, tổ chức và
công tác hỗ trợ thực hiện CTĐT) và khả năng đóng góp phát huy phát triển ngề
nghiệp của bản thân của người học sau khi được đào tạo.
1.6. Tổng quan cơ sở lý luận phát triển chương trình đào tạo cử nhân
ngành y sinh học Thể dục Thể thao
1.6.1. Nguyên tắc và những yêu cầu cụ thể khi xây dựng chương trình
đào tạo
1.6.1.1 Nguyên tắc quán triệt mục tiêu
17
Quá trình xây dựng CTĐT cử nhân ngành y sinh học TDTT có những
nguyên tắc sau [15], [17]:
Thứ nhất: Mục tiêu các môn học phải là bộ phận hữu cơ của mục tiêu đào
tạo cử nhân ngành Y sinh học TDTT, có nghĩa phải thể hiện mức độ, định
hướng yêu cầu của nghề nghiệp, phải chịu chi phối của đặc điểm, tính chất công
việc.
Thứ hai: Mục tiêu thể hiện ở hai mức độ là mục tiêu chung và mục tiêu cụ
thể, đáp ứng được yêu cầu trên hai mặt giáo dục và giáo dưỡng là: Đào tạo kỹ
năng nghề nghiệp, giáo dục nhân cách và phẩm chất cho học sinh. Mục tiêu của
nội dung quy định những giá trị đạt được cho học sinh sau quá trình học tập, do
vậy mục tiêu chi phối trực tiếp và toàn diện quá trình đào tạo cũng xuất phát từ
mục tiêu nội dung đào tạo phải giải quyết tốt hai nhiệm vụ cơ bản giáo dục và
giáo dưỡng nêu trên [16], [35].
1.6.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học
Tính khoa học của việc thiết kế xây dựng nội dung CTĐT cử nhân ngành
Y sinh học TDTT, những cán bộ TDTT thực hiện chức năng chăm sóc sức khỏe
cho người tập luyện TDTT phải được thể hiện ở hai mặt [35]:
Lựa chọn nội dung giảng dạy: Nội dung giảng dạy được lựa chọn cần cập
nhật những tiến bộ khoa học và nhu cầu của xã hội, phù hợp với những điều
kiện thực tiễn của nhà trường, nội dung phải phù hợp với đối tượng, tính chất
công việc và đặc điểm của ngành đào tạo, phải giải quyết được hai vấn đề cơ
bản của giáo dục đào tạo là trang bị cho học sinh tri thức cần thiết và đáp ứng
được yêu cầu xã hội [37].
Sắp xếp nội dung chương trình: Nội dung CTĐT được sắp xếp phải đảm
bảo tính kế thừa, nội dung sau phải kế thừa nội dung trước. Đối với những học
phần, tín chỉ thuộc khối kiến thức cơ bản thì giảm thời lượng để dành cho những
học phần khối kiến thức ngành của chương trình. Lựa chọn nội dung giảng dạy
phù hợp, đảm bảo những kiến thức theo yêu cầu chuyên môn nghề nghiệp, trang
18
bị những kỹ năng cơ bản trong công tác TDTT đáp ứng yêu cầu của thực tiễn
[19], [40].
1.6.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất
Tính thống nhất giữa mục tiêu, nội dung và kế hoạch đào tạo của CTĐT
cử nhân ngành Y sinh học TDTT, sự thống nhất giữa nội dung giảng dạy phải
phù hợp với mục tiêu đào, được thể hiện bằng sự giải quyết hợp lý giữa yêu cầu
về nội dung giảng dạy với kiến thức và năng lực cần được trang bị cho sinh viên
ngành y sinh học TDTT. Nội dung giảng dạy phù hợp với những điều kiện thực
tiễn của nhà trường, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, xu
thế phát triển của khoa học công nghệ của nền sản xuất hiện đại…[6].
1.6.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn
Khi xác định nội dung giảng dạy cử nhân ngành y sinh học TDTT cần
phải căn cứ vào thực tiễn hoàn cảnh cụ thể của giáo dục đại học của đất nước ta,
những yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực của đất nước với đội ngũ cán bộ
TDTT tương lai đáp ứng được những yêu cầu về công tác chăm sóc sức khỏe,
nghiên cứu khoa học trong các hoạt động TDTT. Tuy nhiên tính thực tiễn của
nội dung giảng dạy cũng cần đặt trong mối tương quan giữa trình độ giáo dục cử
nhân ngành y sinh học TDTT của Việt Nam với khu vực và thế giới với những
điều kiện đảm bảo như giáo viên, cơ sở vật chất… nhằm đảm bảo cho việc thực
thi nội dung giảng dạy [10].
Tính thực tiễn của nội dung CTĐT còn thể hiện yêu cầu người học khi kết
thúc chương trình phải có đủ khả năng phân tích được những vấn đề đặt ra trong
thực tiễn, giải quyết nó bằng những kỹ năng nghề nghiệp đã được trang bị.
1.6.1.5. Nguyên tắc đảm bảo tính sư phạm
Nguyên tắc này được thể hiện ở các yêu cầu cụ thể sau:
Một là, lựa chọn nội dung giảng dạy: Nội dung lựa chọn để xây dựng
chương trình chi tiết cho từng học phần phải được xác định ở ba loại hình kiến
thức: kiến thức nền tảng (cốt lõi); kiến thức chuyên ngành (nghề nghiệp); kiến
thức về phương pháp. Như vậy có thể thấy rằng, nội dung chương trình phải quy
19
nạp tổng thể kiến thức toàn diện, phù hợp với yêu cầu của mục tiêu đào tạo
trong từng ngành nghề đào tạo, ngoài ra chương trình còn phải có tính thực tiễn
và hiện đại [12], [11].
Hai là, Cấu trúc nội dung chương trình: Nội dung giảng dạy được sắp xếp
đảm bảo tính kế thừa và phát triển, đảm bảo tính liên tục của quá trình nhận
thức, nội dung. Nội dung cũng phải đảm bảo tính tuần tự, sắp xếp từ dễ đến khó,
từ đơn giản đến phức tạp, từ kiến thức nền tảng đến kiến thức chuyên ngành
[22].
Ba là, Phương pháp giảng dạy: Phương pháp lựa chọn để giảng dạy nội
dung là sự kết nối mang tính sư phạm truyền thụ và khả năng tiếp thu lĩnh hội
của người học, đảm bảo cho quá trình nhận thức tư duy của người học. Cần
trang bị cho người học nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau đặc biệt là áp
dụng phương pháp dạy học tích cực để người học được chủ động, sáng tạo, phát
huy năng lực tự học, tự chiếm lĩnh tri thức [0], [19].
Bốn là, Quá trình kiểm tra đánh giá: Quá trình đánh giá kết quả lao động
luôn được gắn liền với thực tiễn dạy và học, coi việc kiểm tra đánh giá luôn là
động lực thúc đẩy quá trình đào tạo, phải coi việc đánh giá là một phương pháp
hữu hiệu mang tính sư phạm cao trong quá trình đào tạo. Tuy vậy những tiêu chí
và tiêu chuẩn đánh giá phải được xây dựng trên nền tảng những nội dung kiến
thức đã được thiết kế trong nội dung giảng dạy, phải phù hợp với yêu cầu về
năng lực và tri thức cần trang bị cho người học, phải coi việc kiểm tra đánh giá
là động lực thúc đẩy quá trình học tập, chứ không phải là áp lực lớn đối với
người học [36].
1.6.2. Quan điểm đánh giá chương trình đào tạo hiện nay
Đánh giá CTĐT là một hoạt động quan trọng và thường xuyên trong các
trường đại học. Ở nhiều nước, đánh giá chương trình là một phần không thể
thiếu trong quá trình kiểm định nhà trường và kiểm định CTĐT. Thí dụ ở Mĩ
hay Canada, cùng với kiểm định chất lượng nhà trường, hầu hết các CTĐT đều
được kiểm định để đảm bảo rằng nhà trường đã đào tạo nguồn nhân lực có các
20
kiến thức, kĩ năng và phẩm chất đạo đức đáp ứng chuẩn nghề nghiệp do các hiệp
hội kiểm định nghề nghiệp đề ra và đáp ứng các yêu cầu của các ngành nghề
trong xã hội. Trong quá trình kiểm định chương trình thì các hoạt động và tiến
trình đánh giá chương trình đóng vai trò quan trọng cung cấp các bằng chứng
cần thiết cho việc kiểm định.
Đánh giá chương trình là sự thu thập cẩn thận các thông tin về một
chương trình hoặc một vài khía cạnh của một chương trình để ra các quyết định
cần thiết đối với chương trình [18].
Như vậy, đánh giá chương trình là những hoạt động có tính hệ thống, nằm
trong một tiến trình; các hoạt động này nhằm kiểm tra toàn bộ các khía cạnh hay
một khía cạnh của CTĐT: đầu vào của chương trình, các hoạt động thực hiện
chương trình, các nhóm khách hàng sử dụng chương trình, các kết quả (đầu ra)
và làm thế nào để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Ngày nay, dưới sự phát triển của kinh tế xã hội nhiều ngành mới nghề
mới được hình thành để đáp ứng nhu cầu xã hội. Từ thực tế trên đã có các quan
điểm khác nhau về đánh giá một CTĐT cả về mặt pháp lý của cơ quan nhà nước
ban hành và cả quan điểm của tổ chức cũng như cá nhân. Tuy nhiên, tổng hợp
các quan điểm đó cho thấy các quan điểm chung nhất trong đánh giá CTĐT
được trình bày dưới đây.
1.6.2.1. Quy định về đánh giá chương trình đào tạo
Để đánh giá chất lượng giáo dục của trường đại học thì việc đánh giá
CTĐT là một tiêu trí quan trọng được thể hiện trong quy định của Bộ Giáo dục
và Đào tạo.
Chương trình đào tạo của trường đại học được xây dựng theo các quy
định hiện hành do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; có sự tham khảo CTĐT
của các trường đại học có uy tín trong nước hoặc trên thế giới; có sự tham gia
của các nhà khoa học chuyên môn, giảng viên, cán bộ quản lý, đại diện của các
tổ chức xã hội - nghề nghiệp, nhà tuyển dụng lao động và người đã tốt nghiệp.