Tải bản đầy đủ (.pdf) (404 trang)

Một số vấn đề lý thuyết của địa chính trị (lý luận cơ bản và thực tiễn việt nam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.7 MB, 404 trang )

LNG VN K

một số vấn đề lý thuyết
của ĐịA CHíNH TRị
(Lý LUậN CƠ BảN Và THựC TIễN VIệT NAM)

NHà XUấT BảN ĐạI HọC QuốC GIA Hà NộI


2

ĐỊA CHÍNH TRỊ: LÝ LUẬN CƠ BẢN V THỰC TIỄN VIỆT NAM

CÁC C NG TÁC VIÊN CHÍNH:
Thi u t
Thi u t
Đ is
ThS.

ng, PGS.TS. Ph m Ng c Trung
ng, PGS.TS. Lê V n C ơng
Nguy n Trung
Nguy n Thu H ng


Mục lục

3

MỤC LỤC
DẪN NHẬP ................................................................................................ 7



PH N TH

NH NG V N Đ LÝ LU N C

NH T

B N C A Đ A CHÍNH TR

Chương I

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ LÝ LUẬN,
ĐỊA CHÍNH TRỊ
1.

Nghiên cứu ngoài nước.................................................................... 15

2.

Nghiên cứu trong nước .................................................................... 35
Chương II

QUÁ TRÌNH HÌNH TH NH V PHÁT TRIỂN
CỦA LÝ THUYẾT ĐỊA CHÍNH TRỊ
1.

Khái niệm “địa chính trị” và các khái niệm liên quan ...................... 39

2.


Khởi nguồn của khoa học địa chính trị ............................................ 50

3.

Một số khái niệm quan trọng khác của địa chính trị........................ 63

4.

Mục đích của địa chính trị ................................................................ 75

5.

Phương pháp của địa chính trị......................................................... 76
Chương III

CÁC HỌC THUYẾT ĐỊA CHÍNH TRỊ
SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI II (1945)
1.

Địa chính trị Pháp ............................................................................ 83

2.

Địa chính trị Đức .............................................................................. 91

3.

Địa chính trị Anh-Mỹ ........................................................................ 95

4.


Địa chính trị Xô viết và Chiến lược hải quân
của nguyên soái Sergei Gorshkov ................................................ 104

5.

Lý thuyết địa chính trị Trung Quốc ................................................ 109


4

ĐỊA CHÍNH TRỊ: LÝ LUẬN CƠ BẢN V THỰC TIỄN VIỆT NAM

Chương IV

NHỮNG NỀN TẢNG ĐỊA LÝ V CHÍNH TRỊ
CỦA ĐỊA CHÍNH TRị
1.

Vai trò của lãnh thổ........................................................................ 113

2.

Vai trò của biển.............................................................................. 120

3.

Vai trò của khoảng không.............................................................. 122

4.


Vai trò của tài nguyên thiên nhiên ................................................. 125

5.

Nền tảng chính trị - pháp lý của địa chính trị................................. 128
5.1. Cơ sở hiến pháp và pháp luật ................................................ 128
5.2. Các yếu tố địa chính trị cấu thành quốc gia .......................... 130
5.3. Bản chất chính trị của quốc gia ............................................. 134
5.4. Nền tảng lịch sử và văn hoá của địa chính trị ....................... 137
5.5. Chủ thể quốc gia như là điểm giao kết giữa địa lý và chính trị ..... 139
Chương V

SỨC MẠNH TỔNG HỢP QUỐC GIA
1.

Khái niệm và các yếu tố cấu thành sức mạnh tổng hợp quốc gia....... 147
1.1. Khái niệm sức mạnh tổng hợp quốc gia ................................ 147
1.2. Các yếu tố cấu thành sức mạnh tổng hợp quốc gia .............. 149
1.3. Sức mạnh mềm của quốc gia ................................................ 158

2.

Quy tắc sử dụng sức mạnh quốc gia ............................................. 166
2.1. Sức mạnh quốc gia trong quan hệ quốc tế ........................... 166
2.2. Các quy tắc lớn sử dụng sức mạnh quốc gia ........................ 170
2.3. Phương pháp xác định sức mạnh tổng hợp quốc gia ............ 177
2.4. Nhận xét về các yếu tố
và các phương trình sức mạnh quốc gia ............................... 191


3.

Nghiên cứu kinh nghiệm: Xung đột tài nguyên
ở Tiểu vùng sông Mê Kông ........................................................... 194


Mục lục

5
Chương VI

CỤC DIỆN ĐỊA CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI HIỆN NAY
1.

Các yếu tố cơ bản tác động đến cục diện
địa chính trị thế giới và khu vực ..................................................... 203

2.

Chuyển biến địa chính trị thế giới đầu thế kỷ XXI ......................... 207
2.1. Điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Mỹ................................. 211
2.2. Chiến lược của Trung Quốc................................................... 218
2.3. Điều chỉnh chiến lược của Nga .............................................. 225
2.4. Nhật Bản ................................................................................ 229

PH N TH

HAI

TH C TI N Đ A CHÍNH TR C A VI T NAM HI N NAY

Chương VII

NỀN TẢNG ĐỊA LÝ CỦA ĐỊA CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
1.

Cấu hình đặc biệt của lãnh thổ Việt Nam...................................... 240
1.1. Vị trí lãnh thổ .......................................................................... 240
1.2. Hình thể lãnh thổ ................................................................... 243

2.

Đặc điểm địa hình, địa mạo và tài nguyên của Việt Nam ............. 247

3.

Đặc điểm dân cư trên lãnh thổ Việt Nam ...................................... 255
3.1. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc có một dân tộc vượt trội ..... 255
3.2. Việt Nam có cấu trúc và chất lượng dân số không cao ......... 258
Chương VIII

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHÍNH TRỊ BÊN TRONG CỦA VIỆT NAM
1.

Quá trình biến đổi lãnh thổ và địa chính trị của Việt Nam ............ 261
1.1. Lịch sử mở mang lãnh thổ ..................................................... 261
1.2. Chính sách quản lý biên giới và lãnh thổ trong lịch sử .......... 263
1.3. Quản lý lãnh thổ Việt Nam từ năm 1975 ............................... 267

2.


Đặc điểm địa chính trị của khu vực lãnh thổ
và đường biên giới của Việt Nam .................................................. 273


6

ĐỊA CHÍNH TRỊ: LÝ LUẬN CƠ BẢN V THỰC TIỄN VIỆT NAM

2.1. Cơ sở pháp lý và chính trị quốc tế ......................................... 273
2.2. Đặc điểm địa kinh tế biển Việt Nam ...................................... 284
2.3. Đặc điểm địa chính trị (quốc phòng - an ninh)
của biển Việt Nam ................................................................. 290
2.4. Biển Đông: Vai trò địa chiến lược .......................................... 292
Chương IX

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHÍNH TRỊ
TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1.

Liên kết song phương của Việt Nam từ góc nhìn địa chính trị ...... 323

2.

Đặc điểm địa chính trị
của quan hệ song phương Việt Nam - Trung Quốc hiện nay ....... 338
2.1. Quan hệ bất cân xứng truyền thống ...................................... 338
2.2. Quan hệ hòa bình, hữu nghị song hành với đấu tranh thôn tính
và chống thôn tính ................................................................. 346
2.3. Đặc điểm quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ngày nay ........... 354
Chương X


SỨC MẠNH TỔNG HỢP QUỐC GIA CỦA VIỆT NAM
1.

Định lượng sức mạnh tổng hợp quốc gia của Việt Nam ................ 371

2.

Giải pháp chiến lược toàn diện
nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia của Việt Nam .................. 378
2.1. Chiến lược tổng quát.............................................................. 378
2.2. Chiến lược đổi mới hệ thống chính trị .................................... 379
2.3. Chiến lược chuyển đổi cơ cấu kinh tế ................................... 381
2.4 Chiến lược phát triển văn hoá,
cải cách giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ ............. 383
2.5. Chiến lược an ninh - quốc phòng và chiến lược đối ngoại .... 384

KẾT LUẬN............................................................................................... 389
T I LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 393


DẪN NHẬP
Công trình chuyên khảo này được biên soạn trên cơ sở kết quả
nghiên cứu của đề tài trọng điểm mang tên Lý thuyết địa chính trị và
địa chính trị của Việt Nam hiện nay của Đại học Quốc gia Hà Nội (20112013) do tác giả chủ trì. Việc triển khai đề tài là nhằm đáp ứng được
một phần quan trọng nhu cầu bức thiết của tình hình nghiên cứu
hiện nay ở Việt Nam trên lĩnh vực quan hệ quốc tế và địa chính trị,
phù hợp với định hướng xây dựng đại học nghiên cứu đẳng cấp quốc
tế của Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tầm quan trọng của khoa học Địa chính trị về mặt lý luận chỉ hiện

trên những khía cạnh then chốt sau đây. Thế giới đang trong cao trào
của toàn cầu hóa, nhưng các quốc gia – bất kể đó là nước nhỏ yếu hay
cường quốc, các nước đã phát triển hay các nước đang phát triển –
đều đứng trước vô vàn thách thức, trong đó thách thức về phát triển
và về an ninh là quan trọng nhất. Cơ may tồn tại và phát triển của
các dân tộc vẫn phụ thuộc vào nguồn lực tự nhiên mà đất đai và lãnh
thổ quốc gia cùng với trí tuệ và phẩm chất của giới tinh hoa (bao gồm
chủ yếu các chính trị gia, thương gia, trí thức). Mối tương tác giữa
các lực lượng trên thế giới vì quyền lợi quốc gia đưa đến hệ quả là
trật tự thế giới – nói đúng ra là trật tự quyền lực thế giới – ra đời.
Trong hoàn cảnh hiện nay, sự được mất, thắng thua không chỉ phụ
thuộc vào nội lực quốc gia, mà cũng lệ thuộc vào vị thế địa chính trị
của quốc gia thông qua lựa chọn chiến lược sử dụng không gian
lãnh thổ và chiến lược liên kết – liên minh quốc tế tạo thành sức
mạnh tổng hợp quốc gia.
Đứng trước tình hình quốc tế vô cùng phức tạp, ẩn chứa nhiều
nguy cơ của thời đại toàn cầu hóa và cạnh tranh toàn diện, giới học


8

ĐỊA CHÍNH TRỊ: LÝ LUẬN CƠ BẢN V THỰC TIỄN VIỆT NAM

giả về quan hệ quốc tế và nghiên cứu chiến lược ở các nước phát triển
luôn suy nghĩ, xây dựng các lý thuyết quan hệ quốc tế và sức mạnh
nhằm giúp cho giới lãnh đạo chính trị nắm vận mệnh quốc gia có
được một thứ vũ khí trí tuệ lợi hại trong hoạch định đường lối, chính
sách có lợi nhất cho quốc gia của mình. Thứ vũ khí lợi hại mà giới học
giả có thể cung cấp là sự phân tích các lợi thế và bất lợi về không gian
địa lý của nước mình trong tương quan với các nước khác ở khu vực

và toàn cầu. Từ đó đề xuất các chiến lược cạnh tranh quốc gia, làm
cho nước mình trở thành một cường quốc có lợi thế nhất để chế ngự
cục diện chính trị và kinh tế quốc tế, ít nhất thì cũng giúp cho đất
nước không rơi vào thế bị động chiến lược. Thiên tàn quân sự nước
Pháp Napoleon Bonaparte đã từng nói: Chính sách của quốc gia là do địa
lý của nó quyết định.
Như vậy, đối với giới nghiên cứu quan hệ quốc tế và chiến lược,
đề tài cung cấp hệ thống các quan điểm đa dạng trong lý thuyết địa
chính trị cho các cơ quan nghiên cứu và học giả trên các lĩnh vực
quan hệ quốc tế, chính trị và an ninh quốc tế, khoa học quốc phòng,
kinh tế quốc tế và kinh tế vùng.
Về ý nghĩa thực tiễn về khoa hoc Địa chính trị, người ta thấy
rằng hầu như khắp các khu vực của thế giới đã và đang diễn ra
không ngừng các cuộc tranh chấp lãnh thổ, cả trên đất liền và trên các
vùng biển; quyền kiểm soát các tuyến giao thông quốc tế trên biển,
tranh chấp chủ quyền các vùng đất vốn vô chủ hoặc chủ quyền mơ
hồ (khu vực Trung Đông, Caucasus, Biển Đông, Biển Hoa Đông,
Caspian, Bắc Cực, Nam Cực, không gian vũ trụ) và các vấn đề đạn
đạo, hạt nhân (Bắc Triều Tiên, Iran), chủ nghĩa khủng bố (tổ chức Al
Qaeda, Taliban v.v…). Tất cả đã phơi bày một sự thật hiển nhiên là,
cho dù nhân loại đã hết sức cố gắng kiềm chế và sẵn lòng thoả hiệp
trên nhiều phương diện lợi ích, nhưng vấn đề chủ quyền lãnh thổ,
nỗi lo thiếu hụt tài nguyên mà đất đai đem lại… nghĩa là toàn bộ
không gian sống của các dân tộc không dễ gì có thể thoả hiệp được.
Do đó, sự nổi lên trở lại của nghiên cứu địa chính trị (Geopolitics/
Geopo) là điều tất yếu.
Việt Nam nằm ở một vị trí then chốt về địa chính trị trong khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương, vì đất nước ta là điểm giao của các



Dẫn nhập

9

khu vực Đại chiến lược: Đông Á với Trung Quốc là hạt nhân, khối
Đông Nam Á – ASEAN, Nam Á với Ấn Độ là trung tâm, liên bang
xuyên lục địa Á-Âu – Liên bang Nga, và phương Tây bao gồm Tây
Âu và Bắc Mỹ. Hạt nhân của các khu vực địa chiến lược đều là các
cường quốc có khả năng can dự vào trật tự quyền lực toàn cầu. Từ
lăng kính của lợi ích địa chiến lược của Việt Nam, ở đây có thể nêu ra
6 thế lực địa chính trị tương tác (hợp tác và cạnh tranh) với nhau
nhưng không thể thiếu vai trò địa chiến lược của Việt Nam: Trung Quốc,
Nga, Mỹ/NATO, Nhật Bản, Ấn Độ, ASEAN (xem hình H8). Ngoài sự
hợp tác với nhau ra, thì cuộc cạnh tranh giữa các thế lực địa chiến
lược toàn cầu đó đang ngày càng nóng lên. Mối quan hệ khi ấm khi
lạnh của nước ta với người láng giềng khổng lồ phương Bắc đã và
đang đặt ra nhiều thách thức địa chính trị hết sức nghiêm trọng mà
chúng ta không thể né tránh. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải có hiểu
biết khoa học, đầy đủ về mối quan hệ tương tác giữa địa lý và chính
trị, giữa vị trí trong không gian tự nhiên và vị trí trong không gian
quan hệ quốc tế. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về tình thế hiện nay
của đất nước, chúng ta mới có thể hoạch định một đường lối đối
ngoại, liên minh liên kết trên cơ sở các tương quan địa chiến lược khu
vực và toàn cầu thì mới có thể hoá giải thành công các nguy cơ và tạo
bước đột phá cho sự phát triển của dân tộc cả về lâu dài và trước mắt.
Tuy nhiên, điều đáng tiếc là ở Việt Nam cho đến nay chưa có một
công trình nào tiến hành phân tích các lý thuyết địa chính trị nói
chung và đặc điểm địa chính trị của đất nước ta nói riêng. Do đó, việc
triển khai đề tài trọng điểm Lý thuyết địa chính trị và địa chính trị của
Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm ba bộ phận chủ yếu:
(1) Các hệ thống lý thuyết địa chính trị trên thế giới; (2) Quan hệ quốc
tế của một số khu vực địa chiến lược trên thế giới; (3) Các đặc điểm
địa chính trị và mạng lưới quan hệ quốc tế của Việt Nam. Nhưng do
hạn chế về quy mô và nguồn lực của đề tài, đề tài này chỉ tập trong
vào một phạm vi hẹp hơn, khả thi hơn cả về không gian và thời gian:
(1) Các hệ thống lý thuyết địa chính trị hiện đại có ảnh hưởng quan
trọng trên thế giới (từ Chiến tranh thế giới II); (2) Quan hệ địa chiến
lược giữa một số cường quốc và tổ chức khu vực then chốt trên thế


10

ĐỊA CHÍNH TRỊ: LÝ LUẬN CƠ BẢN V THỰC TIỄN VIỆT NAM

giới hiện nay; (3) Các đặc điểm địa chính trị của lãnh thổ Việt Nam và
quan hệ địa chiến lược của Việt Nam với các cường quốc và các nước
làng giềng hiện nay (sau 1975).
- Mục tiêu nghiên cứu tổng quát:
Phân tích và đánh giá các lý thuyết địa chính trị hiện đại trên thế
giới, rút ra những quy luật địa chính trị trong xây dựng sức mạnh
tổng hợp quốc gia, trên cơ sở đó vận dụng các tri thức địa chính trị
vào phân tích đặc điểm địa chính trị của Việt Nam hiện nay và đề
xuất các giải pháp chính sách để phát triển sức mạnh tổng hợp quốc
gia của Việt Nam, khai thác lợi thế và tăng cường vị thế địa chính trị
của Việt Nam ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và trên thế giới.
Nhiệm vụ cụ thể:
(1) Làm rõ quá trình phát triển của khoa học địa chính trị; có
đánh giá xác đáng những ưu điểm và nhược điểm của các lý thuyết
địa chính trị trên thế giới; làm rõ một số vấn đề cơ bản của lý luận địa

chính trị như vấn đề sức mạnh quốc gia và cạnh tranh quốc gia, các
đặc điểm địa chính trị của các kiểu quan hệ quốc tế v.v…
(2) Làm rõ các đặc điểm địa chính trị chủ yếu của Việt Nam và sự
chi phối của chúng đối với mạng lưới quan hệ quốc tế của Việt Nam,
những thách thức địa chiến lược mà Việt Nam đang phải đối mặt.
(3) Đề xuất được các giải pháp chính sách để phát triển sức mạnh
tổng hợp quốc gia của Việt Nam, nhằm tăng cường vị thế địa chính
trị của Việt Nam trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và thế giới.
Để đạt được 3 mục tiêu trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
- Hệ thống hoá, so sánh các học thuyết địa chính trị (Geopolitical
Discurse) cả về chiều lịch đại lẫn đồng đại để thấy được ưu điểm và
hạn chế của các học thuyết đó;
- Đề xuất một số khái niệm địa chính trị quan trọng làm nền tảng
cho phân tích hệ vấn đề nêu ra trong đề tài;
- Vận dụng các nguyên lý lý thuyết của địa chính trị vào phân
tích các đặc điểm của địa chính trị Việt Nam như là một thực thể


Dẫn nhập

11

khách quan cả trên bình diện lịch sử và hiện tại, làm rõ được những
thách thức;
Căn cứ vào những điều kiện Địa chính trị bên trong và bên ngoài
của Việt Nam, đề xuất hệ thống giải pháp tổng thể nâng cao sức mạnh
tổng hợp quốc gia, giúp Việt Nam có thể nhanh chóng thoát khỏi tình
thế bế tắc địa chiến lược hiện nay trong quan hệ với các cường quốc,
đặc biệt trong quan hệ với Trung Quốc.

Do là công trình lý luận đề cập nhiều vấn đề hết sức quan trọng
và nhạy cảm, năng lực của người nghiên cứu có hạn, nên công trình
chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong các nhà nghiên cứu, anh chị
em sinh viên, nghiên cứu sinh chỉ giáo.
- Nội dung nghiên cứu của đề tài:
Địa chính trị là bộ môn khoa học chính trị nghiên cứu sự tương
tác giữa các hiện tượng chính trị và địa lý, đặc biệt là về quan hệ giữa
các quốc gia trên cơ sở các nhân tố địa lý. Trên cơ sở đúc kết lịch sử
nghiên cứu vấn đề, các mục tiêu tổng quát và cụ thể vừa nêu. Nội
dung đề tài sẽ tiến hành phân tích các vấn đề chủ yếu sau đây:
Phần thứ nhất: Những vấn đề lý luận cơ bản của địa chính trị
- Quá trình hình thành và phát triển của lý thuyết địa chính trị
- Những nền tảng địa lý và chính trị của địa chính trị
- Những vấn đề cơ bản của lý luận địa chính trị
Phần thứ hai: Thực tiễn địa chính trị của Việt Nam hiện nay
- Đặc điểm cục diện địa chính trị thế giới và khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương sau Chiến tranh Lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam
- Đặc điểm địa chính trị của Việt Nam với tư cách chủ thể quốc gia
- Nền tảng địa lý đối với địa chính trị của Việt Nam
- Những giải pháp chính sách nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc
gia và vị thế quốc tế của Việt Nam
Tác giả xin trân trọng cảm ơn.

Lương Văn Kế


12

ĐỊA CHÍNH TRỊ: LÝ LUẬN CƠ BẢN V THỰC TIỄN VIỆT NAM



PHẦN THỨ NHẤT

NH÷NG VÊN §Ò Lý LUËN C¥ B¶N CñA §ÞA CHÝNH TRÞ


14

ĐỊA CHÍNH TRỊ: LÝ LUẬN CƠ BẢN V THỰC TIỄN VIỆT NAM


Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu về lý luận,…

15

Chương I

Tæng quan t×nh h×nh nghiªn cøu vÒ lý luËn, §Þa chÝnh trÞ
1. Nghiên cứu ngoài nước
Lịch sử lý thuyết địa chính trị vốn ra đời từ rất sớm ở cả phương
Đông lẫn phương Tây. Ở phương Đông, Tôn Tử (tức Tôn Vũ, Trung
Quốc) được xem là thiên tài khoa học quân sự và địa chính trị đầu
tiên với tác phẩm bất hủ Binh pháp Tôn Tử. Binh pháp Ngô Tôn Tử là
sách chiến lược chiến thuật được soạn thảo vào năm 512 TCN thời
Xuân thu như là kế sách sử dụng các yếu tố địa lý không gian để
dâng lên Ngô Vương Hạp Lư trong sự nghiệp bình thiên hạ. Nó
không chỉ đặt nền móng cho binh học truyền thống, mà còn sáng tạo
nên một hệ thống lý luận quân sự hoàn chỉnh đầu tiên trong lịch sử
nhân loại. Bởi vậy, Binh pháp Tôn Tử được tôn xưng là Tuyệt tác binh
thư hàng đầu của thế giới cổ đại. Binh pháp Tôn Tử có tầm ảnh hưởng

quốc tế to lớn.
Trong thời hiện đại, những chính khách lớn như Mao Trạch
Đông, Đặng Tiểu Bình đều đã đưa ra những tư tưởng địa chính trị
nổi tiếng như lấy nông thôn bao vây thành thị, thế giới chia ba (của Mao
Trạch Đông), Đông-Tây Nam-Bắc và Hòa bình phát triển (của Đặng Tiểu
Bình). Ngoài ra, trong giới học thuật, đặc biệt từ thập niên 80 trở lại
đây đã xuất hiện nhiều lý thuyết địa chính trị. Vào thập niên 80, nhà
nghiên cứu địa lý nhân văn Lý Húc Đán đã viết cuốn Địa lý học chính
trị, cho rằng địa lý chính trị là môn khoa học nghiên cứu phân bố địa
lý của các hoạt động chính trị trên lãnh thổ quốc gia hoặc giữa các
quốc gia. Giáo sư Bào Giác Dân viết một loạt công trình như: Mấy vấn
đề nghiên cứu địa lý chính trị, Các luận văn về địa lý nhân văn, Lý luận và
thực tiễn địa lý học nhân văn. Năm 1991, Giáo sư Trương Văn Khuê viết
cuốn chuyên khảo Địa lý học chính trị với những phân tích sâu sắc về
các trường phái địa chính trị trên thế giới, đặt nền móng cho các


16

ĐỊA CHÍNH TRỊ: LÝ LUẬN CƠ BẢN V THỰC TIỄN VIỆT NAM

nghiên cứu sau này về địa chính trị ở Trung Quốc. Vương Chính Nghị
của Đại học Nam Khai năm 1993 viết sách Địa lý học chính trị hiện đại,
đưa ra các khái niệm khu vực chính trị, phân tích tĩnh về địa lý không
gian và quan hệ không gian với chính trị của quốc gia. Cũng trong
năm đó, Vương Quốc Lương công bố sách Địa lý chính trị thế giới,
phân tích sâu sắc cục diện chính trị thế giới và những biến đổi của nó,
phân tích quá trình và quy luật hưng vong của các cường quốc. Thẩm
Vĩ Liệt đã cho ra đời sách Địa lý quân sự thế giới với 14 chương, 2 tập,
bàn về mọi khía cạnh địa lý liên quan đến quân sự và chiến tranh.

Vương Ân Vịnh và Lý Quí Tài công bố một loạt công trình về địa lý
chính trị và địa chính trị, trong đó có các sách: Hình thái chiến lược
Trung Quốc nhìn từ góc độ địa chính trị, Xu thế phát triển của hợp tác kinh
tế Châu Á-Thái Bình Dương. Năm 1999, Vương Ân Vịnh cùng tập thể
tác giả viết công trình xuất sắc Địa lý học chính trị, phân tích nhiều
phương diện cơ bản của môn địa lý chính trị và địa chính trị, hệ
thống hóa các thành tựu nghiên cứu địa chính trị của Trung Quốc.
Năm 2003 xuất hiện công trình tập hợp lớn Thế giới, nước Mỹ và Trung
Quốc – Nghiên cứu lý luận về quan hệ quốc tế và chiến lược quốc tế của tập
thể tác giả dưới sự chủ biên của Sở Thụ Long và Cảnh Tần (Nxb Đại
học Thanh Hoa, Bắc Kinh). Trong công trình đồ sộ về chính trị quốc
tế này, các vấn đề lý thuyết địa chính trị chiếm một vị trí quan trọng
với nhiều bài viết rất sâu sắc, đặc biệt là về cuộc cạnh tranh giữa
“siêu cường đang lên” Trung Quốc và “siêu cường đi xuống” là Mỹ.
Ở phương Tây, tư tưởng về không gian địa chính trị gắn liền với
khái niệm “Topos” (đồ hình) trong tiếng Hy Lạp cổ. Các nhà địa lý
chính trị cổ đại Hy Lạp nổi tiếng nhất là Herodotus và Hypocrates. Nhà
chính trị N. Machiavelli (1469-1527) người Italia đã cho ra đời nhiều
công trình về chính trị học, trong đó nổi bật là tác phẩm bất hủ Quân
vương (The Prince). Trong tác phẩm luận bàn về thuật trị nước nổi
tiếng ấy, ông nêu rõ: “Quân vương phải nắm được các loại địa hình, phải
nhớ được các sườn núi, thung lũng, đồng bằng, các dòng sông và đầm lầy;
và phải bỏ phần lớn thời gian của mình để tìm hiểu những điều ấy”. Nhà
triết học Thomas Hobbes (Anh quốc) trong tác phẩm bất hủ Leviathan
thì cho rằng không gian ba chiều Euclid là một chuẩn mực (kanonic) đối
với tư duy chính trị, nhà nước và không gian chính trị. Montesquieu


Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu về lý luận,…


17

trong tác phẩm bất hủ Bàn về tinh thần pháp luật (De L’Esprit des Lois)
đã đánh giá cao đặc biệt vai trò của không gian địa lý: khí hậu và cảnh
quan là những điều kiện tự nhiên phản ánh vào trong tinh thần luật pháp
của người lập pháp. Ông đã nêu ra những điều kiện về quy mô quốc
gia (quy mô diện tích) để một nước có được an ninh. Ông còn viết rất
cụ thể ở chương 6 bàn Về lực lượng phòng thủ của các quốc gia nói
chung… Tư tưởng địa chính trị của Montesquieu có ảnh hưởng mạnh
mẽ không chỉ đối với giới chính khách và học giả Châu Âu, mà còn
có ảnh hưởng to lớn đến tư tưởng của các nhà soạn thảo Hiến pháp
Hoa Kỳ năm 1787 trong các luận văn của Th. Jefferson (Notes on the
State of Virginia). Nhà lý luận về quân sự và chiến tranh người Đức
Carl von Clausewitz (1780-1831) trong tác phẩm Bàn về chiến tranh (Vom
Kriege) cũng đã chú ý tới tầm quan trọng của địa hình cho cả việc tấn
công và phòng thủ. Ông nhấn mạnh “sự hỗ trợ của địa hình nơi giao
chiến”, thảo luận những vấn đề về không gian như là điều kiện tiên
quyết cho sự thành công của cuộc “chiến tranh nhân dân” chiến tranh
có thể nổ ra ngay trong trung tâm của đất nước đó, nơi chiến tranh
được bao bọc bởi một phần lớn đất nước đó, những khó khăn và sự
huỷ diệt hoàn cảnh tự nhiên của đất nước đó.
Nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ XIX thì các lý thuyết kinh điển
về địa chính trị ở phương Tây mới chào đời. Đó là nhờ bước đột phá
về kỹ thuật vẽ bản đồ ở châu Âu. Sự chính xác trong kỹ thuật vẽ bản
đồ mới đã tạo ra một cảm nhận về sự kình địch và chủ nghĩa đế quốc.
Các đường biên giới lãnh thổ trên các bản đồ được vẽ theo lăng kính
lợi ích của từng cường quốc thực dân tỏ ra mâu thuẫn nhau và đó
chính là “những dấu hiệu của chiến tranh’. Một số nhà nghiên cứu
địa lý chính trị, như James Bryce (Anh quốc), trong công trình
Impressions of South Africa (1897) đã bày tỏ sự phản đối cuộc chiến

thuộc địa của Anh quốc ở Nam Phi và đã dự cảm về sự mở đầu của
một tiến trình phân chia lại thế giới, ”đại gia đình của nhân loại” sẽ
chuyển từ sự hỗn loạn theo phỏng đoán trở thành vũ trụ khoa học. Nhà địa
lý vô chính phủ người Nga Peter Kropotkin đã viết rằng, không thể
hiểu được địa lý nhân văn mà con người bị loại trừ, nghiên cứu thiên
nhiên mà không có sự nghiên cứu con người là một bài tập vô dụng.


18

ĐỊA CHÍNH TRỊ: LÝ LUẬN CƠ BẢN V THỰC TIỄN VIỆT NAM

Các công trình tiếp theo mang tư tưởng địa chính trị được viết
bởi Carl Schmitt (Đức). Trong các công trình của mình, C. Schmitt đã
phát triển khái niệm Topo về định hướng không gian trong tư tưởng
và hành động chính trị. Luận đề chủ chốt của ông là, trật tự xã hội
(Ordnung) và trật tự địa lý (Ortung) luôn trong thế hỗ tương, chính
nhân tố trật tự không gian tạo ra kết quả cho trật tự xã hội; sự gặp gỡ
giữa hai kiểu trật tự địa lý và trật tự xã hội tạo ra trật tự không gian
xã hội (Raumordnung/ Nomos).1 Ông đã đưa vào tư tưởng về không
gian một ý niệm về tuyến tính (Liniendenken) và phát triển rộng rãi ý
niệm đó.
Trong giai đoạn manh nha của địa chính trị, hai cái tên hay được
nhắc đến là Friedrich Ratzel (1844-1904) người Đức và Rudolf Kjellén
(1864-1922) người Thuỵ Điển. Cả hai ông đã có cống hiến to lớn trong
việc hình thành môn khoa học mới này và tư tưởng của hai ông có
nhiều nét tương đồng. Ratzel nỗ lực tìm kiếm các quy luật chung về
mối quan hệ giữa đất đai và nhà nước. Tư tưởng Ratzel chú ý đến việc
thể hiện địa lý nước Đức. Ratzel viết hai công trình chủ chốt mở đường
cho địa chính trị Đức là: Quy luật tăng trưởng không gian của các quốc gia

(1895) và Địa lý chính trị (1896). Ratzel xem Nhà nước là một “cơ quan
dựa trên đất đai” (bodenstaendiger Oganismus), một tổ chức không chỉ
tồn tại trong không gian địa lý mà còn là một phần cấu thành không
gian ấy.2 Những đặc điểm quan trọng nhất liên quan đến thuộc tính
không gian là những đặc điểm của Raum và Lage (không gian và vị trí),
sự thành công của một nước phần lớn phụ thuộc vào sự tác động giữa
hai cái đó. Trong khi đó, R. Kjellén (1864-1922) người Thuỵ Điển là
người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “Địa chính trị” (Geopolitik) vào năm
1916. Ông theo đuổi một lối tư duy hoàn toàn mới mẻ về những mối
quan hệ quốc tế và về bản chất của nhà nước. Hai công trình chủ yếu
của ông là Các cường quốc (Die Grossmaechte, 1914), và Nhà nước như

1

Thực ra tên gọi Nomos theo
tiếng Hy Lạp cổ có hai nghĩa tuỳ theo trọng âm: Nomós = Tỉnh, Quận (Bezirk);
Nómos = Quy luật, Điều luật (Gesetz).

2

Về 7 quy luật tăng trưởng không gian quốc gia mà Ratzel nêu ra, xem Lương Văn
Kế: Thế giới đa chiều. Nxb Thế giới, Hà Nội, 2007, tr. 94-97.


Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu về lý luận,…

19

là một hình thái sống (Staten som Lifsform, 1916). Ngay lập tức cuốn
sách thứ hai này đã được dịch sang tiếng Đức và xuất bản vào năm

sau đó với tựa đề Der Staat als Lebensform (Kjellén, 1917). Nó đã từng
được tái bản đến 16 lần trong vòng 22 năm. Trong tác phẩm nổi tiếng
này, Kjllén đã xem nhà nước là một ”thực thể sống siêu cá nhân”.
Ông đưa ra 5 tiểu hệ thống khác nhau cấu thành học thuyết về nhà
nước của mình.
Trong khoa địa chính trị, H. Mackinder (1861-1967) người Anh là
một tên tuổi lớn, vì ông là người tiên phong của địa lý học mới ở
nước Anh cuối thế kỷ XIX. Công trình Britain and the British Seas của
ông xuất hiện đầu tiên và đã đặt nước Anh – một cường quốc thế giới
– vào bối cảnh địa lý và địa chính trị của nó. Ngày 25 tháng 1 năm
1904, Mackinder đã trình bày một bản tham luận trước Hội Địa lý
Hoàng gia với tiêu đề “The geographical pivot of history” (Mấu chốt địa
lý của lịch sử). Trong bản tham luận đó Mackinder đã làm được điều
mà Kjellén và Ratzel không làm được, đó là đưa ra một viễn cảnh địa
chính trị cho phạm vi toàn thế giới. Luận đề cốt lõi của tham luận là lý
thuyết về “Khu trung tâm” (Pivot Area), đề cập đến sự xuất hiện của
cường quốc lục địa, một trong những yếu tố có ảnh hưởng quan
trọng nhất đến sự phát triển của địa lý chính trị và địa chính trị trong
cộng đồng các quốc gia nói tiếng Anh. Các tác phẩm nói trên cùng
với loạt công trình khác tiếp theo của H. Mackinder đã có ảnh hưởng
to lớn trong định hình một cái nhìn địa lý học đối với các vấn đề
chính trị quốc tế và vấn đề quyền lực địa lý trong suốt hơn một thế
kỷ nay.
Ở Mỹ, người đầu tiên phân biệt rõ ràng giữa cường quốc biển và
cường quốc lục địa và phân tích những vai trò khác nhau của chúng
trong lịch sử thế giới là Alfred Thayer Mahan. Trong cuốn The
Influence of Sea Power upon History (1890), với chương Dẫn luận
mang tên “Elements of Sea Power, A. Mahan đã nghiên cứu khái quát
về cuộc xung đột giữa hải quân Anh-Pháp. Cuốn sách đó trở thành
một trong những cuốn có ảnh hưởng nhất trong địa chính trị. Nó

trình bày học thuyết chung đầu tiên về cường quốc hải quân trong
thời hiện đại. Theo Mahan, cường quốc hải quân “vừa là cái trừu


20

ĐỊA CHÍNH TRỊ: LÝ LUẬN CƠ BẢN V THỰC TIỄN VIỆT NAM

tượng vừa là sự thật cụ thể” và đã bị các sử gia cùng các nhà khoa
học chính trị lãng quên trong phân tích của họ về nền tảng của quyền
lực. Mục đích của ông là để giành lại và nghiên cứu vai trò của cường
quốc hải quân với ý định “làm nổi bật những lợi ích của biển”. Công
trình này đã dẫn ông đi tới kết luận: sức mạnh hải quân là một yếu tố
quan trọng nhất để lý giải sự thành công của các dân tộc. Ông đã đưa
ra 6 điều kiện phát huy được sức mạnh biển của mỗi quốc gia. Ông
cho rằng vị trí thuận lợi của Mỹ sẽ cho nước này cơ hội để vượt qua
quyền lực tối cao của nước Anh và tin đó là yếu tố chủ đạo, do vậy
bất kỳ ai là chủ nhân của các vùng biển đều làm chủ tình thế.
Ở Đức, học giả nổi tiếng người Đức thập niên 1920-1930 là Otto
Maull vào năm 1925 đã cho ra đời tác phẩm Địa lý chính trị (Politische
Geographie). Trong đó ông tiếp tục đưa ra các quan niệm theo truyền
thống của Ratzel nhưng cũng có những quan điểm mới. Ông đặc biệt
nhấn mạnh vai trò của yếu tố văn hoá trong không gian, ông viết:
“Không phải cảnh quan tự nhiên, mà mảnh đất vừa được tạo dựng
lên bằng sự chung đúc của nhân loại văn hoá với đất đai mới là lãnh
thổ quốc gia. Cảnh quan văn hoá đã mọc lên ở chính nơi cảnh quan
tự nhiên. Các nhà nước … không chỉ được nhìn nhận trong sự phụ
thuộc của chúng vào cảnh quan tự nhiên, mà chúng phải được nhìn
nhận tổng hợp một cách hữu cơ từ lãnh thổ văn hóa và nhân loại văn
hoá”. Đầu thập niên 1920, hai cha con Karl Haushofer và Alexander

Haushofer người Đức đã sáng lập tạp chí Địa chính trị năm 1924
(Zeitschrift fuer Geopolitik). Karl Haushofer đã cho ra đời tạp chí
bình luận về địa chính trị bằng tiếng Anh Periodical of the Society of
Geography của Hiệp hội các nhà địa lý học Đức mà ông làm Tổng Thư
ký. Ông đã viết hàng loạt tác phẩm về địa chính trị, trong đó có công
trình Politische Erdkunde und Geopolitik (Khoa học Trái Đất về chính trị
và địa chính trị, 1925), Nachschrift zu Otto Maull: Politische Geographie
und Geopolitik (Lại nói về Otto Maull: Địa lý chính trị và địa chính trị,
1926) v.v… K. Haushofer (Haushofer cha) đã đưa ra khái niệm liên
vùng toàn cầu (pan-region). Theo đó, giới địa chính trị Đức nhận thấy
thế giới được phân chia thành các khối quốc gia liền lãnh thổ với nhau.
Những khối liên kết quốc gia đó ra đời sau sự đổ vỡ hệ thống mậu
dịch tự do do Anh lãnh đạo của thế kỷ XIX nhằm bảo hộ ưu thế của


Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu về lý luận,…

21

một số cường quốc thông qua các rào cản thuế quan. Mỗi khối liên
vùng là một đơn vị địa lý chính trị tự cung tự cấp. Chẳng hạn việc
chuyển sang cải cách thuế quan của H. Mackinder là để thúc đẩy
Vương quốc Anh trở thành một khối kinh tế thực hiện chính sách về
“những ưu tiên vương giả”. Vì nước Đức đã mất hết các thuộc địa
sau Chiến tranh thế giới I, nên Karl Haushofer có ý tưởng rằng Đức
cần bành trướng sang lãnh thổ Đông Âu để mở rộng Lebensraum
(không gian sống). Nhưng ý tưởng phân chia lại thuộc địa đã dẫn
đến yêu sách sửa đổi lại Hiệp ước Versaille. Điều này cũng có nghĩa
là đề cao hơn nữa vai trò toàn cầu của Đức trên thế giới. Kết quả là sự
giải thích các vùng kinh tế toàn cầu như những khối liên vùng. Tuy tư

tưởng về các khối kinh tế không phải là mới, nhưng khái niệm đó có
sự khác biệt trong ngoại diên: đó là sự bao quát không gian của
những mô hình kinh tế nhất định. Những liên vùng như thế có tầm
quan trọng hơn là những khối kinh tế đơn thuần. Chúng dựa trên
những “tư tưởng xuyên vùng” (pan-ideas) được đưa ra làm ý thức hệ
cho cả vùng (O’ Loughlin và Van der Wusten 1988). Chủ nghĩa toàn
cầu Mỹ (Pan-Americanism) trong học thuyết Monroe là “tư tưởng về
toàn bộ” cổ điển được gắn cho một liên vùng.
Ban đầu K. Haushofer vạch ra ba liên vùng: liên vùng Viễn Đông
do Nhật thống trị, liên vùng Bắc bán cầu do Mỹ thống trị, và liên
vùng châu Âu và châu Phi do Đức thống trị. Các nước thuộc nhóm
người vượt không gian (Raumuberwindende) mới có thể mở rộng bằng
cách chiếm đất liền và biển, và Haushofer cho đây là cơ sở để thống
nhất phần lớn lục địa khổng lồ này. Những miền đất bị chia cắt thuộc
“vành đai công phá” hay “vùng đệm” giữa cường quốc biển và
cường quốc hải quân sẽ trở thành các trung tâm của các nước mới,
khổng lồ này. Một cấu trúc hoàn toàn mới của cường quốc thế giới sẽ
thay thế cấu trúc do cường quốc hải quân quy định.1
Alexander Haushofer đã định nghĩa “Địa chính trị là lý thuyết về
tương liên địa cầu của các quá trình chính trị. Nó bắt rễ trên một nền tảng
rộng rãi của địa lý, đặc biệt là của địa lý chính trị với tư cách lý thuyết về
các thể không gian hữu cơ chính trị và cấu trúc của chúng.” Và ước muốn
1

G. Parker: Geopolitics. Past. Present. Furture. London… 1998. tr. 121.


22

ĐỊA CHÍNH TRỊ: LÝ LUẬN CƠ BẢN V THỰC TIỄN VIỆT NAM


của ông là “Địa chính trị muốn và phải trở thành tri thức địa lý của quyền
lực nhà nước.” (Haushofer, 1928, tr. 27). Với một quan niệm thực dụng
luận như vậy, cũng dễ hiểu tại sao địa chính trị Đức lại dính líu chặt
chẽ với chế độ Quốc xã của R. Hitler.
Vào đầu thập niên 1950, tờ Tạp chí Địa chính trị vốn ra đời năm
1924 bởi K. Haushofer đã được tái xuất bản và hoạt động đến năm
1967. Trong thời gian hậu chiến, các nhà nghiên cứu đã rất nỗ lực
phục hồi môn khoa học địa chính trị. Những đại biểu tiếp theo trong
địa chính trị Đức hậu chiến là Overbeck, Czajka, Scholler, rồi đến các
học giả như Boesler, Kuhn, Herold, Schwind, v.v… Với tư cách các
nhà địa chính trị học phê phán, các học giả đã xem xét lại những
đóng góp thuần tuý học thuật của các bậc tiền bối, kể cả của hai cha
con Haushofer. Các học giả Đức theo truyền thống vẫn tiếp tục thừa
nhận mối tương tác giữa hành vi nhà nước và môi trường địa lý, hệ
thống hoá các cách phân loại quốc gia theo những tiêu chí khác nhau,
đưa ra những phê bình đối với từng kiểu phân loại.
Trong lịch sử khoa địa chính trị, không thể không nhắc đến học
giả thực dân người Pháp Vidal de la Blache và các nhà địa chính trị
Pháp đầu tiên khác. Paul Vidal de la Blache (1845-1918) theo dõi các
công trình về địa chính trị Đức và đã nhận ra tầm quan trọng to lớn
của chúng. Ông đã nói rõ quan điểm của mình rằng, địa lý chính trị là
một phần của địa lý nhân văn. Trong cuốn La France de l’Est, dường như
ông chuyển từ chủ nghĩa duy tâm tới chủ nghĩa duy thực và nhấn
mạnh nhiều hơn vào quyền lực. Năm 1911, ở Pháp đã ra đời tác
phẩm Géographie sociale. Le sol et l’État của Camille Vallaux. Học giả này
phản đối quan niệm nhà nước là một tổ chức cũng như thuyết môi
trường quyết định mang tinh thần chủ nghĩa dân tộc Đức của Ratzel.
Trong cuốn Sự suy tàn của Châu Âu (Le Déclin de l’Europe, xuất bản năm
1920), nhà địa lý học Albert Demangeon nhận ra lục địa Châu Âu là

một tổng thể lớn và các phần của nó là do các nước tạo thành. Ông
nhấn mạnh: bản thân các nhà nước không phải là những thực thể địa
chính trị tự trị, nhưng là những phần của một tổng thể địa chính trị
rộng lớn hơn. Các nhà địa lý Pháp, những người chỉ trích gay gắt
Geopolitik, quan sát địa lý chính trị dưới một ánh sáng khác. Những
người theo thuyết khả năng, không phải những người theo thuyết


Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu về lý luận,…

23

quyết định, khẳng định tầm quan trọng của môi trường đối với
chủng tộc. Họ quan niệm rằng: nhà nước là kết quả của sự tương tác
tích cực giữa con người và hiện tượng tự nhiên. Đối với Vidal, nhà
nước là des Faits en mouvement, những thực thể năng động và là sản
phẩm của sự tiến triển trong không gian và thời gian. Kết quả là, ý
niệm về hiện tượng “thiên nhiên” sống của họ hoàn toàn trái ý muốn.
Demangeon nhấn mạnh: chuyển động (la circulation) là yếu tố cần
thiết để chấm dứt sự cô lập của nhà nước, và “những chiếc dù lớn
chuyển động” là đường lối được thay đổi và sự hội nhập.
Demangeon tin chắc rằng nhất thiết phải tìm lại tính thống nhất của
địa chính trị châu Âu. Ông nhìn thấy “những chiếc dù lớn đang
chuyển động” tạo thành khuôn khổ địa chính trị và xung quanh nó,
lục địa châu Âu được làm lại. Trong khung cảnh này, miền sông
Ranh được xem như một thực tế địa chính trị tồn tại dưới những bộ
phận cấu thành nên đời sống chính trị của nó (Demangeon và Febvre,
1935). Sông Ranh không phải là một biên giới tự nhiên hay chỗ chia
cắt giữa Đức và Pháp, nó là một đơn vị con người và là mối liên kết
tự nhiên. Demangeo và Febvre nhìn từ thực tế hiện thời cho tới tận

“lộ trình minh bạch và đẹp đẽ’, nơi họ phản đối “biên giới cằn cỗi và
đẫm máu” còn đang tồn tại lúc này” (như trên: 291). Chính vì thế,
Demangeon có thể thấy tiến trình thống nhất châu Âu “bắt buộc phải
bắt đầu từ Sông Ranh” để tạo ra một thực thể địa chính trị tối cao của
châu lục. Còn đối với học giả Jaques Ancel, thì biên giới không phải là
rào cản khắc nghiệt (barrière rigoureuse) mà luôn là một vòng ngoài tạm
thời (Periphérie tourjours provisoire), nên không có gì là “tự nhiên”
bao quanh nó cả. “Ranh giới của quốc gia lung lay, kết quả của tình
trạng bất ổn triền miên... biên giới là đường đẳng cấp chính trị”
(Ance, 1938, tr. 195). Do đó, bất kỳ lúc nào, đường biên địa chính trị
chỉ là cái gì đó nhất thời. Và sự chối bỏ sự thực này chính là thoát ly
những thực tế về thế giới con người. Thực tế này là các nền văn minh
hình thành từ lối sống (genres de vie) của một dân tộc trong một môi
trường cụ thể. Ví dụ, Văn minh Sông Ranh (la civilisation rhénam) là
một thực tế lâu dài và còn tiếp tục tồn tại một cách áp đặt dưới bề
ngoài chính trị giả. Ancel cho rằng bề ngoài đó được sinh ra bởi “Văn
minh Liên minh chính trị” (Anschluss rhénane) của Phổ và sự Phổ hoá
ép buộc (Musspreussen), là bạn đồng hành của địa chính trị. Theo


24

ĐỊA CHÍNH TRỊ: LÝ LUẬN CƠ BẢN V THỰC TIỄN VIỆT NAM

Ancel, nhà nước đang tồn tại, đặc biệt là cường quốc, đều là tạo vật
địa chính trị giả, nên mặc dù chúng có vẻ uy quyền và vĩnh cửu
nhưng thực chất là mong manh và tất yếu cuối cùng sẽ tan vỡ.1
Thập niên 1970 đã hình thành ở Pháp một trường phái địa chính
trị với tên tuổi nhà nghiên cứu Yves Lacoste. Sự ra đời của tạp chí Địa
chính trị với tên gọi Hérodote vào tháng 2 năm 1976 dưới sự lãnh đạo

của Y. Lacoste báo hiệu một bước ngoặt lớn trong tư tưởng địa lý
chính trị Pháp sau Chiến tranh thế giới II. Tờ tạp chí này hướng về
đối tượng phục vụ là những người cấp tiến chính trị, những người
Marxist, giới công đoàn. Đồng thời xét về khía cạnh chuyên môn
khoa học, nó cũng nhằm vào các nhà địa lý học, triết học, chính khách
và các nhà quy hoạch đô thị. Nghiên cứu của Y. Lacoste cũng như của
tạp chí do ông sáng lập có mục đích chống chiến tranh và bá quyền
của địa chính trị cũ. Vì thế cũng có thể xếp ông vào trường phái địa
chính trị phê phán thời hậu hiện đại.2 Sau Chiến tranh Lạnh, ở Pháp
cũng ra đời trường phái địa chính trị đô thị, trong đó có các công
trình của học giả nổi tiếng Paul Virilio. Chẳng hạn trong cuốn Khảo cổ
học các lô cốt (Bunker Archaeology), Virilio đã cho ra đời một loạt các
ý tưởng cách tân và gợi mở về các khuynh hướng chuyển giao của
chiến tranh, công nghệ, các mô hình giải quyết tranh chấp, thông tin
liên lạc, phương tiện truyền thông và phim ảnh. Điểm đáng lưu ý là
Virilio đã quá thổi phồng vai trò của tốc độ.
Ở Anh, sau Chiến tranh thế giới II, địa chính trị lại phục hưng rất
chậm so với ở Pháp. Tuy nhiên cho đến những thập niên gần đây, địa
chính trị Anh có những đại biểu xuất sắc, trong đó phải kể đến hai
học giả nổi tiếng thế giới là Peter Taylor và Geoffrey Parker. Peter
Taylor sáng lập tờ quý san Địa lý chính trị (Political Geography –
Quarterly) năm 1982 và Tạp chí Kinh tế chính trị quốc tế (Review of
International Political Economy) năm 1992. Ông là tác giả của trên 300
công trình nghiên cứu, trong đó có trên 20 cuốn sách đã đăng tải trên
mạng, như World City Network: a Global Urban Analysis (Routledge,

1

/>-de-la-geopolitique-francaise


2

/>

Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu về lý luận,…

25

2004), Political Geography: World-Economy, Nation-State, Locality, và
Cities in Globalization: Practices, Policies and Theories (Routledge, 2006).
Học giả nguời Anh G. Parker, hiện đang giảng dạy tại Mỹ, là một
trong những lý thuyết gia hàng đầu hiện nay về địa chính trị phê
phán. Các nghiên cứu theo chủ nghĩa tự do của ông và nhiều học giả
khác trong thập niên 80 và 90 thế kỷ XX đã góp phần xây dựng nên
trường phái địa chính trị phê phán. G. Parker đã từng có công trình Lịch
sử chiến tranh (History of Warfare) được dịch sang tiếng Việt và tiếng
Trung Quốc.1 Trong công trình lý thuyết Địa chính trị - Quá khứ, Hiện
tại và Tương lai, Parker đã phân tích sâu sắc nhiều vấn đề lớn của
khoa địa chính trị, trong đó có hệ vấn đề về phân định các khu vực địa
chiến lược và địa chính trị trên thế giới.
Ở Mỹ, trong khi diễn ra Chiến tranh thế giới II, chiến lược gia
Nicolas Spykman đã nhận thức được nhu cầu của Mỹ sau chiến tranh
là trung hoà hoá quyền lực của khu trung tâm đất liền đại lục Âu-Á
(Heartland). Công trình bất hủ Địa lý của hoà bình sau khi ông mất
(The Geography of Peace, xuất bản năm 1944) đã đặt nền tảng cho các
chính sách quan hệ quốc tế mang tính địa chính trị Mỹ từ sau Chiến
tranh thế giới II đến nay. Nó được xem như là sự phản công lại luận
thuyết H. Mackinder. Nội dung cơ bản của công trình này xoay
quanh các vấn đề địa chính trị cho thời đại hậu chiến như:
- Phân tích các lợi ích chiến lược của Mỹ

- Vùng biên và sách lược đối phó: Bốn loại xung đột ở Đông
bán cầu
- Đưa ra định đề địa chính trị nổi tiếng: “Ai chi phối được vùng
đệm, kẻ đó kiểm soát được đại lục Âu-Á; Ai kiểm soát được lục địa Âu-Á, kẻ
đó sẽ nắm chắc vận mệnh thế giới”.
Với vai trò siêu cường chi phối vận mệnh chính trị thế giới, nước
Mỹ đã sáng tạo ra nhiều học thuyết địa chính trị nổi tiếng phù hợp
với từng thời kỳ lịch sử. Mở đầu sau chiến tranh là các học thuyết
kiềm chế và răn đe với các tên tuổi như Samuel Cohen, George Kennan.

1

G. Parker: Lịch sử chiến tranh. Người dịch: Lê Thành. Nxb. Tổng hợp Thành phố.
Hồ Chí Minh. 2004.


×