Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ VAI TRÒ của các KHU CÔNG NGHIỆP đối với PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội ở TỈNH bắc NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.42 KB, 95 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Chữ viết tắt
CNH, HĐH
FDI

(Foreign Direct Investment)
Khu chế xuất
Khu công nghiệp
Kinh tế - xã hội
Nhà xuất bản
Ủy ban nhân dân

KCX
KCN
KT - XH
Nxb
UBND


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI Ở TỈNH BẮC NINH


1.1. Những vấn đề chung về khu công nghiệp
1.2. Quan niệm, nội dung biểu hiện vai trò và những nhân
tố ảnh hưởng đến vai trò của các khu công nghiệp đối
với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI Ở TỈNH BẮC NINH
2.1. Tổng quan về tình hình phát triển các khu công nghiệp
ở tỉnh Bắc Ninh
2.2. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
cần giải quyết từ thực trạng vai trò của các khu công
nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH BẮC
NINH THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm về phát huy vai trò của các khu công nghiệp
đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh
3.2. Giải pháp phát huy vai trò của các khu công nghiệp đối
với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

3

12
12

19


32
32

35

60
60
66
84
85
91


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Khu công nghiệp là một loại hình tổ chức sản xuất công nghiệp đã phổ
biến trên thế giới, nhưng các KCN ở Việt Nam chỉ mới phát triển vài chục năm
gần đây. Có rất nhiều vấn đề lý luận về KCN đặt ra cần nghiên cứu như: loại
hình, phương thức, quy mô, giới hạn, đặc biệt là vai trò, tác động của KCN đối
với KT - XH, môi trường. Sự ra đời và phát triển của các KCN đã đóng góp to
lớn vào thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Các KCN đã và đang trở thành nơi tập trung nguồn lực để
phát triển công nghiệp, đón nhận, chuyển giao tiến bộ khoa học - công nghệ,
thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế...
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, nằm tiếp giáp
với Thủ đô Hà Nội, có vị trí quan trọng trong phát triển KT - XH của cả nước;
là tỉnh có địa hình bằng phẳng, do vậy có nhiều lợi thế để phát triển các KCN.
Từ khi tái lập tỉnh (năm 1997) đến nay, Bắc Ninh đã có 16 KCN được Chính

phủ phê duyệt với tổng diện tích đất quy hoạch là 6.397,68 ha, trong đó có 9
KCN đã đi vào hoạt động. Sự hình thành và phát triển các KCN ở Bắc Ninh đã
góp phần quan trọng trong thu hút vốn đầu tư, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm
quản lý tiên tiến, đẩy mạnh tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm
nhiều việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người
lao động. Những thành tựu phát triển các KCN đã góp phần quan trọng vào
việc thực hiện các mục tiêu phát triển KT - XH của Tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực, các KCN trên địa bàn
Tỉnh thời gian qua vẫn tồn tại nhiều hạn chế và bộc lộ những bất cập trong
quá trình phát triển, tạo ra nhiều vấn đề gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát
triển bền vững của nền kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân. Trong đó, có một số vấn đề nổi bật lên là: nhiều dự án chủ yếu là gia

3


công, lắp ráp, công nghệ còn lạc hậu nên giá trị gia tăng không cao; cuộc sống
của người lao động trong các KCN và nhân dân trên địa bàn có KCN bị thu
hồi đất còn gặp nhiều khó khăn; công tác bảo vệ môi trường ở một số KCN
còn nhiều bất cập, một số vấn đề xã hội cần được giải quyết như: việc làm và
thu nhập, đào tạo nghề cho người lao động trong vùng có đất thu hồi làm
KCN, các tệ nạn xã hội cần được giải quyết… Những hạn chế đó nếu không
sớm được khắc phục, giải quyết sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển KT
- XH của địa phương.
Hơn nữa, trong thực tiễn đã xuất hiện những ý kiến đánh giá khác nhau
về vai trò của KCN đối với phát triển KT - XH. Trước những vấn đề nêu trên,
cần phải có những nghiên cứu lý luận và đánh giá đúng vai trò của các KCN
đối với phát triển KT - XH ở tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua, làm cơ sở
cho việc đề xuất quan điểm và giải pháp thích hợp nhằm phát huy vai trò của
các KCN đối với sự phát triển KT - XH ở Bắc Ninh thời gian tới.

Với lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài :“Vai trò của các khu công nghiệp
đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh” làm luận văn Cao học,
chuyên ngành kinh tế chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Khu công nghiệp và vai trò của các KCN đối với phát triển KT - XH là vấn
đề đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cấp, ngành, nhiều nhà khoa học,
nhà quản lý dưới nhiều khía cạnh và phạm vi khác nhau. Đến nay đã có nhiều
công trình nghiên cứu về vấn đề này, nổi bật là các công trình tiêu biểu sau:
* Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến KCN nói chung.
Trần Minh Ngọc (2011), Phát triển các khu công nghiệp ở tỉnh Vĩnh
Phúc, Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội. Luận văn đã trình bày những có sở lý luận và thực tiễn về phát
triển KCN nói chung, cụ thể trình bày quan niệm và đặc điểm KCN, từ đó rút
ra kinh nghiệm phát triển KCN ở một số tỉnh trong cả nước. Trên cơ sở thực
4


trạng phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, những đóng góp chủ
yếu và hạn chế của KCN từ năm 1998 đến năm 2010, tác giả đã trình bày các
định hướng và giải pháp phát triển KCN ở Vĩnh Phúc đến năm 2020.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Hội nghị tổng kết 20 năm xây dựng và
phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế ở Việt Nam, Hà Nội.
Hội nghị đã đánh giá những thành tựu, hạn chế và chỉ ra kinh nghiệm xây
dựng, phát triển KCN, KCX, khu kinh tế ở nước ta; kiến nghị phương hướng
và giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển, nâng cao chất lượng hoạt động của các
KCN, KCX, khu kinh tế thời gian tới.
Nguyễn Thành Công (2012), Phát triển các khu công nghiệp trên địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn kinh tế chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác
giả đã phân tích những cơ sở lý luận về phát triển khu công nghiệp, đồng thời
tham khảo kinh nghiệm của một số địa phương về phát triển KCN. Đánh giá

thực trạng phát triển các KCN hiện nay tại tỉnh Vĩnh Phúc, tác giả đã đề xuất
những giải pháp cơ bản nhằm phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc
trong thời gian tới.
Đỗ Văn Trịnh (2012), Phát triển khu, cụm công nghiệp tỉnh Thái Bình hiện
nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác giả đã tập
trung luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển khu, cụm công nghiệp ở tỉnh
Thái Bình; đánh giá những thành tựu và hạn chế trong phát triển khu, cụm công
nghiệp ở tỉnh Thái Bình; đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản nhằm đẩy
mạnh phát triển khu, cụm công nghiệp ở tỉnh Thái Bình trong những năm tới.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Báo cáo tổng hợp đề án điều chỉnh quy
hoạch phát triển các khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam thời kỳ 2010 2020, Hà Nội. Báo cáo đã nêu ra những ưu điểm và hạn chế của quá trình phát
triển KCN ở nước ta thời gian qua; trình bày tổng thể các đề án trong điều
chỉnh phát triển các KCN ở nước ta trong thời gian từ 2010 đến 2020 để nước
ta có hướng đi phù hợp với phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ.
5


Vũ Thị Kim Oanh (2014), “Phát triển khu công nghiệp Việt Nam: Thực
trạng và giải pháp”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 15 (8/2014). Tác giả đã
đánh giá những thành tựu, hạn chế qua hơn 20 năm xây dựng và phát triển
KCN Việt Nam, đề xuất các giải pháp để phát triển KCN như: rà soát, cập
nhật, từ đó tiến hành bổ sung, điều chỉnh quy hoạch các KCN; tiếp tục hoàn
thiện cơ chế chính sách phát triển KCN; xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng
KCN; nâng cao tỷ lệ lấp đầy các KCN; cải thiện chất lượng thu hút đầu tư vào
KCN; các cơ quan chức năng cần tăng cường hơn nữa công tác thanh tra,
kiểm tra pháp luật về bảo vệ môi trường tại các KCN.
* Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến vai trò, tác động của khu
công nghiệp đến vấn đề phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Phạm Đắc Đương (2006), Tác động của khu công nghiệp tập trung
đối với củng cố quốc phòng trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay, Luận

văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị, Hà Nội. Luận văn đã luận
giải cơ sở lý luận và thực trạng tác động của phát triển các KCN tập trung
đối với củng cố quốc phòng trên địa bàn thành phố Hà Nội, từ đó đã đưa ra
một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát huy những mặt tích cực và
hạn chế những mặt tiêu cực của phát triển các KCN tập trung đến củng cố
quốc phòng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Trần Văn Phùng (2007), Nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội các khu
công nghiệp Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội. Dưới góc độ chuyên ngành quản lý kinh tế tác giả đã làm rõ
cơ sở lý luận chung về KCN, hiệu quả KT - XH của KCN, đánh giá thực
trạng tác động đến vấn đề KT - XH của các KCN ở Việt Nam. Trên cơ sở
đó, tác giả đưa ra các quan điểm, định hướng và các giải pháp để nâng cao
hiệu quả KT - XH của các KCN Việt Nam.
Hà Thị Thúy (2007), Các khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế - xã
hội ở Bắc Giang, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
6


Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đã trình bày sự phát triển các KCN ở tỉnh Bắc
Giang, đồng thời phân tích vai trò của các KCN đối với sự phát triển KT - XH
của Bắc Giang. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao vai trò của các KCN đối với sự phát triển KT - XH ở tỉnh Bắc Giang.
Nguyễn Văn Hùng (2009), “Một số vấn đề về đổi mới công tác quy hoạch
và phát triển khu công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường ở nước ta”, Wesite Tạp
chí Khu công nghiệp, số 135. Trong bài viết này tác giả đề cập đến vấn đề quy
hoạch KCN ở nước ta hiện nay, chỉ ra những đóng góp tích cực, những hạn chế
trong quy hoạch nhất là gắn quy hoạch phát triển KCN với bảo vệ môi trường,
đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề này.
Lê Thị Phương (2009), Ảnh hưởng của các khu công nghiệp đến đời sống
hộ nông dân ở huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại

học Thái Nguyên. Trên cơ sở trình bày tổng quan về khu công nghiệp, ảnh
hưởng của KCN đối với kinh tế hộ nông dân, tác giả đã đánh giá thực trạng phát
triển KCN, thực trạng ảnh hưởng của KCN đến đời sống hộ nông dân. Tác giả
đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm ổn định và nâng cao đời sống của hộ nông
dân ở các KCN huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
Nguyễn Văn Minh (2011), “Đánh giá tác động của khu công nghiệp tới
kinh tế - xã hội vùng lân cận”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 47 (6/2011). Bài báo
đã đánh giá tác động của KCN tới KT - XH vùng lân cận và thực tế một số KCN
ở phía Bắc theo hai hướng: tích cực và tiêu cực trên các vấn đề: môi trường
sống, đời sống tinh thần, đời sống kinh tế của người dân. Trên cơ sở đánh giá tác
động, tác giả đã đưa các giải pháp để hạn chế mặt tác động tiêu cực và thúc đẩy
mặt tích cực nhằm tiến tới hình thành các KCN hoạt động hiệu quả và đi xa hơn
nữa là xây dựng một hệ sinh thái kinh doanh thân thiện với môi trường.
Vũ Quốc Huy (2011), “Quản lý nhà nước về môi trường khu công
nghiệp thực trạng và nhiệm vụ cần triển khai trong thời gian tới”, Wesite Tạp
chí Khu công nghiệp, số 162. Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác bảo vệ
7


môi trường ở các KCN, tác giả đã nêu lên những hạn chế bất cập trong công
tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, khẳng định những bất cập đó do
nhiều nguyên nhân nhưng trong đó chủ yếu nhất là do ý thức tuân thủ pháp
luật về công tác bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp còn hạn chế. Trên
cơ sơ đó, tác giả đề xuất những nhiệm vụ cần triển khai trong thời gian tới
nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác bảo vệ môi trường ở các KCN.
Hà Phước Thiều (2011), Tác động của các khu công nghiệp đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội ở Gia Lai, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận văn đã đánh giá tác động của
các KCN đối với sự phát triển KT - XH ở tỉnh Gia Lai cả về mặt tích cực và
tiêu cực. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả KT - XH của các KCN đối với tỉnh Gia Lai.
Nguyễn Bình Giang (2012), Tác động xã hội vùng của các khu công
nghiệp ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Cuốn sách tập trung vào
khái quát sự phát triển các KCN ở Việt Nam; phát hiện, đánh giá và phân
tích các tác động xã hội vùng của việc phát triển KCN tới cộng đồng dân
cư ở các địa phương xung quanh KCN; giới thiệu một số kinh nghiệm của
các nước Đông Á về tác động xã hội vùng của KCN.
Phạm Thị Kim Thư (2012), Vấn đề quản lý nhà nước đối với khu công
nghiệp của Hà Nội, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 11 (6/2012). Trên cơ sở đánh
giá thực tế khả năng đầu tư, phát triển các KCN trên địa bàn Hà Nội chưa tương
xứng với tiềm năng của Thủ đô khi mở rộng. Bài viết đã đưa ra 5 giải pháp nhằm
tăng cường biện pháp quản lý nhà nước đối với các KCN ở Hà Nội để khắc phục
những hạn chế như đường giao thông, hệ thống cấp thoát nước và xử lý nước
thải, hàng rào, điện chiếu sáng.
Nguyễn Nhân Chiến (2013), “Vai trò khu công nghiệp trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh”, Wesite Tạp chí Khu công nghiệp
8


Việt Nam, . Trên cơ sở khái quát tình hình phát
triển các KCN ở tỉnh Bắc Ninh sau 15 năm hình thành và phát triển, tác giả đã
trình bày các vai trò của KCN đối với sự phát triển KT - XH ở Bắc Ninh,
đồng thời nêu ra được những minh chứng cụ thể để chứng minh vai trò của
các KCN trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh.
Đỗ Văn Hai (2015), Vai trò của khu công nghiệp với sự phát triển kinh tế
- xã hội ở tỉnh Ninh Bình hiện nay, Luận văn Thạc sỹ kinh tế chính trị, Học viện
Chính trị, Hà Nội. Trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận về KCN, vai trò của KCN
đối với phát triển KT - XH ở tỉnh Ninh Bình, tác giả đã đi phân tích các nội dung
thể hiện vai trò của KCN đối với phát triển KT - XH, đồng thời chứng minh cụ
thể vai trò của KCN. Đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm phát huy

vai trò của các KCN với sự phát triển KT - XH ở Ninh Bình thời gian tới.
Ngô Thị Huyền (2015), Tác động của các khu công nghiệp đến phát
triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay, Luận văn thạc sỹ kinh tế chính
trị, Học viện Báo chí tuyên truyền, Hà Nội. Luận văn đã trình bày lý luận
chung về KCN cũng như những tác động của KCN đối với sự phát triển KT XH, đồng thời nêu ra các kinh nghiệm của các tỉnh lân cận để rút ra bài học
cho tỉnh Bắc Ninh trong phát triển KCN. Tác giả đã trình bày những vấn đề
đặt ra trong quá trình phát triển KCN gắn với giải quyết các vấn đề kinh tế, xã
hội của Bắc Ninh. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra các định hướng để phát
triển KCN và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của KCN đối với
sự phát triển KT - XH ở tỉnh Bắc Ninh…
Từ tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, có thể thấy, các công
trình trên đã tập trung nghiên cứu những vấn đề khác nhau về phát triển KCN;
về vai trò, tác động của các KCN đối với các vấn đề kinh tế, xã hội và môi
trường trên phạm vi cả nước hoặc trên địa bàn các tỉnh khác nhau. Tuy nhiên,
đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào dưới góc độ kinh tế chính trị
nghiên cứu về vai trò của các KCN đối với phát triển KT - XH ở tỉnh Bắc Ninh.
9


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về vai trò của các KCN đối với sự
phát triển KT - XH ở tỉnh Bắc Ninh; trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải
pháp phát huy vai trò của các KCN đối với sự phát triển KT - XH ở tỉnh Bắc
Ninh thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về KCN và vai trò của các KCN đối với phát triển
KT - XH ở tỉnh Bắc Ninh.
Đánh giá đúng thực trạng vai trò của các KCN đối với sự phát triển KT XH ở tỉnh Bắc Ninh, xác định nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
Đề xuất quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của KCN đối với phát

triển KT - XH ở tỉnh Bắc Ninh thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của các KCN đối với phát triển KT - XH dưới góc độ kinh tế
chính trị Mác - Lênin.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: vai trò của các KCN đối với phát triển KT - XH,
tập trung vai trò các KCN trong thu hút vốn đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế; mở rộng quy mô sản xuất công nghiệp, thu hút
lao động, giải quyết việc làm.
- Về không gian nghiên cứu: Giới hạn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2010 đến năm 2016.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Kinh tế Chính trị học Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam,
các Chỉ thị, Nghị quyết của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp tỉnh Bắc Ninh
10


về vai trò của các KCN đối với phát triển KT - XH.
* Cơ sở thực tiễn
Dựa trên kết quả điều tra, khảo sát về vai trò của các KCN đối với KT XH ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 2010 đến năm 2016.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, đề tài sử dụng các phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác
- Lênin là trừu tượng hóa khoa học, đồng thời kết hợp phương pháp lôgíc lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm luận cứ khoa
học để cấp ủy đảng, chính quyền và các ban, ngành tỉnh Bắc Ninh tham khảo

trong xác định chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò của
các KCN đối với phát triển KT - XH, thực hiện mục tiêu mà Đảng bộ tỉnh Bắc
Ninh đề ra.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn
đề này và làm tài liệu tham khảo giảng dạy môn kinh tế chính trị trong các
trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

Chương 1
11


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH BẮC NINH

1.1. Những vấn đề chung về khu công nghiệp
1.1.1. Quan niệm và đặc điểm của khu công nghiệp
* Quan niệm về khu công nghiệp
Cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới diễn ra lần đầu tiên ở Anh
sau đó lan sang các nước Châu Âu và Mỹ. Ý tưởng về một KCN trên thế giới
xuất hiện lần đầu tiên năm 1885 khi một tập đoàn tư nhân Mỹ quy hoạch một
quận công nghiệp gần Chicago nước Mỹ. Tuy nhiên, KCN đầu tiên trên thế
giới lại do một công ty tư nhân của Anh thành lập năm 1896 có tên là Trafford
Park ở thành phố Manchester, nước Anh. Từ đó, khu công nghiệp được hiểu
là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện
các dịch vụ công nghiệp phục vụ cho hoạt động sản xuất trong khu vực. Có
rất nhiều quan niệm khác nhau về KCN và KCX, các quan niệm này đều được
xây dựng để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế của các nước.

Quan niệm về KCN được nhà nghiên cứu của Hoa Kỳ, ông Bredo
William đưa ra năm 1960 trong tác phẩm “Các khu công nghiệp - công cụ cho
quá trình công nghiệp hóa” được khái quát như sau: Khu công nghiệp là một
vùng đất được phát triển và chia thành nhiều lô nhỏ theo một quy hoạch đồng
bộ với đầy đủ tiện ích về cơ sở hạ tầng bao gồm đường giao thông, điện, nước,
tiện ích công cộng được sử dụng chung cho toàn bộ các thành phần trong đó.
Theo định nghĩa đơn giản của Michael Peddle (1993) thì KCN là một
vùng đất tương đối rộng được chia thành nhiều lô và được xây dựng cơ sở hạ
tầng trong đó các xí nghiệp dễ dàng lựa chọn địa điểm để phát triển, thống
nhất sử dụng hạ tầng và hưởng những lợi thế ở những vị trí liền kề nhau.
Theo tổ chức Phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) trong tài
liệu “Khu chế xuất tại các nước đang phát triển” (1990) thì KCX là khu vực
12


tương đối nhỏ phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia, nhằm mục tiêu thu
hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cung cấp cho
ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc
biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Khu công nghiệp là tổ hợp
các nhà máy xí nghiệp công nghiệp, khu hạ tầng phát triển, có nhà xưởng xây
sẵn và các dịch vụ tiện ích cung cấp cho các xí nghiệp sản xuất…
Như vậy, các quan niệm trên cho thấy, KCN được hiểu là một khu vực
có những thuận lợi về mặt tự nhiên, về xây dựng kết cấu hạ tầng, về xã hội để
thu hút đầu tư và hoạt động theo một cơ cấu hợp lý các doanh nghiệp công
nghiệp, dịch vụ có liên quan nhằm đạt hiệu quả cao trong kinh doanh của từng
doanh nghiệp và cả cơ cấu các doanh nghiệp trong khu.
Ở Việt Nam, sự ra đời của KCN gắn liền với sự nghiệp CNH, HĐH,
đặc biệt là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng hợp tác đầu tư với
nước ngoài. Quá trình này từng bước được định hình và nhận thức ngày càng
rõ hơn, không ngừng được bổ sung và hoàn thiện. Từ Đại hội Đại biểu toàn

quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12/1986) đến đầu những năm 90
của thế kỷ XX, trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị của nước ta hết sức
khó khăn, Đảng ta đã đề ra hàng loạt các chủ trương sát, đúng để đổi mới toàn
diện nền kinh tế. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã có chủ trương phát triển công
nghiệp, công nghệ theo hướng CNH, HĐH đất nước và phấn đấu đưa nước ta
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Với chủ trương đó, KCX
Tân Thuận ở Thành phố Hồ Chí Minh ra đời năm 1991, là KCX đầu tiên ra
đời ở Việt Nam, mở đầu cho sự hình thành, phát triển các KCN, KCX trong
những năm tiếp theo trong cả nước và ở các địa phương cụ thể.
Nghị quyết của Đảng ta tại các kỳ Đại hội đã hình thành hệ thống các
quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển công nghiệp, trong đó có phát
triển KCN, KCX, tạo nền tảng vững chắc để phát triển đất nước. Đảng và nhà
nước ta chủ trương phát triển từng bước và nâng cao hiệu quả các khu công

13


nghiệp, khu chế xuất, nghiên cứu xây dựng thí điểm một vài đặc khu kinh tế,
khu mậu dịch tự do ở những địa bàn ven biển, tạo điều kiện các KCN hoạt
động hiệu quả. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng ta xác
định: "Nâng cao hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất; sớm
đưa một số khu công nghiệp công nghệ cao vào hoạt động" [18, tr. 92].
Theo đó, Nhà nước ta đã có chủ trương xây dựng và phát triển các KCN,
KCX ở một số tỉnh, thành phố phù hợp. Quan niệm về KCN đã được thể hiện
trong hàng loạt các văn bản pháp lý của nước ta từ năm 1994 đến nay. Ngày
28/12/1994, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành
Nghị định số 192/NĐ-CP, theo đó đưa ra quy chế đầu tiên về KCN. Trải qua
hơn 20 năm, quan niệm về KCN đã nhiều lần được bổ sung, phát triển cho phù
hợp với đặc điểm tình hình và quá trình xây dựng của nước ta.
Tại Điều 2 - Nghị định số 36/NĐ - CP của Chính phủ nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 24/4/1997 về Quy chế khu công nghiệp và KCX
và khu công nghệ cao đã giải thích khái niệm về KCN như sau: “Khu công
nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý nhất định,
không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định
thành lập, trong khu công nghiệp có thể có các doanh nghiệp chế xuất” [9, tr. 2].
Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 của Chính phủ quy định về
KCN, KCX và khu kinh tế, cũng đã đưa ra quan niệm về KCN, KCX một cách cụ
thể như sau: “Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này. Khu chế
xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ
cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác
định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu
14


công nghiệp quy định tại Nghị định này. Khu công nghiệp, khu chế xuất được
gọi chung là khu công nghiệp, trừ trường hợp quy định cụ thể” [10, tr. 1].
Theo Điều 3 Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26/11/2014 thì: “Khu chế xuất
là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho
sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu. Khu công nghiệp là khu vực
có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp” [35, tr. 2].
Nhìn lại quá trình phát triển và hoàn thiện các quan niệm về KCN ở
nước ta có thể thấy, KCN là đối tượng đặc thù của quản lý nhà nước về kinh
tế trong các giai đoạn phát triển với các đặc điểm về mục tiêu thành lập, giới
hạn hoạt động tập trung vào công nghiệp, ranh giới địa lý và thẩm quyền ra
quyết định thành lập.

Nội hàm của KCN và KCX có sự khác nhau, điều đó được thể hiện như
sau: Về mục tiêu thành lập: Mục tiêu thành lập của KCN nhằm thu hút vốn
đầu tư trong và ngoài nước. Đối với KCX được thành lập nhằm mục đích thu
hút vốn đầu tư nước ngoài. Về căn cứ tính chất ranh giới, địa lý: Ranh giới,
địa lý của KCN đơn thuần chỉ là xác định mốc giới, phân biệt là các vùng,
lãnh thổ khác bằng hệ thống hàng rào. Trong khi đó, địa lý, ranh giới của
KCX là biên giới hải quan và thuế quan của một nước. Về tổ chức, hoạt động:
Tổ chức, hoạt động trong KCN bao gồm các doanh nghiệp chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Hoạt
động trong KCX bao gồm các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu
và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Về chức năng hoạt
động: Chức năng hoạt động của các KCN là sản xuất hàng công nghiệp và
thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Còn đối với KCX là sản xuất
hàng xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Như vậy,
KCN ở đây không bao gồm KCX mà có sự khác nhau cơ bản.

15


Từ những quan niệm, định nghĩa trên về KCN, có thể hiểu KCN ở Việt
Nam như sau: Khu công nghiệp là nơi sản xuất hàng công nghiệp và thực
hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, có
những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, kết cấu hạ tầng và cơ chế chính
sách nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, do Thủ tướng Chính phủ
quyết định thành lập.
* Đặc điểm của khu công nghiệp
Một là, các KCN thường được xây dựng ở những nơi có vị trí địa lý
thuận lợi về giao thông vận tải như gần đường quốc lộ, sân bay, cảng biển,
ngoại vi các tỉnh, thành phố, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển,
cung cấp, tiêu thụ, giao lưu hàng hóa trong và ngoài nước. Quá trình xây dựng

các KCN phải được hình thành trên cơ sở quy hoạch phát triển tổng thể KT XH của địa phương, gắn với quá trình phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của người lao động, của nhân dân. Khu công nghiệp là
một tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp, luôn gắn liền phát triển công
nghiệp với xây dựng kết cấu hạ tầng: giao thông, điện, thông tin liên lạc…,
hình thành mạng lưới đô thị và phân bố dân cư hợp lý.
Hai là, KCN có chính sách kinh tế đặc thù và ưu đãi nhằm thu hút vốn
đầu tư, khoa học công nghệ tiên tiến trong và ngoài nước, tạo môi trường đầu
tư thuận lợi và hấp dẫn cho các doanh nghiệp KCN. Khu công nghiệp là nơi
tập trung lực lượng lao động có chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề cao nhằm đáp
ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tiên tiến, hiện đại.
Đây là nhân tố quan trọng góp phần thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy
nhanh rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước.
Ba là, KCN là nơi tập trung và thu hút các doanh nghiệp sản xuất công
nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ gắn liền với hoạt động sản xuất
công nghiệp, gọi chung là doanh nghiệp KCN. Doanh nghiệp KCN có nhiều
mô hình hoạt động khác nhau, trong đó có doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi
16


thành phần kinh tế, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài,… Ở đây,
các bên tham gia hợp đồng, hợp tác kinh doanh với nhau bình đẳng theo pháp
luật nước ta. Các doanh nghiệp KCN phải thực hiện đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, đồng thời được quyền kinh doanh trong
các lĩnh vực đã đăng kí.
Bốn là, các KCN đều xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng với những
điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá, hệ
thống điện, nước, thông tin liên lạc,… Nguồn vốn xây dựng kết cấu hạ tầng
thường do Chính phủ bỏ ra, hoặc kêu gọi đầu tư từ nguồn vốn trong và ngoài
nước để san lấp mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng,… Việc xây dựng kết cấu
hạ tầng trong các KCN thường do một công ty phát triển hạ tầng đảm nhiệm,

sau đó cho các doanh nghiệp thuê lại theo quy định của pháp luật.
Năm là, ở nước ta, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về KCN
trong phạm vi cả nước trên cơ sở phân công nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm cụ thể của từng Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh và Ban quản lý các KCN
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định tại Nghị định
164/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013, sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị
định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 của Chính phủ về KCN, KCX và khu
kinh tế; chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển và
ban hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về KCN.
1.1.2. Quan niệm về vai trò của các khu công nghiệp đối với phát
triển kinh tế - xã hội
“Vai trò” là một thuật ngữ dùng để nói về vị trí, tác dụng, chức năng, của
sự vật, hiện tượng trong một hoàn cảnh, một mối quan hệ nào đó. Trong Đại từ
điển tiếng Việt, “Vai trò là chức năng, tác dụng của cái gì đó hoặc của ai đó
trong sự vận động, phát triển của nhóm tập thể nói chung” [56, tr. 1788]. Còn
“Tác động là gây ra sự biến đổi nào đó cho sự vật được hành động hướng tới”
[56, tr. 1480]. Như vậy, “vai trò” và “tác động” là hai phạm trù khác nhau.
17


Theo đó, vai trò của các KCN là tác dụng, đóng góp của các KCN
nhằm phát triển sản xuất công nghiệp để xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ,
kêu gọi vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, tiếp thu kỹ thuật hiện đại và
dẫn nhập công nghệ tiên tiến, sử dụng nguyên, nhiên vật liệu và lực lượng lao
động tại chỗ, tạo việc làm mới. Đồng thời, các KCN còn hỗ trợ giải quyết các
vấn đề kinh tế - xã hội của những vùng gặp nhiều khó khăn góp phần tăng
trưởng kinh tế trong nước.
Phát triển kinh tế đó là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh
tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt
cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống. Phát triển kinh tế được xét trên

nhiều khía cạnh khác nhau, tuy nhiên xét trên khía cạnh các bộ phận cấu
thành, phát triển kinh tế là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình phát triển cả
hai lĩnh vực của nền kinh tế đó là lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội. Quá
trình phát triển KT - XH luôn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố kinh tế và phi
kinh tế khác nhau. Trong đó, KCN là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp đến phát triển công nghiệp và toàn bộ quá trình phát triển KT - XH của
đất nước, từng địa phương. Cũng như ở phạm vi quốc gia, những đóng góp
tích cực hay ảnh hưởng tiêu cực của các KCN đến phát triển KT - XH đã tạo
nên những thay đổi lớn trong quá trình phát triển của địa phương đó.
Từ đó có thể hiểu vai trò của các KCN đối với phát triển KT - XH là
những tác dụng, đóng góp cụ thể của các KCN đối với quá trình tăng trưởng,
phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống, giải quyết các vấn đề xã
hội, môi trường, quốc phòng, an ninh ở địa phương có KCN, góp phần đẩy
nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển
đất nước mà Đảng ta đã đề ra.
Các KCN có vai trò quan trọng trong tập trung các doanh nghiệp sản
xuất, kinh doanh, góp phần thu hút vốn, công nghệ tiên tiến trong và ngoài
nước vào hoạt động sản xuất; tạo việc làm mới, thu hút lao động và hỗ trợ giải
18


quyết các vấn đề xã hội nảy sinh. Từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, có tác động lan tỏa tạo điều kiện các ngành công nghiệp hỗ
trợ, các dịch vụ cần thiết như dịch vụ công nghiệp, dịch vụ tài chính, ngân hàng
KCN phát triển... Như vậy, các KCN có vai trò quan trọng trong phát triển KT
- XH góp phần đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước.
1.2. Quan niệm, nội dung biểu hiện vai trò và những nhân tố ảnh
hưởng đến vai trò của các khu công nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã
hội ở tỉnh Bắc Ninh
1.2.1. Quan niệm về vai trò của các khu công nghiệp

đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh
Hiện nay, tỉnh Bắc Ninh có 16 KCN được phê duyệt quy hoạch chi tiết,
trong đó có 9 KCN đã đi vào hoạt động và có tỷ lệ lấp đầy về diện tích đất
quy hoạch cao. Các KCN ở Bắc Ninh đều được xây dựng ở những vị trí địa lý
thuận lợi, gần đường giao thông, được Chính phủ và Tỉnh hỗ trợ với những
chính sách đặc thù trong xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở nhằm tập trung các
doanh nghiệp sản xuất, chế biến, tăng tỷ lệ lấp đầy trên diện tích đất quy
hoạch, góp phần thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Từ khi
KCN đầu tiên ở Bắc Ninh đi vào hoạt động đến nay, các KCN của tỉnh đã
đóng góp rất lớn vào sự phát triển trên các lĩnh vực của tỉnh, đặc biệt là sự
phát triển KT - XH.
Từ những phân tích trên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác
giả đưa ra quan niệm về vai trò của các KCN đối với phát triển KT - XH ở
tỉnh Bắc Ninh như sau: “Vai trò của các khu công nghiệp đối với phát triển
kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh là tác dụng, đóng góp cụ thể của các khu
công nghiệp mà trực tiếp là doanh nghiệp sản xuất đối với thu hút vốn đầu tư,
tăng trưởng, phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống, giải quyết
các vấn đề xã hội, môi trường nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc
Ninh”.

19


Như vậy, vai trò của các KCN đối với phát triển KT - XH ở tỉnh Bắc
Ninh được thể hiện trong thu hút đầu tư vốn, công nghệ tiên tiến, trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong nâng cao giá trị xuất khẩu của Bắc Ninh…
Đồng thời, vai trò đó còn được thể hiện ở cả các hoạt động nhằm thúc đẩy quá
trình phát triển KT - XH của Tỉnh như thúc đẩy các loại hình dịch vụ phục vụ
sản xuất công nghiệp trong KCN phát triển, hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh
tế, xã hội, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, giải quyết các vấn đề xã hội như lao

động, việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Việc phân tích những nội
dung biểu hiện vai trò của KCN sẽ làm rõ hơn quan niệm về vai trò của KCN
đối với phát triển KT - XH ở tỉnh Bắc Ninh.
1.2.2. Nội dung biểu hiện vai trò của khu công nghiệp
đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh
Các KCN ở tỉnh Bắc Ninh được xây dựng là nhân tố quan trọng thúc
đẩy tăng trưởng, tác động tích cực đến mở rộng quy mô sản xuất công nghiệp,
thu hút lao động, giải quyết việc làm, góp phần quan trọng vào tốc độ tăng
trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình đô thị hoá của Tỉnh. Đồng
thời, KCN thu hút một lượng lớn các doanh nghiệp trong và ngoài nước đến
đầu tư sản xuất kinh doanh, nhờ đó số lượng cơ sở sản xuất công nghiệp tăng
lên nhanh chóng trong đó phần lớn các doanh nghiệp đều đang hoạt động khá
tốt. Có thể khái quát vai trò của các KCN đối với phát triển KT - XH ở tỉnh
Bắc Ninh trên những nội dung cơ bản sau:
Một là, KCN góp phần quan trọng trong thu hút vốn đầu
tư, khoa học công nghệ tiên tiến, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư
nước ngoài vào tỉnh Bắc Ninh.
Khu công nghiệp với những ưu đãi đặc biệt về thủ tục hành chính, cơ
chế quản lý,... nên nó trở thành môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài, thu hút được vốn đầu tư trong và ngoài nước. Khu công nghiệp được
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, đồng bộ và hiện đại, thuận tiện
cho các doanh nghiệp đầu tư vào nhanh chóng đi vào hoạt động, nâng cao
20


hiệu quả sản xuất, giảm chi phí. Mặt khác, việc bố trí tập trung các nhà máy
trong KCN theo hướng sản phẩm của nhà máy này là nguyên liệu của nhà
máy khác nên các doanh nghiệp dễ dàng giải quyết đầu vào và đầu ra với chi
phí thấp nhất. Do đó, các doanh nghiệp KCN có điều kiện thuận lợi để đạt
mục tiêu thuận lợi bên ngoài KCN, nên hấp dẫn các nhà đầu tư.

Thực tế ở tỉnh Bắc Ninh cho thấy, KCN có vai trò tích cực vào việc thu
hút vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Trong đó, vốn FDI chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư. Các dự án đầu tư cả trong và ngoài nước
vào KCN chiếm một tỷ trọng lớn. Sự gia tăng vốn đầu tư vào các KCN góp
phần quan trọng tăng tổng vốn đầu tư, tác động đến tăng trưởng kinh tế, đồng
thời kích thích đầu tư mới ở các doanh nghiệp ngoài KCN. Khu công nghiệp
sẽ tạo cơ hội để các doanh nghiệp trong tỉnh có điều kiện tiếp thu kinh nghiệm
quản lý, trình độ điều hành sử dụng các trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ
tiên tiến, hiện đại của nước ngoài, các tỉnh có tốc độ phát triển công nghiệp
cao, góp phần nâng cao trình độ sản xuất.
Hai là, KCN là nhân tố chủ yếu tạo nên giá trị sản xuất
công nghiệp cao, nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu, góp
phần tăng thu ngân sách của Tỉnh, đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Khu công nghiệp đóng vai trò nòng cốt trong phát triển công nghiệp của
cả nước nói chung và Bắc Ninh nói riêng. Bởi vì, KCN là nơi tập trung những
ngành sản xuất công nghiệp chủ yếu, tạo ra những sản phẩm công nghiệp có
giá trị cao đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Các KCN góp phần quan
trọng làm tăng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp, đóng góp lớn vào tăng
giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh.
Các KCN ở Bắc Ninh đi vào hoạt động, tạo ra giá trị sản xuất công
nghiệp lớn, là nhân tố chính đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp của Tỉnh. Bắc Ninh từ một nền kinh tế với nông
nghiệp là chủ đạo, qua nhiều năm xây dựng các KCN đã từng bước giảm dần
21


tỷ trọng ngành nông nghiệp và nâng cao tỷ trọng các ngành công nghiệp và xây
dựng, đây chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Không những chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung,

các KCN trong Tỉnh cũng đã đóng góp chủ yếu vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trong nội bộ ngành công nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng khu vực công
nghiệp quốc doanh, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và tăng nhẹ tỷ trọng khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh trong tổng
giá trị sản xuất của ngành công nghiệp. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo ngành sẽ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động của Tỉnh theo hướng
tích cực. Thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội đặt cơ sở cho việc
hình thành những nghề nghiệp chuyên môn, những ngành chuyên môn nhằm
nâng cao sức sản xuất.
Từ khi có các KCN đi vào hoạt động, cùng với sự tham gia đầu tư của
các tập đoàn sản xuất kinh tế lớn thực hiện các dự án đầu tư nên giá trị kim
ngạch xuất khẩu của tỉnh Bắc Ninh ngày càng cao và ổn định, điều đó đưa
Bắc Ninh trở thành tỉnh có giá trị xuất siêu kể từ năm 2009 đến nay. Các KCN
cũng là nhân tố quan trọng trong việc đưa nền kinh tế Bắc Ninh tham gia hội
nhập vào nền kinh tế quốc tế thông qua trao đổi thương mại, thu hút đầu tư.
Các dự án FDI được thực hiện bởi các nhà đầu tư đến từ nhiều quốc gia và
vùng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới.
Sự hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp lớn trong các KCN không
những đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, giải quyết việc làm cho người lao
động còn là nguồn đóng góp chủ yếu cho ngân sách địa phương, góp phần
tăng thu ngân sách của Tỉnh để thực hiện đầu tư cho các mục tiêu phát triển
KT - XH khác trên địa bàn.
Ba là, KCN đã góp phần quan trọng trong giải quyết việc làm, đào tạo
nguồn nhân lực, nâng cao thu nhập, đời sống và trình độ của người lao động
và nhân dân trong Tỉnh.

22


Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa hết sức quan

trọng đối với sự phát triển KT - XH của đất nước nói chung và của Bắc Ninh
nói riêng. Các KCN đi vào hoạt động tạo ra khả năng thu hút và giải quyết
việc làm. Các KCN ở tỉnh Bắc Ninh là nơi giải quyết việc làm lớn cho người
lao động, không chỉ lao động địa phương mà cả lao động từ các tỉnh khác
trong cả nước. Ngoài số lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp KCN, các
KCN cũng tạo thêm việc làm gián tiếp, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng, cung
ứng vật liệu và dịch vụ, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng phi
nông nghiệp, tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống vật
chất, tinh thần của người lao động, người dân trên địa bàn có KCN, góp phần
tích cực đến việc xóa đói, giảm nghèo, giảm các tệ nạn, các vấn đề xã hội do
thất nghiệp, đói nghèo gây ra.
Cùng với sự phát triển các KCN, đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà
nước ở tỉnh Bắc Ninh qua thực tiễn đã nâng tầm quản lý lên một mức phù hợp
về: ngoại ngữ, chuyên môn, nghiệp vụ, văn hóa giao tiếp,… đáp ứng yêu cầu
đổi mới năng động từ các doanh nghiệp.
Ngoài ra, các KCN cũng là nơi tiếp nhận và ứng dụng có hiệu quả
những thành tựu phát triển của khoa học - công nghệ, kinh nghiệm và trình độ
tổ chức quản lý tiên tiến. Do đó, người lao động được đào tạo để tiếp thu tốt
nhất công nghệ sản xuất hiện đại, đồng thời lao động ở đây có chuyên môn kỹ
thuật phù hợp với công nghệ mới… Hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng
của nhiều doanh nghiệp, nhiều KCN trong tỉnh đã mở các cơ sở đào tạo nghề,
góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp KCN nói
riêng và quá trình CNH, HĐH của tỉnh Bắc Ninh nói chung.
Bốn là, các KCN là nhân tố chủ yếu đẩy nhanh sự phát triển của các
loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất trong KCN.

23


Vai trò của KCN tại Bắc Ninh đã có tác động lan tỏa đến các hoạt động

dịch vụ trong các KCN và ngược lại, các hoạt động dịch vụ đã đáp ứng các
yêu cầu của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp KCN phát triển sản xuất. Như
lĩnh vực tín dụng, ngân hàng đã cung cấp các dịch vụ về tài chính, ngân hàng
cho các KCN Bắc Ninh như thanh toán lương, thanh toán xuất nhập khẩu, thẻ
tính dụng cá nhân…; Lĩnh vực dịch vụ bưu chính, viễn thông, điện lực: cung
cấp hạ tầng và dịch vụ đáp ứng yêu cầu cơ bản của doanh nghiệp như VNPT,
Viettel, Điện lực Bắc Ninh;… Dịch vụ Logicstic: các KCN Bắc Ninh đã xuất
hiện các công ty kinh doanh dịch vụ Logicstic nổi tiếng trong và ngoài nước...
Đồng thời, các KCN được xây dựng cũng kéo theo sự phát triển của
các loại hình dịch vụ phục vụ đời sống người lao động, nhân dân địa phương
như chợ, siêu thị, du lịch, dịch vụ cho thuê nhà ở, vận tải công cộng,... Đây là
điều kiện để hình thành các đô thị tập trung, cùng các công trình với kết cấu
hạ tầng xã hội khác.
Năm là, các KCN là động lực quan trọng góp phần hoàn thiện kết cấu
hạ tầng kinh tế, xã hội, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa
Sự hình thành các KCN chính là một trong những điểm đột phá trong
xây dựng và nâng cấp kết cấu hạ tầng KT - XH, đáp ứng yêu cầu của quá
trình CNH, HĐH của địa phương, đất nước. Các nhà đầu tư đã xây dựng kết
cấu hạ tầng KCN để kết nối đồng bộ các hạng mục công trình ở trong với kết
cấu hạ tầng ngoài hàng rào KCN. Điều đó vừa tạo điều kiện thuận lợi trong
việc triển khai nhanh dự án sản xuất kinh doanh tại các KCN, vừa góp phần
cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng nông thôn của các địa
phương có KCN, đẩy nhanh sự phát triển KT - XH của Tỉnh. Tại các địa
phương có KCN việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN sẽ
góp phần đáng kể hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng KT - XH, làm thay đổi

24


diện mạo của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển KT - XH

của Bắc Ninh nói riêng, của đất nước nói chung.
Sự phát triển của các KCN còn góp gần đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa; tạo
sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong tỉnh. Chính hạt nhân từ các KCN
đã hình thành các khu đô thị mới, cùng các công trình hạ tầng xã hội đã đưa
mạng lưới đô thị của tỉnh Bắc Ninh ngày càng mở rộng và phát triển.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến vai trò của các khu công
nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến vai trò của các KCN đối với phát triển
KT - XH ở tỉnh Bắc Ninh, tuy nhiên, tựu chung lại có hai nhân tố chính đó là
nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
* Nhân tố khách quan
Một là, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên: Bắc Ninh nằm trong vùng châu thổ
sông Hồng, tiếp giáp với Thủ đô Hà Nội và vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc
(Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh); có hệ thống giao thông thuận lợi; địa hình
tương đối bằng phẳng, chủ yếu là đồng bằng, địa chất của vùng ổn định; mạng
lưới sông ngòi khá dày đặc; diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 47.615 ha
chiếm 57,88% tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh; đất phi nông nghiệp là
34.441 ha chiếm 41,86% tổng diện tích đất tự nhiên (trong đó đất dành cho
khu, cụm công nghiệp là 5.115 ha); đất chưa sử dụng là 215 ha chiếm 0,26%
[13, tr. 21-22]. Ngoài ra, Bắc Ninh có một số loại tài nguyên kháng sản như đất
sét, đá cát, than bùn [13, tr. 20]… Đây là thế mạnh của tỉnh Bắc Ninh trong thu
hút vốn đầu tư, khoa học công nghệ tiên tiến vào tỉnh nói chung và các KCN
nói riêng. Các điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên là cơ sở để
các KCN của tỉnh sản xuất ổn định, tạo nên giá trị sản xuất cao, tăng kim ngạch
xuất khẩu của Tỉnh, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục: Về kinh tế, tổng sản phẩm
trên địa bàn Tỉnh năm 2016 theo giá so sánh năm 2010 phân theo khu vực
25



×