Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

BÁO cáo môn côn TRÙNG học lâm NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.76 KB, 5 trang )

ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ CỦA SÂU HẠI RỪNG
MỞ ĐẦU
Côn trùng chiếm vị trí quan trọng số một trong đa dạng sinh học và cân bằng
của mỗi hệ sinh thái. Côn trùng là lớp động vật nhiều loài nhất. Đến nay đã biết
khoảng trên 1,5 triệu loài côn trùng (con số này so với thực tế vẫn còn rất thấp),
chiếm đến ¾ số loài đã được ghi nhận của 60 lớp thuộc giới động vật. Số lượng cá
thể mỗi loài cũng rất lớn. Ví dụ, một tổ kiến ước tính có 50 vạn con, một tổ ong lớn
khoảng 8 vạn con.
Côn trùng hỗ trợ sinh sản cho nhiều loài thực vật. Côn trùng thụ phấn cho
khoảng 85% số loài thực vật hiển hoa khỏa tử (thực vật có hoa và bầu nhụy để lộ ra
ngoài). Vì vậy người ta cho rằng sự phát sinh của lớp côn trùng trên mặt đất đã làm
xuất hiện sau đó những thực vật loại này. Côn trùng là nguyên nhân tạo ra đa dạng
sắc màu và hương thơm của các loài hoa trên trái đất (thông qua lai tạo và chọn lọc
tự nhiên).
Côn trùng là mắt xích quan trọng trong dòng năng lượng và chu trình tuần hoàn
vật chất trong tự nhiên. Chúng ăn hầu hết các chất hữu cơ (nguồn gốc thực vật,
động vật, phân, xác chết và tàn dư động thực vật…) nên được coi là đội quân vệ
sinh thiên nhiên ở mọi nơi, tạo độ màu mỡ cho đất, tăng tính bền vững của hệ sinh
thái
Nhiều loài côn trùng gây hại cho tài nguyên rừng và các loại lâm sản. Các trận
dịch sâu ăn lá, sâu đục thân cành hại cây rừng thường gây tổn thất tới hàng triệu đô
la mỗi năm. Ở Trung Quốc: Cách đây gần 500 năm ở Trung Quốc đã xảy ra những
trận dịch sâu hại rừng. Năm 1530 dịch sâu róm thông (Dendrolimus punctatus)
xuất hiện ở Triết Giang và kéo dài trong 9 năm liền; ở tỉnh Giang Tô năm xuất hiện
năm 1599 và kéo dài trong 17 năm. Hiện nay, theo ước tính mỗi năm có khoảng 3
triệu ha rừng thông bị nhiễm dịch SRT và làm mất đi lượng tăng trưởng khoảng 5
triệu m3 gỗ (Peng, 1989). Loài sâu này cũng chính là loài có khả năng lan rộng và
phá hoại mạnh nhất ở 13 tỉnh miền Nam Trung Quốc (Ye, 1990). Tại Mỹ: Chỉ tính
riêng miền Tây Bắc nước Mỹ, số liệu thống kê cho thấy từ năm 1893 đến năm
1975 đã xảy ra nhiều trận dịch sâu hại rừng với những quy mô khác nhau. Các trận
dịch điển hình của một số loài sâu hại chủ yếu đã làm tổn thất một lượng gỗ là 46,4


tỷ fbm và diện tích rừng bị tàn phá nặng là: 87,94 triệu mẫu Anh (1 mẫu Anh = 0,4


ha). Ở Việt Nam: Từ năm 1958 đã xảy ra các trận dịch sâu róm thông đuôi ngựa
(Dendrolimus punctatus) trên diện rộng tại các tỉnh phía Bắc (Bắc Giang, Quảng
Ninh, Lạng Sơn, Vĩnh Phú, Thanh Hóa, Nghệ An…). Trong 5 thời gian gần đây
tình hình dịch côn trùng hại rừng có diễn biến khá phức tạp và không kém phần
nghiêm trọng (chẳng hạn sâu róm thông ở Bắc Trung bộ, ong ăn lá thông ở Tây
nguyên và dịch sâu róm hại cây rừng ngập mặn ở miền Tây Nam bộ...). Chỉ tính
riêng SRT, trong những năm xảy ra dịch diện tích rừng bị hại nặng thường lên tới
hàng vạn hécta. Tác hại của các trận dịch sâu hại rừng:
Đối với nhóm sâu ăn lá, nếu bị hại ở mức độ trung bình (20-50%) hoặc mức độ
nghiêm trọng (>50%) thì sẽ làm giảm tốc độ sinh trưởng và ảnh hưởng đến tính
chất gỗ như làm ngắn chiều dài sợi, có thể làm cây yếu đi và dễ bị hại bởi các tác
nhân khác (Elliott et al, 1998). Một vài loài cây hạt trần thường xanh dễ dàng bị
hủy diệt nếu bị làm trụi lá ngay trong thời kỳ hình thành chồi (Speight, Wylie,
2001).
Ở Trung Quốc, khi rừng thông bị SRT (D. punctatus) gây trụi lá nghiêm trọng
đã ảnh hưởng lớn đến lượng tăng trưởng và sản lượng nhựa hoặc chết cây hàng
loạt; sau khi bị trụi lá 100%, khoảng 25% số cây bị chết, tăng trưởng thể tích của
những cây còn sống sót bị giảm 31%. Những cây bị hại nghiêm trọng thường phải
mất 3 năm mới hồi phục. Đặc biệt, hiện tượng thối rễ ở loài thông P. elliottii ở
miền Nam Trung Quốc có liên quan đến hiện tượng trụi lá do D. punctatus gây ra.
Năm 1988, ở huyện Đức Khánh (Quảng Đông) rừng thông bị hại 40.000ha, lượng
nhựa giảm 6.510 tấn trị giá 7,81 triệu nhân dân tệ (0,935 triệu USD). Một năm SRT
phá hoại thì 3 năm không có nhựa, gỗ cành giảm sản lượng nghiêm trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Lông độc trên thân sâu non và trên kén
sâu khi tiếp xúc với con người làm cho da sưng tấy, viêm da và viêm khớp, nghiêm
trọng có thể làm mất khả năng lao động. Trâu bò ăn phải kén sâu có thể bị chết.
Ở Tasmania, rừng Bạch đàn (E. regnans) bị tấn công bởi bọ cánh cứng ăn lá

Chrysophtharta bimaculata làm suy giảm 45,6% tăng trưởng về chiều cao và
52,1% tăng trưởng về tiết diện ngang trong thời gian 2 năm so với rừng được bảo
vệ không bị sâu hại tấn công (Elliott và Cs., 1993).
Rừng trồng Bạch đàn E. grandis ở vùng duyên hải miền bắc New South Wales
(Anh) bị hại bởi sâu Chrysophtharta cloelia từ 1972 - 1974, ước tính khoảng 6 60-


70% lượng tăng trưởng chiều cao bị mất, đồng thời hơn một nửa số cây bị chết
trong năm tiếp đó (Carne và Taylor, 1978).
Rừng Tếch non ở Kerala, Ấn độ bị sâu Hyblaea puera gây hại đã làm suy giảm
44% tăng trưởng về thể tích. Tăng trưởng 3,7m³/ha/năm, so với đối chứng là 6,7
m³. Theo dự đoán thì lượng tăng trưởng của rừng trồng được bảo vệ trong 26 năm
sẽ tương đương với rừng trồng không được bảo vệ trong 60 năm (Nair, 1985,
1996).
Ở Malawi, ước tính thiệt hại cây đứng trong năm 1990 khoảng hơn 3 triệu đôla
(Odera, 1991). Murphy (1996) ước tính ở miền Nam và Đông Châu Phi, tính đến
năm 1990 giá trị thiệt hại về loài cây Bách do rệp Cinara cupressi gây ra trị giá
khoảng 27,5 triệu bảng Anh, thiệt hại về lượng tăng trưởng hàng năm và lượng cây
chết vào khoảng 9,1 triệu bảng.
Ở Papua New Ghine, Eucalyptus deglupta bị sâu đục vỏ Agrilus opulentus gây
thiệt hại ước tính là 2,5 triệu đôla trong chu kỳ 10 năm (Mercer, 1990).
Ở Philippin, rừng trồng Eucalyptus deglupta cũng bị gây hại đến 63% do loài
sâu đục vỏ A. sexsignatus.
Ở Xuđăng, sau thời kỳ khô hạn 1979-1984, sản lượng nhựa (gum) do cây
Acacia senegal và A. seyal bị thiệt hại đáng kể do sự phá hoại của loài bọ nằm
trong chi Agrilus (Jamal, 1994). Ngoài những tác hại trực tiếp, dịch sâu hại rừng
còn làm ảnh hưởng đến khả năng phòng hộ của rừng, làm gia tăng dịch bệnh hại
rừng và cháy rừng; làm suy thoái cảnh quan và tăng nguy cơ ô nhiễm môi trường.
(Theo />Do vậy việc nghiên cứu đặc điểm phân bố của sâu hại rừng là việc cấp thiết và
quan trọng trong việc phòng và chống sâu hại rừng.



NỘI DUNG
Khác với hệ sinh thái cây trồng nông nghiệp, khu hệ côn trùng lâm nghiệp phân
bố trong rừng chịu ảnh hưởng của môi trường cây rừng, môi trường này rất không
đồng nhất.
Ngay cả trong một cánh rừng với diện tích không lớn có sự khác nhau về tiểu
khí hậu, sự không đồng đều về lớp mùn và đất rừng, sự khác nhau về thảm thực vật
hay sự khác biệt về độ cao địa hình mặt đất. Ví dụ có loài chỉ gặp ở những độ cao
nhất định so với mặt biển.
Bản thân môi trường của tán cây rừng cũng thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố
tạo thành của khu rừng đó là: thành phần cây gỗ, lớp thảm cỏ trên bề mặt đất, độ
che phủ của tán cây rừng, cấu trúc tuổi của cây, đặc điểm phát sinh và cấp rừng.
Các loài côn trùng phản ứng nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường rừng.
Chính môi trường này xác định sự phân bố của côn trùng trong rừng. Vì vậy điều
cần thiết khi nghiên cứu sâu hại rừng là tìm hiểu điều kiện nào về nơi sinh sống
phù hợp cho các loài sâu hại quan trọng cần nghiên cứu, cụ thể là cần nghiên cứu
để tìm ra các biện pháp phòng trừ sâu hại cho phù hợp với các kiểu rừng.
Một trong các yếu tố có ảnh hưởng rõ rệt đến sự phân bố của sâu hại rừng là độ
che phủ của tán rừng và độ cao của địa hình. Chính điều này tạo ra kiểu phân bố
theo ổ nhóm sinh thái của côn trùng. Các nhóm sinh thái phân bố có thể chiếm toàn
bộ cả một kiểu rừng hoặc chỉ một phần của rừng. Chính độ che phủ của tán rừng
khác nhau dẫn đến sự thay đổi của nhiệt độ, độ ẩm và độ chiếu sang trong rừng,
điều này quy định sự phân bố của côn trùng.
Sự hiểu biết về phân bố theo nhóm sinh thái của côn trùng trong rừng cho phép
phát hiện nhanh và tiến hành các việc điều tra thường xuyên về biến động số lượng
để đưa ra các giải pháp lâm sinh nhằm làm thay đổi nơi sinh sống của côn trùng,
hạn chế sự phát triển ở phạm vi rộng hơn.
Ở Việt Nam, các loài côn trùng gây hại đều có tính đặc thù đối với từng loại cây
rừng, trong đó thường gặp là sâu ăn lá, đục cành, đục thân, các loại cây ở các khu

rừng thông, rừng bạch đàn, rừng cây lim, rừng cây mỡ, bồ đề, trẩu, rừng tre nứa.
Đối với các loại côn trùng sống trong đất (ấu trùng một số loài cánh cứng, dế), sự


phân bố theo nhóm sinh thái phụ thuộc vào các yếu tố như: thành phần cơ học của
đất, độ ẩm và nhiệt độ, thành phần và độ dày của lớp mùn trong rừng.
Mỗi khu rừng hàng năm đều có sự tăng trưởng và phát triển, các quá trình như
độ che phủ của tán rừng, lớp thảm thực vật bề mặt và lớp mùn ngày càng tăng lên,
chính điều này không chỉ dẫn đến những thay đổi lớn trong sự phân bố của côn
trùng rừng mà còn thay đổi cả về tính chất và số lượng của các loài côn trùng. Đây
là những yếu tố cần được lưu ý khi nghiên cứu sâu hại cây rừng.
Có 3 kiểu phân bố thường gặp trong tự nhiên của côn trùng hại rừng là:
+ Phân bố đồng đều
+ Phân bố ngẫu nhiên
+ Phân bố co cụm




Phân bố đồng đều: Côn trùng phân bố trong không gian vớii mật độ trung
bình như nhau và xác suất để bắt gặp một số lượng nào đó trên diện tích điều
tra chỉ phụ thuộc vào diện tichs đã chọn mà không phụ thuộc vào vị trí của
điểm điều tra.
Phân bố theo ổ và phân bố ngẫu nhiên: Là sự phân bố ngẫu nhiên của các ổ
sâu hại, khi đó giá trị trung bình của mật độ không ổn định nếu có số lượng
ít điểm thu mẫu, hoặc giá trị của mật độ có thể đạt rất cao khi điểm điều tra
gặp ổ dịch. Kiểu phân bố này thường gặp ở các quần thể mới phát sinh
nhưng chưa phân tán rộng




×