Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ VAI TRÒ của NHÀ nước TRONG TĂNG TRƯỞNG và PHÁT TRIỂN KINH tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.57 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các quốc
gia trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của các
quốc gia. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển
trong quá trình theo đuổi mục tiêu tiến kịp và hội nhập với các nước phát triển.
Tuy nhiên trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là
trước những ảnh hưởng to lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay
thì quá trình thực hiện những mục tiêu về tăng trưởng và phát triển kinh tế của
mỗi nước đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Để giải quyết
những vấn đề mang tính toàn cầu về kinh tế không chỉ cần có sự chung tay của
tất cả các quốc gia trên thế giới mà còn đòi hỏi sự can thiệp trực tiếp và quyết
liệt của chính phủ ở mỗi quốc gia, dân tộc. Trên thực tế, trong cuộc khủng hoảng
kinh tế đang diễn ra hiện nay, không có một nước nào thiếu sự can thiệp của
chính phủ nhằm hạn chế và khắc phục hậu quả mà nó đã và đang để lại.
Đối với Việt Nam, một quốc gia mới bắt đầu bước vào xây dựng nền kinh tế
thị trường (định hướng xã hội chủ nghĩa) và tham gia vào tiến trình hội nhập kinh
tế thế giới, tiềm lực của nền kinh tế còn có những hạn chế nhất định, thì những tác
động của cuộc khủng hoảng kinh tế là điều không thể tránh khỏi. Để giải quyết
những khó khăn trước mắt của nền kinh tế hiện nay và cuối cùng là để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, ngoài những yếu tố nội sinh của nền kinh tế thì vai trò của Nhà nước đối
với sự phát triển và tăng trưởng kinh tế là hết sức quan trọng và cần thiết.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề: “Vai trò của nhà nước trong tăng trưởng và
phát triển kinh tế” có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.


I. MỘT SỐ NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ

1.1. Khái niệm


1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, khi đã
giành được độc lập, đều xác định cho mình mục tiêu chiến lược hay đường lối
phát triển kinh tế - xã hội.
Những mục tiêu đề ra đều dựa vào khả năng khai thác nguồn lực trong
nước và nước ngoài. Sự kết hợp và khả năng khai thác có hiệu quả các nguồn
lực của mỗi quốc gia có sự khác nhau. Song, quan niệm chung nhất là, phải tạo
ra được sự tiến bộ toàn diện cả về kinh tế và xã hội, nhưng coi tăng trưởng là
tiền đề cần thiết cho sự phát triển
Vậy, Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô, sản lượng sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là
một năm.)
Khái niệm trên chỉ ra rằng:
- Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế mới chỉ giới hạn trong khuôn khổ làm tăng
thêm sản lượng hàng hóa và dịch vụ bằng cách mở rộng quy mô sản xuất.
Theo đó, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô (gia tăng về lượng)
của sản lượng hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia.
- Thứ hai, sự gia tăng sản lượng hàng hóa, dịch vụ của quốc gia đó chỉ
tính trong một thời gian nhất định. (thường là một năm).
Như vậy, tăng trưởng kinh tế mới chỉ giới hạn trong khuôn khổ làm tăng
thêm sản lượng bằng cách mở rộng quy mô, chứ chưa đề cập đến mối quan hệ
của nó với các vấn đề xã hội.
Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta thường dùng mức tăng thêm
tổng sản phẩm trong nước, tức GDP (GDP là chữ đầu của các từ tiếng Anh: Gross
Domestic Product). Mức tăng đó thường tính trên toàn bộ nền kinh tế hay tính
bình quân theo đầu người của thời kỳ sau so với thời kỳ trước đó.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế là sự tăng nhanh hay chậm, phản ánh ở mức phấn
trăm (%) tổng sản phẩm trong nước tăng thêm hàng năm so với năm gốc.
* Các chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng kinh tế.
2



Để phản ánh sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng các chỉ tiêu chủ yếu là tổng
sản phẩm trong nước, tổng sản phẩm quốc gia và thu nhập bình quân đầu người..
- Tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Product viết tắt là GDP)
GDP là tổng giá trị các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ được tạo ra bằng các
yếu tố sản xuất trong phạm vi một quốc gia, trong một thời kỳ nhất định (thường
là một năm) không phân biệt sở hữu của người nước ngoài hay trong nước.
Về phương diện sản xuất, GDP bằng tổng giá trị của các ngành sản xuất và
dịch vụ trong nước; tức bằng tổng giá trị sản lượng trừ đi tổng chi phí đầu vào.
Về phương diện phân phối, GDP bằng tiền công cộng với thu nhập hỗn
hợp, tiền thuế, khấu hao và lợi nhuận.
Về phương diện tiêu dùng, GDP bằng tiêu dùng cá nhân cộng với tích luỹ
gộp, tiêu dùng của chính phủ, xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ trừ nhập khẩu hàng
hoá và dịch vụ.
- Tổng sản phẩm quốc gia (Gross National Product viết tắt là GNP).
GNP là tổng các trị các hàng hoá và dịch vụ do công dân của một nước
(kể cả công dân làm việc ở nước ngoài) tạo ra trong một thời kỳ nhất định.
GNP - GDP +(-) thu nhập ròng từ nước ngoài [gửi về (+), gửi ra (-)]
Thu nhập ròng từ nước ngoài gồm tiền công, tiền lương cộng với thu nhập
do sở hữu tài sản (cho thuê tài sản); lợi nhuận đầu tư; lãi tín dụng.
Chỉ số tăng thêm của tổng thu nhập GDP hay GNP chưa phản ánh đầy đủ
ý nghĩa của sự tăng trưởng. Bởi vì, tổng sản lượng và tốc độ tăng trương kinh tế
còn phụ thuộc vào dân số và tốc độ tăng dân số tự nhiên hàng năm.
- Thu nhập bình quân đầu người.
Với ý nghĩa phản ánh thu nhập, chỉ tiêu GDP và GNP còn được sử dụng để
đánh giá múc thu nhập bình quân trên đầu người của mỗi quốc gia (GDP/người,
GNP/người).

Chỉ tiêu này phản ánh tăng trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổi dân số.

Quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người là những chỉ báo quan trọng
phán ánh và là tiền đề nâng cao mức sống dân cư nói chung. Sự gia tăng liên tục
với tốc độ ngày càng cao của chỉ tiêu này là dấu hiện thể hiện sự tăng trưởng bền
vững và nó còn được sử dụng trong so sánh mức sống giữa các quốc gia với nhau.
1.1.2. Phát triển kinh tế.
3


Mục tiêu của các quốc gia là tạo ra sự tiến bộ toàn diện, mà tăng trưởng
kinh tế chỉ là một điều kiện quan trọng. Sự tiến bộ của mỗi nước trong một giai
đoạn nhất định được xem xét trên hai mặt: Sự gia tăng về kinh tế và sự tiến bộ
về xã hội. Sự gia tăng về kinh tế còn được thay bằng thuật ngữ tăng trưởng kinh
tế. Tăng trưởng kinh tế tác động thúc đẩy sự tiến bộ về mọi mặt xã hội, hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý là nội dung của phát triển kinh tế.
Vậy, phát triển kinh tế là sự tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế gắn liền
với chuyển dịch cơ cấu kinh tế (theo hướng tiến bộ, hiện đại)và nâng cao chất
lượng cuộc sống.
Phát triển kinh tế là phạm trù kinh tế - xã hội rộng lớn, trong khuôn khổ
một định nghĩa hay một khái niệm ngắn gọn không thể bao hàm hết được nội
dung rộng lớn của nó. Song, nhất thiết khái niệm đó phải phản ánh được nội
dung cơ bản sau:
- Sự tăng lên về quy mô sản xuất, làm tăng thêm giá trị sản lượng của cải
vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tích cực về cơ cấu kinh tế, tạo ra một cơ cấu
kinh tế hợp lý có khả năng khai thác nguồn lực trong nước và nước ngoài
- Sự tác động của tăng trưởng kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội, cải thiện
đời sống dân cư.
- Sự phát triển là quy luật tiến hoá, song nó chịu tác động của nhiều nhân
tố, trong đó nhân tố nội lực của nền kinh tế có ý nghĩa quyết định, còn nhân tố
bên ngoài có vai trò quan trọng.
Phát triển kinh tế phản ánh sự vận động của nền kinh tế từ trình độ phát

triển thấp lên trình độ cao hơn. Nếu như tăng trưởng kinh tế là sự phát triển về
lượng thì phát triển kinh tế chính là sự thay đổi về chất của nền kinh tế.
* Các chỉ tiêu xã hội của phát triển
Tăng trưởng kinh tế tác động đến tiến bộ xã hội được phản ánh qua các chỉ số sau:

- Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng có nhiều chỉ số như: tỷ lệ chết của trẻ sơ
sinh; số giường bệnh, số bác sĩ so với dân cư; tuổi thọ trung bình. Tuổi thọ trung
bình của dân cư trong một thời kỳ nhất định phản ánh kết quả tổng hợp của sự
chăm sóc y tế đối với sức khoẻ cộng đồng, mức sống vật chất và tinh thần của
dân cư. Thực tiễn trên thế giới cho thấy, các nước kém phát triển. mức sống
thấp, tuổi thọ trung bình của dân cư đều dưới 50 tuổi, còn ở các nước phát triển
thường có tuổi thọ bình quân trên 70 tuổi.
4


- Trình độ học vấn của dân cư là chỉ số phản ánh chất lượng trí tuệ của đội
ngũ lao động và dân cư. Chỉ số này bao gồm các chỉ tiêu: tỷ lệ người biết chữ so
với tổng dân số; tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường; tỷ lệ cán bộ
có trình độ đại học và trên đại học so với tổng dân cư.
* Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI)
Chỉ số phát triển con người được cơ quan Phát triển con người Liên hợp
quốc đưa ra để kiểm soát, đánh giá sự tiến bộ trong phát triển con người. HDI đo
thành tựu trung bình của một quốc gia trên ba phương diện của sự phát triển con
người. Ba biến số được chọn làm đại diện cho ba phương diện đó là:
- Tuổi thọ trung bình từ lúc sinh.
- Tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục.
- Thu nhập bình quân đầu người theo ngang giá sức mua (GDP/người PPPUSD)
Với kết quả khảo sát 198 quốc gia. Chương trình phát triển Liên Hợp
quốc (UNDP) đưa ra kết quả phân loại sau:
Nhóm nước

GDP/người/năm
Giáo dục
Kém phát triển (42 nước)
227
32%
Đang phát triển (130 nươc)
921
58%
Phát triển (26 nước)
15.610
99%
Năm 2011, hệ số HDI Việt Nam xếp thứ 128 trên 187 nước.

Y tế
49
59
75

* Các chỉ số về cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành với vị trí, tỷ trọng và
mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy trong một hệ thống thống nhất.
Nhưng để xem xét một cơ cấu kinh tế thường xem xét mối quan hệ tỷ lệ giữa 3
lĩnh vực cơ bản là công nghiệp, nghề nghiệp và địch vụ trong tổng sản phẩm
trong nước (GDP). Nền kinh tế phát triển thì tỷ lệ công nghiệp và dịch vụ trong
GDP ngày càng cao, còn nông nghiệp thì giảm đi tương đối...
- Chỉ số tiết kiệm và mức đầu tư phản ánh khả năng tăng trưởng kinh tế
trong chu kỳ tiếp theo. Bởi vì, tiết kiệm tiêu dùng thì phần tích luỹ cho đầu tư
phát triển tăng lên. Đầu tư nhiều sẽ tăng qui mô sản xuất và gia tăng giá trị sản
lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ.


5


- Tỷ lệ dân số đô thị và nông thôn: Tỷ lệ lao động công nghiệp, dịch vụ và
lao động nông nghiệp đó là kết quả của phát triển sản xuất làm thay đổi cơ cấu
ngành nghề, thay đổi cơ cấu xã hội và dân cư.
1.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế
Nghiên cứu vai trò của tăng trưởng và phát triển kinh tế chúng ta nhận thấy
rằng, giữa tăng trưởng và phát triển kinh tế có mối quan hệ biện chứng với nhau.
- Tăng trưởng là điều kiện, tiền đề cho phát triển. Bởi vì,
Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã
hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ,
giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn
hoá... phát triển.
Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất
nghiệp. Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những
nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng
trưởng kinh tế nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm.
Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng,
củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã hội.
Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là điều kiện
tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước đang phát triển.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để làm thay đổi mọi mặt đời
sống xã hội và tác động trực tiếp đến sự hình thành cơ cấu kinh tế.
- Ngược lại sự tiến bộ về mọi mặt của nền kinh tế sẽ là động lực đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng.
Tóm lại, phát triển kinh tế bao gồm cả tăng trưởng kinh tế, song tăng
trưởng kinh tế cũng có thể không dẫn đến phát triển nhưng không có tăng trưởng
thì nhất định không có phát triển.
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO

TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

2.1. Nguồn gốc của sự tăng trưởng
Quá trình sản xuất là quá trình làm biến đổi các yếu tố đầu vào (nguồn lực
sản xuất) nhằm tạo ra giá trị đầu ra (sản lượng sản phẩm hàng hoá) theo nhu cầu
của xã hội (thị trường).
6


Nếu ta gọi biến số đầu vào là X và biến số đầu ra là Y Ta có hàm số:
Yi = F(xi)
i= 1 2, 3... n
Trong đó, các biến cố (Yi) ảnh hưởng tới tổng cầu, các biến số (Xi) ảnh
hưởng tới tổng cung.
Trong các yếu tố ảnh hưởng đến tổng Cầu bao gồm: mức thu nhập, sức
mua của đồng tiền, giá cả hàng hoá, các chính sách về tiêu dùng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tổng Cung bao gồm: vốn sản xuất, số lượng và
chất lượng lao động, tài nguyên, đất đai, kỹ thuật và công nghệ.
Từ hàm số trên rút ra nhận xét:
- Các nước phát triển, nhu cầu tiêu dùng trong nước đã thoả mãn, dẫn đến
tình trạng năng lực sản xuất lớn hơn nhiều so với nhu cầu xã hội, tức là cung lớn
hơn cầu. Muốn phát triển sản xuất, phải xuất khẩu hang hoá, dịch vụ, xuất khẩu
vốn và công nghệ.
- Các nước kém phát triển và đang phát triển thường cầu nhiều hơn cung,
thiếu các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất như: vốn, khoa học và công nghệ.
Muốn tăng trưởng kinh tế phải tiếp nhận đầu tư, nhận chuyển giao công nghệ v.v...
- Quá trình sản xuất là quá trình xử lý mối quan hệ nhân quả giữa các yếu
tố đầu vào và sản lượng hang hoá đầu ra. Nói cách khác, sự tăng trưởng kinh tế
chỉ được thực hiện khi chủ thể quản lý biết sử dụng tối ưu mối quan hệ giữa các
yếu tố của hàm sản xuất.

2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển
Trên cơ sở phân tích nguồn gốc của tăng trưởng, người ta chia các nhân tố
ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển ra làm 2 nhóm.
2.2.1. Nhóm thứ nhất: Các nhân tố kinh tế bao gồm:
+ Vốn sản xuất là những tư liệu sản xuất như máy móc, thiết bị, phương
tiện vận tải, kho tang, cơ sở hạ tầng và kỹ thuật... Vốn đối với sản xuất là yếu tố
vô cùng quan trọng. Trong điều kiện năng suất lao động không đổi thì tăng tổng
số vốn sẽ dẫn đến tăng thêm sản lượng sản phẩm hàng hoá. Tất nhiên, trong thực
tế sự tăng thêm giá trị sản lượng hàng hoá còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
nữa, chẳng hạn chất lượng lao động, trình độ kỹ thuật v.v..

7


+ Lực lượng lao động là yếu tố đặc biệt quan trọng của quá trình sản xuất
. Mọi hoạt động sản xuất đều đo lao động của con người quyết định, nhất là
người lao động có kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng lao động. Do đó, chất lượng
lao động quyết định kết quả và hiệu quả sản xuất. Những chi phí cho đào tạo
nâng cao trình độ người lao động được gọi là vốn nhân lực.

+ Đất đai là yếu tố sản xuất, không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với
nông nghiệp mà còn quan trọng đối với sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
Đất đai là yếu tố cố định, lại bị giới hạn bởi qui mô, nên người ta phải đầu
tư thêm vốn và lao động trên một đơn vị diện tích nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng đất đai.
+ Khoa học và công nghệ là yếu tố sản xuất quan trọng, nó quyết
định sự thay đổi năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Những phát
minh, sáng chế mới được ứng dụng trong sản xuất đã giải phóng được lao
động nặng nhọc, độc hại cho người lao động và tạo ra sự tăng trưởng
nhanh chóng, góp phần vào sự phát triển kinh tế của xã hội hiện đại.

Ngoài bốn yếu tố cơ bản của sản xuất nêu trên, còn rất nhiều nhân tố khác
tác động tới tăng trưởng và phát triển kinh tế như: qui mô sản xuất; các hình
thức tổ chức kinh tế tối ưu; mối quan hệ cân đối, tác động qua lại lẫn nhau giữa
các ngành, các thành phần kinh tế và thị trường tiêu thụ sản phẩm v.v...
2.2.2.Nhóm thứ hai: Các nhân tố phi kinh tế.
Các nhân tố phi kinh tế là nhân tố không thể lượng hoá được sự ảnh
hường của nó, không thể tính toán, so sánh được bằng các con số và giá trị cụ
thể. Nhưng các nhân tố này lại có phạm vi tác động rất rộng lớn và phức tạp.
Chúng ta có thể nêu ra một số nhân tố phi kinh tế chủ yếu sau:
- Thể chế chính trị và đường lối phát triển kinh tế - xã hội. Mối quan hệ
biện chứng giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở đã trở thành chân lý cho
mọi thời đại, mọi quốc gia có chế độ chính trị khác nhau. Sự tác động của ý chí,
thể chế thông qua hệ thống pháp luật do thượng tầng kiến trúc đặt ra sẽ có tác
dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển.
- Đặc điểm dân tộc: Các dân tộc sống chung trong một cộng đồng quốc
gia dân tộc, nhưng lại có nhu cầu về văn hoá, kinh tế khác nhau, tập quán sống
8


và sản xuất cũng khác nhau. Nước ta có 54 dân tộc khác nhau, chắc chắn có
nhiều điểm khác nhau giữa các dân tộc, song họ đều có một mục tiêu chung là
cùng nhau giữ nước và xây dựng đất nước phồn vinh. Xã hội chỉ thực hiện được
mục tiêu đó, khi huy động, khai thác được những năng lực sản xuất, tiềm năng
kinh tế xã hội của các dân tộc vào việc thực hiện tăng trưởng và phát triển, qua
đó mỗi dân tộc đều có được lợi ích nhờ lao động của chính bản thân mình. Thực
hiện được như vậy, thì đặc điểm dân tộc mới trở thành nhân tố tích cực tác động
đến tăng trưởng và phát triển. Ngược lại, phát triển kinh tế đem lại lợi ích cho
dân tộc này, nhưng lại gây tác hại đến vùng khác, dân tộc khác thì không trở
thành lực lượng cần cho sự tăng trưởng và phát triển, mà sẽ trở thành nguyên
nhân của sự xung đột giữa các sắc tộc.

- Đặc điểm tôn giáo: Vấn đề tôn giáo gắn liền với vấn đề dân tộc. Trong
quốc gia đa dân tộc thường có nhiều tôn giáo khác nhau. Quy mô và mức độ tín
ngưỡng của các tôn giáo phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Ở
các quốc gia phát triển, mức sống cao, trình độ khoa học hiện đại, thì mức độ mê
tín thấp hơn ở các nước kém và đang phát triển.
Song, dù ở nước nào thì các đạo giáo đều có quan niệm, triết lý, tư tưởng
riêng ăn sâu vào cuộc sống của giáo dân từ đời này qua đời khác, khó thay đổi.
Các thiên kiến của tôn giáo thường tạo ra một tâm lý xã hội biệt lập của đạo giáo
mình. Nhưng nếu có chính sách đúng đắn thì vẫn có thể tạo ra sự hoà hợp giữa
giáo dân, các tôn giáo và khi đó nó trở thành nhân tố tích cực tác động đến sự
tăng trưởng và phát triển.
- Đặc điểm văn hoá: Văn hoá, dân tộc, tôn giáo có mối liên hệ gắn bó với
nhau. Văn hoá dân tộc là một phạm trù rộng lớn, bao trùm nhiều mặt từ tri thức
phổ thông, khoa học, văn học nghệ thuật đến lối sống, tập quán, cách ứng xử
trong quan hệ giao tiếp... được hình thành và tích luỹ lại trong một quá trình phát
triển của dân tộc gắn liền với việc tiếp thu những tinh hoa của văn minh nhân loại.
Có thể nói, trình độ văn hoá của một dân tộc là nhân tố cơ bản tạo ra chất lượng
của đội ngũ lao động và do đó là nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển.
Hay nói cách khác, trình độ văn hoá văn minh của một dân tộc tỷ lệ thuận
với phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
2.3. Những điều kiện bảo đảm tăng trưởng và phát triển
9


2.3.1. Điều kiện thứ nhất: Sự ổn định chính trị xã hội.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế đòi hỏi phải có một thể chế chính trị - xã
hội ổn định. Sự ổn định đó được xác lập trước hết bằng đường lối phát triển kinh
tế - xã hội đúng đắn, thể hiện được ý chí phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; phù hợp với các quy luật khách quan; có
khả năng thu hút mọi lực lượng đầu tư, khai thác được các nguồn lực trong nước

và ngoài nước.
Đường lối đó còn phải được thực thi bằng hệ thống chính sách thích hợp,
có khả năng cân đối ngân sách, kiềm chế lạm phát, tạo được sự thăng bằng trong
cán cân thanh toán quốc tế và có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, từng bước tăng
tỷ lệ đầu tư cho phát triển.
Sự ổn định đường lối phát triển kinh tế - xã hội, hệ thống chính sách nhất
quán, thích hợp sẽ hấp dẫn đối tác đầu tư, tạo được lòng tin với bạn hàng khu
vực và quốc tế.
Như vậy ổn định chính trị - xã hội là điều kiện tiên quyết bảo đảm tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
3.2.2. Điều kiện thứ hai: Đầu tư phát triển khoa học - công nghệ và có
khả năng ứng dụng công nghệ tiên tiến của thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, thế giới đang có những bước tiến lớn trong lĩnh
vực khoa học - công nghệ. Nhờ những thành tựu đó, nhiều quốc gia đã đạt được
tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và liên tục trong nhiều năm; nhiều quốc
gia và những vùng lãnh thổ từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu đã trở thành nước
công nghiệp mới chỉ sau 20 - 30 năm như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo...
Khoa học và công nghệ không chỉ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, mà còn là điều kiện của sự tăng trưởng
và phát triển kinh tế.
Các quốc gia muốn có tăng trưởng và phát triển kinh tế nhất thiết phải đầu
tư cho giáo dục đào tạo, phát triển khoa học, công nghệ. Đầu tư cho giáo dụcđào tạo và phát triển khoa học, công nghệ là nhằm thay đổi tận gốc lực lượng
sản xuất, tạo ra năng suất, chất lượng sản phẩm cao hơn, là đầu tư chiều sâu.

10


Các nước công nghiệp phát triển và công nghiệp mới đều đã tạo điều kiện
phát triển và ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ của thế giới vào đời
sống kinh tế - xã hội nước mình.

3.3.3. Điều kiện thứ ba: Tăng trưởng phải trở thành mục tiêu phấn đấu
của mọi người, nhất là những người trực tiếp sản xuất, chứ không chỉ là mục
tiêu của nhà nước.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, môi trường luật pháp đã tạo
cho mọi người quyền bình đẳng trước pháp luật và có cơ hội sản xuất - kinh
doanh như nhau. Mọi chủ thể kinh tế đều có thể sử dụng tài năng, sức lực và vốn
liếng của mình, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng suất lao động và chất
lượng sản phẩm để có nhiều lợi nhuận.
Thực hiện điều đó trước hết là vì lợi ích của người kinh doanh, đồng thời
cũng đem lại lợi ích cho xã hội. Không thể có nền kinh tế tăng trưởng cao và bền
vững nếu các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều không có khả năng
và cơ hội phát triển. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh không phải là một khẩu hiệu, mà là nguyện vọng và mục tiêu phấn đấu của
toàn dân, phản ánh đúng đắn thực tế khách quan, có cơ sở khoa học và hợp quy
luật. Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ của toàn dân tộc.
3.3.4. Điều kiện thứ tư: Trình độ văn hoá của nhân dân và chất lượng đội
ngũ lao động.
Con người là nguồn lực đặc biệt của sản xuất, nó tham gia vào quá trình
sản xuất bằng cả sức lực cơ bắp và năng lực trí tuệ, sáng tạo trong lao động. Con
người vừa là yếu tố tham gia vào sản xuất, tạo ra sản phẩm; vừa trực tiếp tiêu
thụ sản phẩm do chính mình làm ra.
Với vai trò là nguồn lực sản xuất, con người không chỉ có sức khoẻ, mà
còn phải có trình độ văn hoá, khoa học và kỹ năng sản xuất, để có thể đáp ứng
yêu cầu của công nghệ tiên tiến. Xét trên cả hai phương diện kinh tế và xã hội,
con người là động lực chủ yếu của quá trình sản xuất, là trung tâm trong chiến
lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vì vậy, trình độ văn hoá của dân cư và chất lượng đội ngũ lao động là
điều kiện quan trọng đảm bảo nền kinh tế có tăng trưởng và phát triển bền vững.

11



III - VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VÀ GIẢI PHÁP TĂNG TRƯỞNG, PHÁT
TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI

3.1. Vai trò của nhà nước đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là quá trình kết hợp các yếu tố rất đa dạng
và phức tạp. Vì vậy, khi nghiên cứu vấn đề tăng trưởng và phát triển phải tôn trọng
các phương pháp luận, nhất là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Những yếu tố nguồn lực, nhân tố tác động và các điều kiện đảm bảo tăng
trưởng và phát triển phải được phân tích, xem xét trên cơ sở của từng quốc gia,
từng giai đoạn lịch sử nhất định. Thực tế, nhiều quốc gia thiếu các yếu tố nguồn
lực cơ bản như đất đai hẹp, tài nguyên thiên nhiên rất khan hiếm, khí hậu khắc
nghiệt, nhưng vẫn có tốc tăng trưởng cao, nền kinh tế phát triển bền vững.
Ngược lại, một số nước khác có các yếu tố nguồn lực cơ bản đầy đủ, điều kiện
khí hậu thuận lợi, song nền kinh tế sa sút, kém phát triển.
Ngoài các yếu tố nguồn lực cơ bản của sản xuất đã nghiên cứu ở trên, còn
cần phải có một yếu tố nữa là sự điều tiết, quản lý của nhà nước. Vai trò của nhà
nước trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế - như một yếu tố nguồn
lực - là rất quan trọng. Nhưng mức độ tham gia của nhà nước vào quá trình kinh
tế trên như thế nào là vừa, thì còn có nhiều ý kiến khác nhau. Bởi vì, sự tham gia
của nhà nước vào quá trình phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố: điều kiện tự
nhiên, thể chế chính trị, cơ chế quản lý, trình độ dân trí và năng lực quản lý của
bộ máy nhà nước. Do đó, không thể lượng hoá các chỉ số chung về mức độ can
thiệp của nhà nước vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với nước ta, việc thực hiện mô hình kinh thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đòi hỏi phải tăng cường sự quản lý, điều tiết của nhà nước. Vì thế,
vai trò của Nhà nước trong tăng trưởng và phát triển kinh tế càng có ý nghĩa
quan trọng. Vai trò đó được thể hiện thông qua các các chức năng sau:
3.1.1. Chức năng tạo môi trường kinh doanh cho các đơn vị kinh tế

thuộc tất cả các thành phần kinh tế
Môi trường kinh doanh là phạm trù kinh tế - xã hội rộng lớn, gắn chặt với
chức năng nhiệm vụ của nhà nước. Môi trường kinh doanh bao gồm:
- Môi trường pháp lý: Là hệ thống luật và các văn bản dưới luật, các
chính sách, các thông tư hướng dẫn thực hiện và hệ thống hành chính quốc gia.
12


Đó là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật về cơ hội kinh
doanh của các chủ thể kinh tế, là điều kiện để các đơn vị kinh tế chủ động khai
thác tiềm lực của mình, tạo ra năng suất lao động và lợi nhuận cao. Đây chính là
yếu tố cơ bản dẫn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Thị trường xã hội bao gồm thị trường hàng hoá, thị trường sức lao động,
thị trường vốn, thị trường công nghệ, thông tin v.v... Thị trường là nơi diễn ra
quá trình trao đổi hàng hoá thông qua giá cả và giá cả lại bị chi phối bởi quan hệ
cung cầu. Thị trường tạo ra sự giao lưu thương mại, kích thích đổi mới thiết bị
công nghệ, tăng thêm đầu tư mở rộng quy mô, tăng nhanh sản lượng, sản phẩm
hàng hoá, dịch vụ. Hoàn thiện hệ thống thị trường là tạo điều kiện thuận lợi cho
các cơ sở kinh tế có cơ hội khai thác sức mạnh của mình. đẩy nhanh quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội.
Để phát triển kinh tế hàng hoá đòi hỏi phải xây dựng và phát triển hệ
thống giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, điện nước... Trên cơ sở kết cấu hạ
tầng vững mạnh nền kinh tế mới có điều kiện tăng trưởng và phát triển với nhịp
độ cao và ổn định. Chính vì vậy, Nhà nước ta đang tăng cường đầu tư bằng các
nguồn vốn vào các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.1.2. Chức năng định hướng phát triển
Tuy không can thiệp trực tiếp vào các hành vi sản xuất kinh doanh của các
đơn vị cơ sở, nhưng ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông phân

phối đều có sự định hướng của Nhà nước.
- Định hướng thông qua phân bố lực lượng sản xuất để tạo ra một cơ cấu
kinh tế hợp lý giữa các ngành, các lĩnh vực, các vùng kinh tế trong cả nước,
nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài.
- Định hướng thông qua các chính sách kinh tế nhằm bảo đảm cân đối
ngân sách quốc gia.
Để bảo đảm nguồn thu ngân sách và sự cân đối giữa các ngành kinh tế,
Nhà nước có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế sản xuất các sản
phẩm thiết yếu cho nhu cầu xã hội và thông qua chính sách thuế để kiểm soát
các sản phẩm, các ngành hàng, mà Nhà nước muốn hạn chế.
13


Thông qua các chính sách khuyến khích sản xuất, chính sách thuế để
tăng nguồn thu cho ngân sách. Mặt khác, Nhà nước kiểm soát chặt chẽ chế độ
chi thường xuyên để bảo đảm nguồn tích luỹ đầu tư cho phát triển.
- Định hướng thông qua các chương trình, dự án đầu tư trong nước và
nước ngoài để tạo ra khả năng cân đối lực lượng sản xuất giữa thành thị và nông
thôn, đồng bằng và miền núi, tạo khả năng điều chỉnh thu nhập giữa các vùng và
các tầng lớp dân cư.
3.1.3. Chức năng chế định các chính sách xã hội
Tăng trưởng là tiền đề kinh tế để giải quyết các vấn đề xã hội, Đảng và
Nhà nước ta chủ trương tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng và tiến bộ xã
hội. Mục tiêu đó được biểu hiện: Nhà nước bảo đảm trật tự an ninh quốc phòng,
bảo đảm sự phát triển sự nghiệp phúc lợi công cộng của xã hội như giáo dục –
đào tạo, văn hóa, y tế, bảo hiểm… Điều tiết qua thuế đối với những người,
những tổ chức gây ra ngoại ứng tiêu cực, gây ô nhiễm môi trường, làm cản trở
giao thông, làm tác hại đến hoạt động của cộng đồng dân cư.
Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, đời sống vật chất, văn hoá, tinh
thần đều được cải thiện; con người được chăm sóc và phát triển toàn diện; xã hội

dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là mô hình mà xã hội loài người đang tìm
cách để đạt được.
3.1.4. Chức năng là chủ thể sở hữu các cơ sở kinh tế thuộc sở hữu toàn dân
Các cơ sở kinh tế loại này nước nào cũng có. Nhưng ở các nước khác
nhau trong các thời kỳ khác nhau, tỷ trọng kinh tế nhà nước trong toàn bộ nền
kinh tế cũng không giống nhau.
Đối với nước ta, các cơ sở kinh tế Nhà nước phải đảm đương vai trò chủ
đạo trong quá trình phát triển kinh tế. Nhà nước trực tiếp tổ chức quản lý, điều
hành và có chính sách thích hợp để các cơ sở kinh tế Nhà nước hoạt động có hiệu
quả, từng bước đóng vai trò chủ đạo, định hướng phát triển nền kinh tế nước nhà.
3.2. Giải pháp kết hợp tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội
Tiến bộ và công bằng xã hội là mục tiêu phấn đấu của nhân loại. Song
công bằng xã hội là vấn đề rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực như: kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội ... Để từng bước thực hiện được công bằng xã hội, điều
14


kiện tiên quyết là phải có nền kinh tế tăng trưởng cao, phát triển bền vững. Tuy
nhiên, tăng trưởng kinh tế không thể tự nó đem lại công bằng cho xã hội, mà còn
phải có sự điều tiết của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và cộng đồng dân
cư. Ngược lại, khi công bằng xã hội được thực hiện, sẽ tạo ra động lực cho sự
phát triển đồng đều, toàn diện về mọi mặt kinh tế - xã hội. Sự phát triển đó là
tiền đề nâng cao chất lượng lao động, để mọi thành viên trong xã hội tăng thêm
tính cộng đồng, hợp tác, gắn bó với nhau, tạo ra động lực thúc đẩy nền kinh tế
tăng trưởng với tốc độ cao hơn.
Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã
hội, cần có các biện pháp sau:
3.2.1. Nhà nước tạo môi trường cho phát triển sản xuất thu hút lao
động, giải quyết việc làm

Nước ta thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm huy động
mọi nguồn nhân tài, vật lực trong nhân dân để phát triển nền kinh tế quốc dân.
Nhà nước tạo điều kiện cho mọi thành viên xã hội được tự do tổ chức sản xuất
và lưu thông các sản phẩm hàng hoá mà pháp luật không cấm; khuyến khích mọi
người góp vốn cùng nhau hiệp tác sản xuất tạo ra nhiều của cải cho xã hội, để
mọi người có việc làm, có thu nhập từng bước nâng cao mức sống.
Sự bình đẳng và công bằng xã hội không chỉ thể hiện qua phân phối kết
quả lao động mà còn thể hiện qua cơ hội và môi trường sản xuất kinh doanh
được tạo ra cho mọi thành viên xã hội. Nhà nước tạo điều kiện cho mọi người có
quyền bình đẳng trong cơ hội và môi trường sản xuất kinh doanh. Đây là giải
pháp cơ bản cho mọi người có thể bình đẳng trong kinh tế, là giải pháp chủ yếu
để xoá đói, giảm nghèo, hạn chế sự phân cực xã hội, từng bước rút ngắn khoảng
cách về thu nhập và đời sống trong nhân dân.
Để tạo điều kiện cho người nghèo có thể tự mình hoặc cùng nhau hiệp tác
sản xuất tạo ra sản phẩm cho gia đình và xã hội, Nhà nước cần hỗ trợ, giúp đỡ
trên các mặt:
- Nhà nước hỗ trợ người nghèo vay vốn sản xuất với lãi xuất ưu đãi. Thông
qua các ngân hàng và quỹ hỗ trợ người nghèo, đưa vào các hình thức tín chấp của
các đoàn thể xã hội, Nhà nước cho người nghèo vay vốn phát triển sản xuất.

15


- Thông qua các hình thức chuyển giao công nghệ để phổ biến kinh
nghiệm, hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ kinh phí cho đào tạo nghề, giúp người
nghèo có khả năng tự tố chức, quản lý sán xuất.
- Hướng dẫn, cung cấp thông tin về thị trường, hỗ trợ người sản xuất nhỏ
có điều kiện hiểu biết thị trường trong nước và quốc tế.
- Tạo môi trường pháp lý thuận lợi và hệ thống chính sách khuyến khích
sản xuất trong nước để các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, các hộ kinh tế cá thể

có điều kiện phát triển.
3.2.2. Tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo, dạy nghề ở các vùng
nông thôn, miền núi
Nâng cao trình độ văn hoá, nghiệp vụ chuyên môn, tay nghề cho đội ngữ lao
động là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược của sự phát triển. Đối với người nghèo, yêu
cầu giáo dục - đào tạo lại càng quan trong và cấp bách. Bởi vì, những người nghèo
vừa thiếu vốn sản xuất, lại vừa thiếu cả kiến thức văn hoá và tay nghề sản xuất.
Nếu chỉ cho họ vay vốn mà không chăm lo đến nâng cao tri thức và tay nghề
chuyên môn cho họ thì trước sau họ cũng bị phá sản và trở lại cảnh nghèo khó.
Để phát triển giáo đục ở các vùng nông thôn và miền núi. Phải có chính
sách khuyến khích, hỗ trợ người nghèo đi học. Đồng thời phải đầu tư xây dựng
trường lớp và có chính sách ưu đãi cho đội ngũ giáo viên; đối với những giáo
viên đến dạy học ở các vùng sâu vùng xa, miền núi hẻo lánh và hải đảo cần phải
có chế độ ưu đãi đặc biệt.
3.2.3. Chăm sóc sức khoẻ cho đội ngũ lao động và cộng đồng dân cư
Con người không chỉ cần có tri thức, kỹ năng lao động mà còn cần có sức
khoẻ cường tráng. Chăm sóc sức khoẻ cho người lao động và dân cư là nhiệm vụ
quan trọng của Nhà nước và cũng là trách nhiệm của mọi người. Đối với người
nghèo, Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ việc khám chữa bệnh, chăm sóc sức
khỏe trẻ em, người lao động và cả những người già neo đơn.
3.2.4. Có chính sách bảo trợ xã hội đối với những người tàn tật, cô
đơn mất sức lao động
Xã hội nào cũng có một bộ phận dân cư bị tật nguyền bẩm sinh hoặc do
hậu quả chiến tranh, tai nạn rủi ro làm mất khả năng lao động. Nhà nước phải có
chính sách bảo trợ cho những đối tượng này đồng thời cần có các chính sách
16


thích hợp huy động sự đóng góp của các đơn vị sản xuất kinh doanh, hành chính
sự nghiệp, các tổ chức chính trị, xã hội và các cá nhân trong cộng đồng để cùng

với Nhà nước chăm sóc người tàn tật, cô đơn mất sức lao động, giúp họ ổn định
và cải thiện đời sống; tạo điều kiện cho họ vượt qua các mặc cảm về tật nguyền,
gắn bó với cộng đồng; sử dụng phần sức lực của mình vào các hoạt động kinh
tế, văn hoá, xã hội của cộng đồng.

17


KẾT LUẬN
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các quốc gia
trên thế giới. Đối với nước ta, tăng trưởng và phát triển còn là điều kiện rất quan
trọng để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng qua đó thúc đẩy sự phát triển của toàn xã
hội, bên cạnh việc cần thiết phải nắm vững những vấn đề có tính lý luận về tăng
trưởng và phát triển nêu trên, còn đòi hỏi nhất thiết phải tăng cường vai trò quản
lý, điều tiết của nhà nước đối với quá trình đó. Bởi vì, một mặt sự quản lý, điều
tiết của nhà nước đối với nền kinh tế nhằm phát huy ưu thế, khắc phục hạn chế,
khuyết tật của cơ chế thị trường, nhưng mặt khác còn bảo đảm cho quá trình
tăng trưởng ổn định, lâu dài tạo ra những điều kiện, tiền đề cần thiết để cho quá
trình phát triển bền vững, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội.
Là một nước đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì vai trò của tăng trưởng và phát triển
kinh tế đối với nước ta là rất quan trọng. Tuy nhiên, không phải vì tốc độ tăng
trưởng mà chúng ta sẵn sàng đánh đổi mọi thứ. Ngược lại, để đạt được tốc độ
tăng trưởng bền vững, ổn định nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội đòi
hỏi chúng ta cần có nhiều chủ trương, chính sách, đường lối chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch v.v… phát triển kinh tế thông qua chức năng điều tiết, quản lý
nền kinh tế của nhà nước. Chỉ trên cơ sở đó chúng ta mới đạt được mục tiêu
xuyên suốt trong thời kỳ quá độ là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.


18



×