Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê bình sinh thái (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRỊNH THÙY DƯƠNG

TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN
TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRỊNH THÙY DƯƠNG

TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN
TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Cao Thị Hảo



THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luâ ̣n văn “Truyện ngắ n Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê
bình sinh thái” là kế t quả nghiên cứu của riêng tôi, hoàn toàn không sao chép
của bất cứ ai. Các kế t quả của đề tài là trung thực và chưa đươ ̣c công bố ở các
công trình khác.
Nội dung của luận văn có sử du ̣ng tài liệu, thông tin được đăng tải trên các
tác phẩ m, ta ̣p chí, các trang web theo danh mục tài liê ̣u tham khảo của luâ ̣n văn.
Nế u sai tôi xin hoàn toàn chiụ trách nhiê ̣m.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016
Tác giả luâ ̣n văn

Trinh
̣ Thuỳ Dương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

i


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Cao Thị Hảo - Trường Đa ̣i
học Sư phạm Thái Nguyên về sự hướng dẫn tâ ̣n tình, đầ y đủ, chu đáo và đầ y tinh
thầ n trách nhiê ̣m của cô trong toàn bô ̣ quá trình em hoàn thành luâ ̣n văn.

Em xin trân trọng cảm ơn sự ta ̣o điều kiêṇ giúp đỡ của Ban chủ nhiê ̣m
Khoa Ngữ Văn và các thầ y cô giáo Phòng đào tạo Trường Đại ho ̣c Sư pha ̣m
Thái Nguyên đã giúp đỡ em thực hiện đề tài luâ ̣n văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, ba ̣n bè, đồ ng nghiêp̣ đã đô ̣ng
viên và nhiê ̣t tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luâ ̣n văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016
Tác giả luâ ̣n văn

Trịnh Thuỳ Dương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
MỤC LỤC............................................................................................................iii
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 7
5. Các phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 8
7. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 8
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................... 9
Chương 1: LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN CAO DUY SƠN .................................................... 9


1.1. Một số vấn đề lý thuyế t phê bình sinh thái................................................... 9
1.1.1. Khái niê ̣m phê bin
̀ h sinh thái ..................................................................... 9
1.1.2. Phê bin
̀ h sinh thái trong văn ho ̣c Việt Nam hiện đại ............................... 13
1.2. Hành trình sáng tác của nhà văn Cao Duy Sơn .......................................... 20
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp ............................................................................. 20
1.2.2. Những ngả đường đến với văn chương của Cao Duy Sơn ...................... 22
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 25
Chương 2: QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VÀ TỰ NHIÊN TRONG
TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN ..................................................................... 26

2.1. Con người và tự nhiên trong sự đối sánh ................................................... 26
2.2. Con người và tự nhiên trong mối quan hệ gắn bó, hòa hợp ....................... 31
2.2.1. Con người hòa hợp với tự nhiên .............................................................. 31
2.2.2. Tự nhiên phản chiếu tâm hồn con người ................................................. 35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN iii


2.3. Con người và tự nhiên trong quy luật nhân quả ......................................... 41
2.3.1. Con người tác động tiêu cực đến tự nhiên ............................................... 41
2.3.2. Tự nhiên đáp trả lại con người ................................................................ 55
2.4. Con người và tự nhiên trong khát vọng đồng hóa ...................................... 62
Tiể u kế t chương 2 .............................................................................................. 65
Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN MỐI QUAN HỆ GIỮA CON
NGƯỜI VÀ TỰ NHIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN CAO DUY SƠN .............. 67

3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ................................................................. 67
3.2. Nghệ thuật tạo dựng bối cảnh không gian .................................................. 71
3.2.1. Không gian hoang dã, nguyên sơ ............................................................ 72

3.2.2. Không gian tự nhiên gắn liền với sinh hoạt của người miền núi ............ 77
3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ..................................................................... 78
3.3.1. Sử dụng hình ảnh tự nhiên trong ngôn ngữ miêu tả ngoại hình nhân vật ... 78
3.3.2. Sử dụng hình ảnh tự nhiên trong ngôn ngữ khắc họa tâm lý nhân vật .... 81
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 84
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 89

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học dân tộc thiểu số có một vị trí quan trọng trong đời sống văn
học nước nhà. Trong đội ngũ nhà văn là người dân tộc thiểu số Việt Nam, Cao
Duy Sơn là cây bút trẻ, có sức sáng tạo dồi dào ở mảng đề tài viết về dân tộc và
miền núi. Tuy mới xuất hiện trên văn đàn nhưng tên tuổi Cao Duy Sơn đã dần
trở lên quen thuộc với độc giả, tác phẩm của ông cũng tạo được tiếng vang lớn
và đạt được nhiều giải thưởng của hội nhà văn Việt Nam. Là một cây bút
đương sung sức, các sáng tác của Cao Duy Sơn bao gồm cả truyện ngắn và tiểu
thuyết, nhưng truyện ngắn là địa hạt có nhiều mùa gặt bội thu hơn cả. Với hai
giải A của Hội văn học dân tộc thiểu số Việt Nam, Tặng thưởng của Hội Nhà
văn Việt Nam và giải thưởng văn học ASEAN của Hoàng gia Thái Lan năm
2009 cho những tập truyện ngắn xuất sắc, truyện ngắn của Cao Duy Sơn đã
“mang một thương hiệu riêng, in đậm dấu ấn văn hóa Tày và soi bóng tâm hồn
con người miền núi đặc sắc, sinh động”[9, tr88]. Nghiên cứu truyện ngắn của
Cao Duy Sơn sẽ góp phần khẳng định đóng góp và vị trí của nhà văn trong tiến
trình phát triển của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
1.2. Nghiên cứu về truyện ngắn Cao Duy Sơn gần đây đã có một số tác
giả quan tâm nhưng chủ yếu đề cập đến các vấn đề như: Đặc điểm truyện ngắn,

nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật, bản sắc văn hóa dân tộc…
Một vấn đề khá mới mẻ và độc đáo trong truyện ngắn Cao Duy Sơn đó là mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên vẫn chưa được nghiên cứu một cách hệ
thống. Từ góc nhìn phê bình sinh thái chúng tôi hi vọng sẽ đem lại những khám
phá mới mẻ về vấn đề này trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.
1.3. Phê bình sinh thái là một lý thuyết mới đã được giới nghiên cứu trên
thế giới quan tâm và ứng dụng vào nghiên cứu văn học. Gần đây, lý thuyết này
cũng bắt đầu được ứng dụng trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam và có những
thành tựu khả quan. Đây là hướng nghiên cứu mới nhiều triển vọng, cho thấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 1


mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, đặc biệt là cách ứng xử của con người
với thế giới tự nhiên và những tác động ngược lại của giới tự nhiên đến đời
sống con người. Điều này cũng thể hiện rõ ý nghĩa thực tiễn và tính thời sự của
nó trong bối cảnh hiện nay, trước nhu cầu nóng bỏng của nhân loại về cải thiện
môi trường sinh thái, khát vọng về mối giao hòa vĩnh cửu giữa con người và
thiên nhiên. Trong truyện ngắn của mình, Cao Duy Sơn đã có tiếng nói của
riêng mình về vấn đề này bằng một quan điểm mới mẻ và sâu sắc. Chính bởi
những lý do trên mà chúng tôi lựa chọn đề tài: “Truyện ngắn Cao Duy Sơn từ
góc nhìn phê bình sinh thái” để nghiên cứu. Hi vọng công trình hoàn thành sẽ
góp phần khẳng định những đóng góp mới mẻ của nhà văn Cao Duy Sơn cho
dòng văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, đồng thời qua đó cũng cho
thấy hiệu quả của một hướng tiếp cận mới mẻ trong văn học.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu chung về truyện ngắn của Cao Duy Sơn
Là một cây bút đang nổi danh, các sáng tác của Cao Duy Sơn trong thời
điểm hiện tại chưa phải là nhiều (5 tiểu thuyết, 4 tập truyện ngắn) nhưng nhà văn
dân tộc Tày này đã khẳng định được phong cách riêng, độc đáo của mình trong
dòng chảy văn học dân tộc thiểu số. Ông đã có những đóng góp nhất định cho văn

học dân tộc thiểu số nói riêng và văn học Việt Nam đương đại nói chung.
Truyện ngắn của Cao Duy Sơn đã nhận được sự quan tâm của khá nhiều
các nhà nghiên cứu. Trên các báo chí (cả báo in và báo điện tử) đã đăng tải một
loạt các bài viết về Cao Duy Sơn và truyện ngắn của anh, đặc biệt là sau khi
anh đoạt giải thưởng. Chúng ta có thể kể đến các bài viết sau:
Nhà văn người Cô Sầu đoạt giải văn chương, tác giả Hứa Hiếu Lễ, báo
Văn hóa văn nghệ Cao Bằng.
Văn xuôi độc chiếm giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 2008, tác giả
Hà Linh, báo Văn nghệ Quân đội.
Viết văn phải có sự ám ảnh, tác giả Huy Sơn, Trang văn hóa giải trí.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 2


Bông hoa sen đang ngát, tác giả Hứa Hiếu Lễ, báo Vietnam.net.
Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 2008 với tác giả “Ngôi nhà xưa
bên suối”, tác giả Mai Thi, báo Hà Nội mới
Ban mai có một giọt sương, tác giả Đỗ Đức, báo Văn nghệ.
Viết văn là một cuộc viễn du về cội nguồn, tác giả Võ Thị Thúy, báo
kinh tế đô thị.
Hầu hết các bài viết đều khẳng định những đóng góp của nhà văn Cao
Duy Sơn đối với văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, phong cách riêng
và tài năng của nhà văn đất Cô Sầu. Có tác giả cho rằng: “Đề tài miền núi
không mới nhưng viết để người đọc thổn thức và nhớ đến không phải ai cũng
làm được, có lẽ xuất thân của một người con sau bao nhiêu năm xa cách quê
hương đã làm nên một Cao Duy Sơn thành thực và đầy tình cảm” [47, tr.9].
Trong bài viết Cao Duy Sơn giọng văn nhẹ nhàng mà sắc bén, tác giả
Sông Lam (báo Dân tộc và phát triển) cũng khẳng định: “Kí ức tuổi thơ, con
người đất Cô Sầu và những vỉa tầng văn hóa truyền thống dân tộc Tày đã bán
rễ, ám ảnh sâu vào tâm trí Cao Duy Sơn. Nó khiến anh khắc khoải, day dứt, tựa
hồ như đang mang một món nợ đối với quê hương. Và nếu không trả được món

nợ đó, anh không thể tìm thấy một chốn bình an để neo đậu tâm hồn” [16, tr.20].
Cũng đồng quan điểm này, nhà nghiên cứu Đào Thủy Nguyên đã quan
tâm tới yếu tố tạo nên những trang viết sâu nghĩa nặng tình của Cao Duy Sơn
và lí giải rõ “Cội nguồn văn hóa dân tộc trong truyện ngắn Cao Duy Sơn”
bắt nguồn từ tâm hồn con người đậm chất Tày trong truyện ngắn của anh.
Nhà phê bình Lâm Tiến, tác giả của một số công trình nghiên cứu về văn
học dân tộc thiểu số Việt Nam, khi nhận xét về cá tính sáng tạo của nhà văn
Cao Duy Sơn cho rằng: “Ông miêu tả nhận vật dưới góc độ đời tư, có số phận
riêng và có một sự tự ý thức. Điều đó càng được thể hiện rõ trong những truyện
ngắn sau này của ông (…….). Nhân vật của ông thường khỏe khoắn, mạnh mẽ,
có cuộc sống nội tâm phong phú, phức tạp, dữ dội nhưng lại lặng lẽ, kín đáo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 3


Truyện của Cao Duy Sơn còn hấp dẫn người đọc ở cách viết giàu cảm xúc,
giàu hình tượng với cách cảm nhận sự vật, hiện tượng tinh tế, chính xác, sắc
sảo với những tình huống căng thẳng, gay gắt, bất ngờ. Với cách viết đó Cao
Duy Sơn đã đem lại cho văn xuôi các dân tộc thiểu số một cách cảm nhận mới
về con người và cuộc sống của các dân tộc” [41, tr.10].
Không chỉ quan tâm tới các yếu tố về cảm hứng, nhân vật, cách viết,
ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn cũng được quan tâm
tìm hiểu. Tác giả Cao Thị Hảo trong bài viết: Ngôn ngữ nghệ thuật trong
truyện ngắn của Cao Duy Sơn đăng trên tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (số 361,
tháng 7/2014) khẳng định: “Trong truyện ngắn Cao Duy Sơn, ngôn ngữ nghệ
thuật được thể hiện khá độc đáo, mang màu sắc riêng và đậm chất Tày, thể
hiện qua việc sử dụng lối ví von, so sánh, liên tưởng gần gũi với cách tư duy
của người dân miền núi, sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, lối nói phuối pác,
phuối rọi của văn học dân gian Tày”[9, tr.88].
Nhìn chung, truyện ngắn của Cao Duy Sơn đã được nghiên cứu từ nhiều
phương diện. Các tác giả cũng đã khẳng định những đóng góp tiêu biểu của nhà

văn cho dòng văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, tìm hiểu
truyện ngắn Cao Duy Sơn từ những góc nhìn khác, nhất là từ những lý thuyết
mới sẽ cho chúng ta những đánh giá khách quan và toàn diện hơn nữa về vị trí
cũng như đóng góp của nhà văn dân tộc Tày này.
2.2. Những nghiên cứu về truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê bình
sinh thái
Nghiên cứu về truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê bình sinh thái
cho đến nay chưa có công trình nào đề cập đến một cách hệ thống và chuyên
biệt. Tuy nhiên, những vấn đề liên quan về mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên đã được các tác giả ít nhiều quan tâm đến trong những công trình nghiên
cứu chung về văn học dân tộc thiểu số và truyện ngắn Cao Duy Sơn. Chúng tôi
xin điểm qua một số vấn đề cơ bản có liên quan đến đề tài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 4


Trong công trình Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại một số đặc điểm (2011), các tác giả Trần Thị Việt Trung - Cao Thị Hảo cũng
bước đầu đề cập đến thủ pháp “vật hóa” khi miêu tả các nhân vật phản diện
trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn: “Với thủ pháp “vật hóa”, các nhân vật
phản diện trở thành những con người tầm thường, thậm chí dung tục, bản năng
như loài cầm thú” [49, tr.144]. Lấy hình ảnh của thế giới tự nhiên - đặc biệt là
những con vật ác độc, xấu xí để miêu tả nhân vật phản diện cho thấy ngòi bút
của Cao Duy Sơn đã chú ý đến mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Tuy
nhiên các tác giả chưa đi sâu phân tích kĩ vấn đề mà bước đầu đề cập đến hiện
tượng này như là một thủ pháp xây dựng nhân vật của nhà văn Cao Duy Sơn.
Tác giả Đào Thủy Nguyên (chủ biên) - Dương Thu Hằng trong công
trình Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu
số Việt Nam (2014) khẳng định: “Thiên nhiên Cao Bằng trong sáng tác của
Cao Duy Sơn không chỉ mang vẻ đẹp của một bức tranh sơn thủy mà còn hiện
lên như một sinh thể hữu tình, biết sẻ chia với con người những vui buồn trong
cuộc sống” [26, tr.163]. Rất tiếc nhận định này cũng chỉ mới được đưa ra như

một gợi dẫn, các tác giả chưa tập trung nghiên cứu sâu về vấn đề này.
Không chỉ ở những công trình nghiên cứu chung về văn học dân tộc
thiểu số như trên chúng tôi đã đề cập mà ở một số luận văn thạc sĩ khi nghiên
cứu về truyện ngắn Cao Duy Sơn cũng đề cập đến sự tác động của giới tự nhiên
đối với đời sống con người trong truyện ngắn của nhà văn dân tộc Tày này.
Chúng ta có thể kể tới: Đặc điểm truyện ngắn Cao Duy Sơn (2009) của tác giả
Đinh Thị Minh Hảo, Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của Cao Duy Sơn
(2010) của Lý Thị Thu Phương, Bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác của
Cao Duy Sơn (2011) của La Thúy Vân, Con người trong văn xuôi miền núi
đương đại của các tác giả trẻ đương đại (Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và
Phạm Duy Nghĩa) (2012) của Cao Thị Hồng Vân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 5


Tác giả Lý Thị Thu Phương đã chú ý cách miêu tả thiên nhiên trong
truyện ngắn Cao Duy Sơn và cho rằng: “Cao Duy Sơn đã khám phá và sáng tạo
nên thế giới thiên nhiên giàu sức sống, đa sắc màu, hùng vĩ và thơ mộng, đưa
người đọc đến với miền đất hoang sơ và xa ngái chứa bao điều bí ẩn, diệu kì,
cảm nhận phong vị miền núi phía Bắc độc đáo, khó quên” [32, tr.55].
La Thúy Vân nhận thấy trong sáng tác của Cao Duy Sơn, “thiên nhiên
vừa là môi trường sinh thái, vừa là cuộc sống thiết yếu nhất để con người tồn
tại, đồng thời cũng là người bạn thiết thân của con người. Con người miền núi
tựa vào thiên nhiên để sống và lao động, nuôi dưỡng thể chất, bồi đắp tình cảm
và thanh lọc tâm hồn. Văn xuôi của Cao Duy Sơn thể hiện rất rõ mối quan hệ
hữu cơ này” [50, tr.63].
Có thể nói, xung quanh vấn đề về truyện ngắn Cao Duy Sơn và truyện
ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê bình sinh thái đến nay đã có nhiều bài
nghiên cứu phê bình của các tác giả như: Chu Thị Hằng; Nguyễn Thanh Bình;
Lâm Tiến; Nguyễn Chí Hoa; Trung Trung Đỉnh; Đào Thủy Nguyên, Cao Thị
Hảo;… Mỗi bài viết là một cách nhìn, một quan điểm, một suy nghĩ và một

cách cảm nhận riêng. Ở mức độ tổng quát, chúng tôi nhận thấy, chủ yếu các tác
giả tiếp nhận Cao Duy Sơn trên bình diện cơ bản là: Đón nhận và tôn vinh. Tuy
nhiên, hiện vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về mối
quan hệ, ứng xử, tương tác giữa con người với tự nhiên trong truyện ngắn của
Cao Duy Sơn từ góc nhìn phê bình sinh thái.
Dựa trên những ý kiến bàn luận và các kết quả nghiên cứu đã có về
truyện ngắn Cao Duy Sơn, chúng tôi nhận thấy còn một khoảng trống cần lấp
đầy để làm hoàn chỉnh hơn bức tranh toàn cảnh về truyện ngắn của ông. Chính
vì lẽ đó chúng tôi đã chọn vấn đề nghiên cứu của mình là: Truyện ngắn Cao
Duy Sơn từ góc nhìn phê bình sinh thái. Hi vọng công trình hoàn thiện sẽ góp
một góc nhìn mới về truyện ngắn Cao Duy Sơn để khẳng định những thành
công và hạn chế của nhà văn đối với đời sống văn học đương đại Việt Nam,
nhất là ở mảng văn học dân tộc thiểu số.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 6


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung tìm hiểu và phân tích và làm sáng tỏ những đóng góp
của truyện ngắn Cao Duy Sơn từ góc nhìn của lý thuyết phê bình sinh thái.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Cao Duy Sơn là một cây bút tài năng đã khẳng định được vị trí của mình
trên văn đàn cũng như trong lòng công chúng yêu văn chương. Ông thành công
trên cả hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Trong phạm vi luận văn này
chúng tôi tập trung khảo sát thể loại truyện ngắn của Cao Duy Sơn. Cụ thể là 4
tập truyện ngắn sau:
1. Những chuyện ở lũng Cô Sầu, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà
Nội, 2003 (tái bản lần thứ nhất).
2. Những đám mây hình người, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002.
3. Ngôi nhà xưa bên suối, Nhà xuất bản Văn học Dân tộc, Hà Nội, 2008.

4. Người chợ, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2010.
Ngoài ra chúng tôi cũng tham khảo thêm sáng tác của các nhà văn khác
để so sánh, đối chiếu khi cần thiết.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này chúng tôi sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau:
Làm sáng tỏ các khái niệm lý luận liên quan về phê bình sinh thái và
thực tế nghiên cứu văn học từ góc độ phê bình sinh thái ở Việt Nam. Hình trình
sáng tạo của nhà văn Cao Duy Sơn.
Ứng dụng lý thuyết phê bình sinh thái vào tìm hiểu truyện ngắn Cao Duy
Sơn để chỉ ra những đóng góp tiêu biểu của nhà văn. Qua đó góp thêm một cái
nhìn mới về giá trị của truyện ngắn Cao Duy Sơn. Và cũng khẳng định hiệu quả
của một hướng nghiên cứu mới trong văn học hiện đại.
5. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng đa dạng các phương pháp nghiên cứu, trong đó tập
trung ở một số phương pháp cơ bản sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 7


Phương pháp phân tích tác phẩm được sử dụng trong luận văn để làm
sáng tỏ đối tượng nghiên cứu.
Chúng tôi sử dụng phương pháp khái quát, tổng hợp để kết luận và nâng
cao vấn đề đã phân tích.
Luận văn cũng sử dụng phương pháp so sánh, thống kê để làm nổi bật
đóng góp riêng các tập truyện ngắn của Cao Duy Sơn
Vấn đề lý thuyết sinh thái học có liên quan đến một số lĩnh vực khoa học
khác như: địa lý, sinh học, văn hóa, nhân chủng học… Vì vậy sự vận dụng tổng
hợp các phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học giúp chúng tôi soi
sáng và làm rõ các phương diện, khía cạnh của vấn đề lý thuyết phê bình sinh
thái và ứng dụng vào nghiên cứu truyện ngắn của Cao Duy Sơn.
6. Đóng góp của luận văn

Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu truyện ngắn của nhà văn Cao
Duy Sơn từ góc nhìn của lý thuyết phê bình sinh thái, do đó kết quả nghiên cứu
của luận văn sẽ góp phần hoàn chỉnh hơn bức tranh toàn cảnh về truyện ngắn
của Cao Duy Sơn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ mang đến một cách tiếp cận mới cho
các tác phẩm văn học, mở ra hướng đánh giá, thẩm định giá trị nhân văn của
văn học từ góc nhìn sinh thái. Đồng thời đánh thức cách ứng xử bình đẳng của
con người đối với môi trường hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần MỞ ĐẦU, KẾT LUẬN và thư mục TÀI LIỆU THAM
KHẢO, nội dung chính của luận văn được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Lý thuyết phê bình sinh thái và hành trình sáng tác của nhà
văn Cao Duy Sơn.
Chương 2: Quan hệ giữa con người và tự nhiên trong truyện ngắn Cao
Duy Sơn.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
trong truyện ngắn Cao Duy Sơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 8


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH SINH THÁI
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN CAO DUY SƠN
1.1. Một số vấn đề lý thuyế t phê bin
̀ h sinh thái
1.1.1. Khái niê ̣m phê bình sinh thái
Phê bình sinh thái manh nha vào những năm 70 của thế kỉ 20. Năm 1974,
học giả người Mỹ Joseph W.Meeker cho xuất bản cuốn chuyện luận “Sinh thái
học của văn học”. Trong tác phẩm này, cụm từ sinh thái học văn học lần đầu

tiên được nhắc đến để chỉ mối quan hệ “ảnh hưởng của văn học đối với hành vi
nhân loại và môi trường tự nhiên”.
Năm 1978, Wiliam Rueckert trên tạp chí “Bình luận Iowa” (số mùa
đông) có bài Văn học và sinh thái học: Một phác thảo thử nghiệm phê bình
sinh thái học (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticison) lần đầu
tiên sử dụng thuật ngữ “Phê bình sinh thái” (Ecocriticison) với ý nghĩa “kết
hợp văn học và sinh thái học”. Nhà phê bình cho rằng nên có cái nhìn sinh thái
học và phải xây dựng được một hệ thống thi pháp học sinh thái. Tuy nhiên
trong thời kỳ này, phần lớn giới phê bình văn học vẫn chưa biết thực chất phê
bình sinh thái học là gì. Chính vì vậy, năm 1994, Hội văn học miền tây Blanche
và Sean O Grady đã tổ chức hội nghị bàn tròn trong đó có ý kiến của khoảng 20
học giả xung quanh vấn đề về khái niệm “Phê bình sinh thái”. Tháng 6 năm
1995 ASLE lần đầu tiên tổ chức hội thảo khoa học tại Trường đại học
Colorado, hội nghị nhận được hơn 200 báo cáo. Mọi người coi đại hội lần này
của ASLE là tiêu chí đánh dấu sự hình thành của trào lưu phê bình sinh thái.
Năm 1996, tuyển tập Phê bình sinh thái do Cheryll Glolfelty và Harold
From chủ biên được xuất bản. Cuốn sách này được công nhận là tài liệu nhập
môn của phê bình sinh thái. Cuốn sách chia làm ba phần, phân biệt thảo luận
sinh thái học và lý luận văn học sinh thái, phê bình sinh thái của văn học và phê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 9


bình của văn học sinh thái. Cuốn sách này còn liệt kê và giới thiệu sơ lược
những bài báo và chuyên luận phê bình sinh thái quan trọng nhất.
Năm 1998, tại Luân Đôn, tuyển tập: Phê bình sinh thái và văn học do
nhà phê bình người Anh R.kerridge và N.Sammells chủ biên được xuất bản.
Đây là bộ tuyển tập phê bình sinh thái đầu tiên ở Anh. Sách được chia làm ba
phần: Lý luận phê bình sinh thái, Lịch sử phê bình sinh thái và Văn học sinh
thái đương đại (tổng cộng 15 chương, tác giả là những nhà phê bình sinh thái
Âu Mỹ). Bước sang thế kỉ 21, phê bình sinh thái phát triển sâu rộng hơn. Năm

2001 Buell cho xuất bản cuốn “Viết vì thế giới đang lâm nguy: Văn học, văn
hóa, môi trường nước Mỹ và các quốc gia khác”.
Có thể thấy, phê bình sinh thái với tư cách là mô ̣t khuynh hướng phê
biǹ h văn hoá và văn học đươ ̣c hình thành ở Mỹ vào giữa những năm 90 của thế
kỷ 20, tiếp đó xuấ t hiêṇ ở nhiề u nước trên thế giới. Trong số khá nhiề u giới
thuyết về thuâ ̣t ngữ “phê bin
̀ h sinh thái” thì cách hiểu của nhà phê bình sinh
thái Mỹ - Cheryll Glotfelty được cho là ngắn gọn nhất: “Phê bình sinh thái là
phê bình bàn về mố i quan hê ̣ giữa văn học và tự nhiên”.
Tác giả Karl Kroeber lại cho rằng: “Phê bình sinh thái không phải đem
phương pháp nghiên cứu sinh thái học, sinh vật hóa học, toán học hoặc
phương pháp nghiên cứu của bất kỳ khoa học tự nhiên nào khác vào phân tích
văn học. Nó chỉ dẫn nhập quan điể m cơ bản nhấ t của triế t học sinh thái vào
phê bình văn học mà thôi” [dẫn theo 12].
Với tư cách là khuynh hướng phê bình văn hoá văn ho ̣c, phê bình sinh thái
có nhiê ̣m vu ̣ chủ yế u mang giá tri ̣đă ̣c thù và đă ̣c trưng bản thể luâ ̣n của nó. Đó là
thông qua văn học để thẩm định la ̣i văn hoá nhân loa ̣i, tiế n hành phê phán nghiên cứu tư tưởng, văn hoá, mô hình phát triể n xã hội của loài người đã ảnh
hưởng như thế nào đến thái đô ̣ và hành vi của nhân loa ̣i đố i với đời sống tự nhiên.
Jonathan Levin đã chỉ ra: “Tấ t cả phương diê ̣n văn hoá xã hội của chúng
ta cùng quyế t đi ̣nh phương thức độc nhấ t vô nhi ̣ sinh tồ n của chúng ta trên thế
giới này. Không nghiên cứu những điề u này, chúng ta không thể nhận thức sâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 10


sắ c quan hê ̣ giữa con người và môi trường tự nhiên mà chỉ có thể biể u đạt
những lo lắ ng nông cạn... Vì thế , ngoài nghiên cứu văn học biểu hiê ̣n tự nhiên
như thế nào, chúng ta tấ t yế u còn phải dùng rấ t nhiề u tinh lực để phân tích tấ t
cả các nhân tố văn hoá xã hội quyế t đi ̣nh thái độ đố i với con người, đố i với tự
nhiên và hành vi tồ n tại trong môi trường tự nhiên, đồ ng thời kế t hợp những
phân tích này với nghiên cứu văn học” [dẫn theo 12].

Nhìn chung phê bình sinh thái đã được khá nhiều tác giả trên thế giới quan
tâm và trở thành một xu hướng nghiên cứu văn học có tính chất liên ngành và có
hiệu quả nhất định. Trong xu hướng nghiên cứu này, các tác giả quan tâm tới
mối quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên, đặc biệt là thông qua đó
muốn cảnh báo về tình trạng lâm nguy của môi trường tự nhiên trong mối quan
hệ với con người qua những tác động ngược chiều và thuận chiều.
Hiểu một cách khách quan, phê bình sinh thái không phải đem phương
pháp nghiên cứu sinh thái học, sinh vật hóa học, toán học hoặc phương pháp
nghiên cứu của bất kì khoa học tự nhiên nào khác vào phân tích văn học. Nó
chỉ dẫn nhập quan niệm cơ bản nhất của triết học sinh thái vào phê bình văn
học mà thôi. Với tư cách là khuynh hướng phê bình văn hóa văn học, phê bình
sinh thái có nhiệm vụ thẩm định lại văn hóa nhân loại, tiến hành phê phán,
nghiên cứu tư tưởng văn hóa, mô hình phát triển xã hội của loài người đã ảnh
hưởng như thế nào đến thái độ và hành vi của nhân loại đối với tự nhiên và
điều đó dẫn đến tình trạng xấu đi của môi trường sinh thái như thế nào.
Manh nha vào những năm 70 của thế kỷ 20, đế n giữa thâ ̣p niên 90, phê
biǹ h sinh thái đã thực sự trở thành mô ̣t khuynh hướng nghiên cứu văn ho ̣c ở
Mỹ và lan ra nhiề u nước khác trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam việc áp
dụng lý thuyết phê bình sinh thái vào nghiên cứu văn học vẫn là vấn đề khá
mới mẻ và chưa nhận được nhiều sự quan tâm. Năm 2012 trong một bài nói
chuyện ở Viện văn học, nhà nghiên cứu người Mỹ Karen Thornber đã giới
thiệu về trường phái phê bình sinh thái nhưng cho đến nay có rất ít bài viết hay
công trình nghiên cứu cụ thể về vấn đề này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 11


Có thể thấy, sau đổ i mới, ở Việt Nam giới nghiên cứu văn ho ̣c khá cởi
mở trong viê ̣c tiếp thu, giới thiêụ các lý thuyế t văn học phương Tây hiêṇ đa ̣i,
đương đa ̣i, nhưng la ̣i rấ t thận tro ̣ng đối với “Phê bình sinh thái”. Ngay cả các lý
thuyết mới mẻ như Chủ nghiã lich

̣ sử mới, Chủ nghĩa duy vâ ̣t văn hoá hay lý
thuyế t tương đối nha ̣y cảm như “Diễn ngôn quyền lực” của Foucault cũng đã
đươ ̣c nhắ c đế n ở Viêṭ Nam, nhưng riêng về “Phê bình sinh thái” la ̣i vắng bóng.
Phê biǹ h sinh thái thinh
̣ hành ở nhiều nước phương Tây, hiện nay tâ ̣p trung vào
vấn đề dùng tư tưởng sinh thái để đánh giá văn ho ̣c trong viê ̣c biể u hiêṇ vấ n đề
sinh thái, khẳ ng định vai trò của tự nhiên. Lý thuyế t phê bình sinh thái ở Việt
Nam được coi là khá mới mẻ, chưa nhâ ̣n đươ ̣c nhiề u sự quan tâm. Cho đế n nay
vẫn có ít bài viết hay công trình nghiên cứu cu ̣ thể về vấ n đề này. Trong các
công trình nghiên cứu văn ho ̣c trước đây chúng ta tập trung nghiên cứu mố i
quan hệ với hiện thực, với các chức năng xã hô ̣i của văn ho ̣c như nhâ ̣n thức,
giáo dục, tuyên truyề n, thẩ m mỹ trong ý thức văn ho ̣c phu ̣c vu ̣ chiń h tri chu
̣ ̉ yế u
là xét theo nguyên tắ c ý chí, nhân ta ̣o. Mố i quan hệ giữa môi trường sinh thái tự
nhiên và văn hoá tinh thầ n với văn nghê ̣ chưa đươ ̣c đă ̣t ra một cách sâu sắc. Vì
thế còn nhiề u vấ n đề về quan hê ̣ giữa văn học với môi trường sinh thái chưa
đươ ̣c xem xét.
Nhìn chung, vấ n đề cân bằ ng sinh thái đảm bảo cho văn học phát triể n, là
đô ̣ng lực của sáng tạo và tự do sáng ta ̣o. Suy cho cùng cô ̣i nguồ n của mấ t cân
bằng sinh thái là do sự phát triển phiế n diê ̣n của xã hô ̣i và con người. Quan
điểm con người là trung tâm đã dẫn đế n huỷ hoa ̣i môi trường tự nhiên. Chin
́ h vì
lẽ đó mà chúng ta phải quan tâm nhiề u hơn nữa đế n cách tiế p câ ̣n các tác phẩm
văn ho ̣c từ lý thuyết phê bình sinh thái. Nghiên cứu về vấ n đề này Trầ n Đình
Sử và Huỳnh Như Phương đều nhấn mạnh đế n sự tương tác giữa môi trường tự
nhiên với con người. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra vấ n đề sinh thái không còn
đơn thuầ n là của riêng ngành khoa học nào nữa mà đã trở thành vấ n đề toàn cầ u
trong đó có trách nhiê ̣m của văn chương. Đây có thể coi là vấ n đề đa ̣o đức đồng
thời cũng là vấ n đề thẩ m my.̃
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 12



Trên cơ sở tiếp thu lý thuyết về phê bình sinh thái qua một số bài báo
liên quan đến vấn đề này, cũng như qua việc tìm hiểu những truyện ngắn của
một số nhà văn hiện đại trên thế giới và Việt Nam, đặc biệt là truyện ngắn của
Cao Duy Sơn, chúng tôi nhận thấy đã đến lúc chúng ta cần dành sự quan tâm
hơn nữa đến hướng nghiên cứu này.
1.1.2. Phê bin
̀ h sinh thái trong văn học Việt Nam hiện đại
Ở thời trung đại, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên đã được đề cập
đến trong văn học. Chủ yếu văn học hướng đến hòa hợp với tự nhiên, con người
được đặt trong thế bình đẳng với trời đất. Chính vì thế chúng ta thường bắt gặp
những mô típ con người được miêu tả trên cơ sở lấy thiên nhiên làm chuẩn mực.
Hoặc con người sống hài hòa, ẩn mình trong thiên nhiên. Tuy nhiên, ở thời hiện
đại, cùng với sự thay đổi của quan niệm văn hóa, văn học, trong văn học hiện đại
đã xuất hiện những góc nhìn khác về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
mang tính đa chiều hơn.
Vượt trên những quan niệm đề cao môi trường điạ lý, môi trường tự nhiên
hay sự khác biê ̣t mô ̣t chiề u của con người đố i với tự nhiên, triế t ho ̣c Mác - Lênin
không những khẳng định tính tấ t yếu phải đảm bảo thố ng nhấ t hài hoà giữa con
người và tự nhiên trong quá triǹ h phát triể n mà còn chỉ ra vai trò của con người
trong viê ̣c đảm bảo, duy trì sự thố ng nhấ t hài hoà ấ y. Chính con người giữ vi ̣ trí
quyết định trong hệ thống “tự nhiên - con người - xã hô ̣i”. Cách thức mà con
người tác đô ̣ng đế n tự nhiên ra sao thì tự nhiên sẽ đố i xử với con người như vậy.
Con người hay tự nhiên hoà hơ ̣p hay đối lập là do chiń h con người quyế t đinh.
̣
Thái độ ứng xử của con người đối với thiên nhiên xưa nay bao giờ cũng là thân
thiế t, trân tro ̣ng và dường như it́ nhiề u thuầ n phu ̣c trước sức ma ̣nh và sự hào
phóng của trời mây đối với cuô ̣c số ng muôn loài:
“Trông trời trông đất trông mây

Trông mưa trông nắ ng trông ngày trông đêm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 13


Trông cho chân cứng đá mề m
Trời yên biển lặng mới yên tấ m lòng”
(Ca dao)
Thiên nhiên là người bạn tốt, thiên nhiên là tài nguyên “Chỉ cầ n mưa
thuận gió hoà” “Rừng vàng biể n ba ̣c”,... nơi đâu con người biế t quý tro ̣ng thiên
nhiên sẽ đươ ̣c thiên nhiên ưu đaĩ và cuô ̣c số ng nơi đó sẽ dễ dàng.
Đề cập đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, trong văn học Việt
Nam hiện đại giai đoạn trước 1945 đã xuất hiện ở sáng tác của một số tác giả
viết theo xu hướng “truyện đường rừng” như Lan Khai, Thế Lữ, Đái Đức Tuấn,
Nguyễn Tuân với các tác phẩm tiêu biểu như: Ai hát giữa rừng khuya, Vàng và
máu, Cô Dó…. Ở đây các tác giả đã phần nào đề cập đến mối quan hệ giữa môi
trường tự nhiên và đời sống con người. Sống nơi đô thị hay sống hòa mình vào
thiên nhiên tinh khiết, trong trẻo là vấn đề được một số tác giả quan tâm chú ý.
Đôi khi các tác giả cũng ảo hóa thế giới tự nhiên, coi đó như là những bí ẩn hoặc
hoang dã chưa được khai phá. Đôi khi con người cũng muốn trở về với tự nhiên
để trốn tránh thực tại nơi đô hội đầy bon chen, nhưng dường như là thất bại.
Điều này cho thấy sự không thể dung hòa giữa con người đô thị và thế giới tự
nhiên hoang sơ. Con người và tự nhiên vẫn được nhìn nhận như những thực thể
tách biệt, thậm chí mâu thuẫn nhau. Qua con mắt của các nhà văn giai đoạn này,
chúng ta thấy con người thành thị không thể hòa nhập với tự nhiên và luôn nhìn
tự nhiên bằng con mắt xa lạ, là chốn “rừng thiêng nước độc” đầy ám ảnh.
Giai đoạn từ 1945 đến 1975 là thời kỳ văn học có chung “khuôn mặt”,
“dáng hình”, bởi mục đích chính là tập trung phục vụ kháng chiến, cứu quốc.
Tuy nhiên các tác giả cũng chú ý đề cập đến mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên. Thậm chí con người và tự nhiên còn có mối quan hệ hữu cơ tương đồng
“Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Cao hơn một bậc, con người được thiên

nhiên hóa và thiên nhiên cũng được người hóa. Bằng thủ pháp nhân hóa được
vận dụng phổ biến, Nguyên Ngọc đã miêu tả thiên nhiên đặc biệt hấp dẫn, sinh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 14


động, gần gũi với con người. “Tự nhiên trên đỉnh núi Chư Lây tảng đá to nhất
nổi giận, Trước tiên nó xô mấy miếng đất dưới chân nó ra, Nó chuyển mình, rồi
bất thình lình nó lật ngược và vụt chạy xuống núi. Nó chạy mau không thể cái
gì chạy theo kịp. Nó bẻ gãy hết cây nào cản đường nó. Gặp con thú, nó đấm
một cái, con thú chết bẹp ngay. Đến giữa đường, gặp đá bạn, đá con, nó thúc
mỗi đứa một cái, tất cả đá ùa nhau chạy theo nó. Thôi thì cả núi rừng rung lên
ào ào, đất thành khói đỏ bay mù mịt” (Đất nước đứng lên).
Qua đây cho thấy mối quan hệ hòa hợp giữa con người và tự nhiên trong một
thể thống nhất để gìn giữ non sông đất nước và cuộc sống ấm no của con người.
Có thể nói, dù chưa thực sự làm nên mô ̣t trào lưu “xanh hoá” trong văn
ho ̣c, nhưng không thể phủ nhâ ̣n văn học Việt Nam sau 1975 đến nay đã có
được một độ nhạy bén nhấ t đinh,
̣ cũng như có đươ ̣c mô ̣t số điểm nhấ n đáng lưu
ý trong việc phản ánh những thực tra ̣ng môi trường - tự nhiên - xã hô ̣i nói
trên. Mô ̣t trong số các hiêṇ tươ ̣ng sớm nhấ t và đáng ghi nhớ nhấ t của văn ho ̣c
đương đa ̣i là ngòi bút Nguyễn Minh Châu - “người mở đường” cho công cuô ̣c
đổ i mới văn ho ̣c. Vấ n đề sinh thái xuất hiêṇ trên những trang văn của ông ngay
từ những năm 80 - 90 của thế kỷ trước với các truyê ̣n ngắ n như: Một lầ n đố i
chứng (1982), Số ng mãi với cây xanh (1983), Khách ở quê ra (1984),... Có thể
nói, bằ ng dự cảm nha ̣y bén và sự nghiề n ngẫm sâu sắc của mô ̣t con người biế t
gắn mình vào thời đa ̣i, Nguyễn Minh Châu trong các tác phẩm của mình, đã đă ̣t
ra được nhiều câu hỏi mang tính chấ t vấ n đố i với những bất ổ n trong bước
chuyể n mình của xã hô ̣i Viê ̣t Nam thời hâ ̣u chiế n trong mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên.
Bên ca ̣nh đề tài người liń h và cảm hứng “nhìn la ̣i” chiế n tranh, bên ca ̣nh

sự “đố i chứng” giữa người số ng và người chế t, giữa hiêṇ ta ̣i và tương lai còn là
sự phản ánh mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên, giữa loài người
và cỏ cây, loài vâ ̣t. Truyê ̣n ngắ n Khách ở quê ra của Nguyễn Minh Châu là
mô ̣t minh chứng khá cu ̣ thể . Mu ̣ Huê ̣ xuấ t thân là “một cô gái thành phố chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 15


cố ng”, mụ chấ p thuâ ̣n lấ y laõ Khúng không phải vì tình yêu, cũng không phải
vì mong muố n có mô ̣t cuô ̣c số ng thôn quê. Sự ra đi của Huê ̣ là để từ biê ̣t mô ̣t
cuô ̣c tin
̀ h phu ̣ ba ̣c, để che giấ u bản thân và đứa con vô thừa nhâ ̣n cô đang mang
trong bu ̣ng. Nghiã là sự lựa cho ̣n ấ y chỉ như mô ̣t “bước đường cùng” trong
hoàn cảnh không thể tránh khỏi. Nỗi nhớ về anh người yêu thành phố lúc nào
cũng hiêṇ diêṇ trong tâm tưởng của Huê ̣, ngay cả khi bi ̣“lão Khúng biến thành
cái máy đẻ” hay sau gầ n hai mươi năm bỏ đi, mụ không còn “đặt chân đế n một
thành phố nào cả, kể cả các thi ̣ trấ n lâm nghiê ̣p cỏn con”; “đế n bây giờ đã trở
thành một người đàn bà thôn quê thực sự, một bà ké miề n rừng thực sự, chắ c
hẳ n Huê ̣ vẫn cấ t giữ cho riêng mình một chút hình ảnh cuố i cùng của cái thời
thiế u nữ số ng ở thành phố ” [3, tr.333]. Thực vâ ̣y, quá khứ đô thi ̣ đep̣ đẽ ấ y vẫn
xuấ t hiêṇ thường xuyên trong mỗi suy nghi,̃ mỗi so sánh của Huê ̣. Với mụ Huê ̣
cũng như với bao nhiêu người dân thành thi ̣khác, viê ̣c thích nghi với mô ̣t không
gian phi đô thi ̣ không bao giờ có thể tro ̣n ve ̣n, hế t sức miễn cưỡng và lúc nào
cũng đầ y đinh
̣ kiế n: “Chao ơi! chỉ có Huê ̣ mới hiể u hế t được tấ t cả nỗi đau đớn,
tù túng của một cuộc đời bi ̣ bưng bít và cách biê ̣t với chung quanh, dù kẻ thông
minh và hiể u biế t đế n đâu cũng sẽ trở thành he ̣p hòi và thiển cận không tránh
được... Huê ̣ đã lấ y cả bản thân số phận để làm vật thí nghiê ̣m cho cái điề u này
cơ mà [3, tr.345]. Không nói ra nhưng thành phố , với Huê ̣ đã trở thành một nơi
chố n lý tưởng, một không gian mà cô luôn muố n được quay trở về số ng với nó,
dù bằ ng cách này hay cách khác “có thể nói rằ ng suố t cả đời mình, Huê ̣ số ng ở

đâu để chờ đợi một thành phố mới sẽ ra đời... một thành phố công nghiê ̣p của
hàng vạn công nhân khai thác mỏ quặng của một thứ kim loại quý. Huê ̣ biế t
rằ ng đế n lúc đó, đời số ng con người và thiên nhiên chỗ này sẽ hoàn toàn khác
bây giờ, con người sẽ không còn bi ̣ bưng bít bởi sự hẻo lánh nữa và đứng ở đây,
người ta có thể nhận được tin tức của mọi nơi khác” [3, tr.345].
Có thể thấy nhân vâ ̣t đang phủ nhâ ̣n nơi mình số ng, đồ ng thời, phủ nhâ ̣n
mố i quan hê ̣ hiêṇ ta ̣i cô đang cùng người chồ ng của mình trải nghiê ̣m giữa con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 16


người và thế giới tự nhiên. Rõ ràng nhip̣ số ng, âm thanh, ánh sáng, sự tiêṇ nghi
vâ ̣t chấ t nơi đô thi ̣ đã làm nảy sinh cảm giác chán chường cảnh số ng giản đơn
nhàm tẻ và có phầ n nho ̣c nhằ n ở nông thôn hay vùng hoang dã trong tâm tra ̣ng
Huê ̣. Như thế sự gắ n kế t giữa con người với thế giới tự nhiên đã bắ t đầ u biể u
hiêṇ cho mô ̣t quan hê ̣ lỏng lẻo, đe doa ̣.
Sau Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiê ̣p đã đề câ ̣p đế n sự bấ t ổ n này
trong truyê ̣n ngắn của mình: “Chuyê ̣n tình kể trong đêm mưa” là mô ̣t câu
chuyê ̣n như thế . Cuô ̣c tình tan vỡ giữa Ba ̣c Kỳ Sinh và Muôn thực chấ t là sự
chia rẽ vì sự bất đồng trong quan điể m số ng. Muôn tin vào những hứa heṇ mới
của con đường “Kinh hoá”, “đô thi ̣ hoá”, “cô tỏ ý chê bai lố i số ng khép kín
quá gầ n tự nhiên thậm chí tăm tố i của người dân miề n núi”. Ngươ ̣c la ̣i Ba ̣c Kỳ
Sinh “đứa con hoang của núi rừng” - hoài nghi điề u này. Anh khó chiụ với
viêc̣ ngày càng có nhiề u người Kinh lên Tây Bắ c với khẩ u hiê ̣u: “đi xa hơn
nữa”, “khai hoá văn minh”, “thắ p lên ánh sáng văn hoá”[46, tr.590].
Giố ng như nhân vâ ̣t trong Khách ở quê ra, đồn trưởng đồ n biên phòng
Lò Văn Ngân trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiê ̣p chính là đa ̣i diêṇ cho lớp
người “khai hoá” mới này. Anh ta không chiế m đươ ̣c trái tim Muôn, nhưng lại
toát ra một sức hút của sự mới mẻ, đủ khả năng đẩ y tình yêu xuố ng hàng thứ
yếu. Muôn đã từ chối Bạc Kỳ Sinh như từ chố i sự chung số ng với thiên nhiên.
Sau sự đánh đổ i ấy, cái mà cô có đươ ̣c là cuô ̣c số ng trưởng giả theo mô hình

“dân thành thị”. Dù thế nào, có thể thấ y Ba ̣c Kỳ Sinh hay người kể đề u không
hề có ý trách móc Muôn. Như rấ t nhiều người dân tô ̣c nhạy bén khác cô đã
đoán trước đươ ̣c sự thay đổi tấ t yế u của mảnh đấ t mà mình sinh sống. Đúng
như Ba ̣c Kỳ Sinh nói, Muôn đã chọn cho mình một con đường dễ dàng hơn
nhiều. Né tránh những thách thức mà tình yêu và thiên nhiên mang la ̣i, cô đế n
với “mô ̣t môi trường tầ m thường hơn nhưng an toàn hơn”.
Còn với laõ Khúng trong Khách ở quê ra thì la ̣i có mô ̣t quan điể m hoàn
toàn khác về mô ̣t cuô ̣c số ng “văn minh”. Laõ không thể mường tươ ̣ng đươ ̣c
viêc̣ con người có thể khao khát đế n mô ̣t cuô ̣c số ng phi tự nhiên, phi nhân bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 17


đế n vâ ̣y. Quả thâ ̣t con mắ t laõ Khúng khi lang thang giữa thành phố thâ ̣t đúng
như con mắ t của mô ̣t con thú hoang đang chứng kiế n cảnh đồ ng loa ̣i mình bi ̣
giam cầ m trong những chiế c lồ ng, không tiế p xúc với thiên nhiên không đấ t đai
cỏ cây truyề n sức số ng, bức bố i, tù túng yế u ớt đế n thảm ha ̣i: “Ừ cũng lạ thật
cái anh dân thành phố , số ng như thế này mà số ng được, chẳ ng có vườn tược,
chẳ ng có cây cố i, ăn, ở, ỉa trên đầ u nhau, chỉ thấ y tường và tường, chẳ ng trách
người nào người ấ y cứ trắ ng nhợt, nói khẽ, cười khẽ, đi khẽ là phải,...” [3,
tr.353]. Laõ Khúng hay chính là hiêṇ thân của tự nhiên, của bản tính hoang da.̃
Laõ không thể dễ dàng tiế p xúc với ho ̣. Mô ̣t điề u rõ ràng là cảm giác, cách ứng
xử của laõ Khúng với nơi chố n sinh tồ n của mình khác hoàn toàn với mu ̣ Huê,̣
vơ ̣ laõ . Những tương lai mà hai con người ấ y kiế m tìm cũng hoàn toàn khác
nhau. Khác với Huê ̣, laõ Khúng sinh ra từ đồ ng quê, là mô ̣t người con của nông
thôn. Laõ như mô ̣t hiê ̣n thân cho sự gắ n kế t mâ ̣t thiế t của con người với đồ ng
đấ t nguyên thuỷ. Đó không phải chỉ là sự nương tựa, phu ̣ thuô ̣c, bòn rút đấ t đai
mà số ng. Đúng hơn, đó là mố i quan hê ̣ trao đổ i, tương tác qua la ̣i, và hơn thế , là
sự chuyể n hoá lẫn nhau. Hai bàn tay laõ đã làm hồ i sinh vùng đấ t “chó ăn đá gà
ăn sỏi”. Và đế n lươ ̣t mình, thiên nhiên thấ m vào laõ . “Chẳ ng còn là hình thù
một cái bàn tay con người nữa! Hai bàn tay lão đầ y những chỗ nổ i u nổ i cục,

các ngón tay văn ve ̣o và bọc một lớp da giố ng như một lớp vỏ cây, và cả bàn
tay lão giố ng y như một toà rễ cây vừa mới đào dưới đấ t lên” [3, tr.320].
Đó là sự chuyể n hoá về thể xác. Nhưng các chấ t tự nhiên thuầ n phác ấ y
còn thấ m đẫm cả trong tâm hồ n laõ . Khác với không gian đô thi ̣như cái nhà tù
về thể xác lẫn tinh thầ n đã từng không dung chứa Huê ̣, ép buô ̣c cô phải ra đi
bởi nó còn khép con người vào những bô ̣ khung vâ ̣t chấ t cũng như vào những
khuôn khổ đa ̣o đức khắ c nghiê ̣t, laõ Khúng hồ n nhiên như đấ t và không đinh
̣
kiế n như đấ t, đã rô ̣ng lòng đón cô, chấ p nhâ ̣n và yêu quý tấ t cả những đứa con
riêng, con chung của hai người, không phân biê ̣t. Nhưng cuô ̣c số ng lao đô ̣ng
cùng laõ cùng đấ t đai dường như vì quá nho ̣c nhằ n nên cũng dễ bi ̣ bô ̣i phản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 18


Viễn cảnh về mô ̣t thành phố công nghiêp̣ có vẻ có sức hấ p dẫn hơn nhiề u. Laõ
van xin những đứa con mình là bởi laõ đã mường tươ ̣ng ra sự quay lưng không
thể niú giữ của chúng với laõ , với đồ ng đấ t, với tự nhiên. Viê ̣c triể n khai những
dự án khai thác mới trên mảnh đấ t laõ đang số ng đã đánh dấ u mô ̣t bước chuyể n
trong mố i quan hê ̣ của con người với tự nhiên nơi đây. Sự cô ̣ng tác mâ ̣t thiế t đã
đứt gaỹ đế n không thể hàn gắ n: Từ bây giờ người ta sẽ không chấ p nhâ ̣n viêc̣
phải đổ mồ hôi để có miế ng ăn hay bi ̣thiên nhiên chuyể n hoá nữa.
Tư duy khai thác một chiều đang thay thế và thố ng tri,̣ hứa heṇ sự ra đời
một đô thị phi tự nhiên mới, nơi con người vừa bòn rút ca ̣n kiêṭ tự nhiên để
phu ̣c vu ̣ đời sống vâ ̣t chấ t của mình, vừa tách biê ̣t và xa la ̣ với tự nhiên. So với
cách laõ Khúng chống lại cái phi nhân, phi tự nhiên của chiến tranh bằng sức
người bằng chính tự nhiên, thử hỏi giải pháp nào ít gây áp lực đế n môi trường
và mang tin
́ h cộng sinh với thiên nhiên nhiều hơn? Câu trả lời của Nguyễn
Minh Châu, có lẽ là cách số ng chất phác hồn hậu của laõ Khúng, hay chính là
của một truyề n thố ng nông nghiê ̣p xưa cũ đang bi ̣ quy kế t là “chậm tiế n” “la ̣c

hâ ̣u” trong mắ t nhiều người thời bấ y giờ.
Có thể nói Nguyễn Minh Châu là mô ̣t nhà văn đă ̣t nề n móng cho văn ho ̣c
đổ i mới, bởi trong sáng tác của mình, ông đã lầ n đầ u tiên đă ̣t ra những cuô ̣c đố i
thoa ̣i với tự nhiên, lắ ng nghe tiế ng nói của tự nhiên. Không phải là ở vi ̣thế của
kẻ thố ng tri,̣ cũng không phải là tình yêu thiên nhiên theo cách “nhân hoá” nó,
phú cho nó các hình thái cảm xúc suy nghi ̃ của con người. Ngươ ̣c la ̣i, với ông,
tự nhiên có mô ̣t tiế ng nói “khác” của riêng mình. Nó vẫn không ngừng cấ t tiế ng
nói với chúng ta từng giây từng phút, chỉ có điề u con người dầ n đánh mấ t đi
khả năng thấ u hiể u. Mố i quan tâm tác giả muố n đă ̣t ra như ông nói chính là vấ n
đề “thiên nhiên và môi trường sinh thái”. Những dòng văn kéo trí tươ ̣ng tươ ̣ng
của người đo ̣c vào lich
̣ sử, nhắ c la ̣i với chúng ta rằ ng, sự xuấ t hiê ̣n của không
gian môi trường sinh thái, không gì khác là hê ̣ quả lâu dài của mô ̣t quá triǹ h
chinh phu ̣c tự nhiên: “Đúng, đời số ng loài người là một chuỗi dài quá trình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 19


×