Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

ĐÁNH GIÁ NĂNG SUẤT SINH SẢN VÀ TÌNH HÌNH DỊCH BỆNH CỦA ĐÀN LỢN NÁI F1 (LANDRACE X YORKSHIRE) PHỐI VỚI ĐỰC DUROC NUÔI TẠI TRANG TRẠI CỦA BÀ ĐỖ THỊ BÌNH, HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.71 KB, 42 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

KHOA CHĂN NUÔI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
ĐÁNH GIÁ NĂNG SUẤT SINH SẢN VÀ TÌNH HÌNH
DỊCH BỆNH CỦA ĐÀN LỢN NÁI F1 (LANDRACE X
YORKSHIRE) PHỐI VỚI ĐỰC DUROC NUÔI TẠI
TRANG TRẠI CỦA BÀ ĐỖ THỊ BÌNH, HUYỆN KIM
BẢNG, TỈNH HÀ NAM.

Người thực hiện

: TRẦN THỊ QUỲNH

Khóa

: 58

Khoa

: CHĂN NUÔI

Chuyên ngành

: CHĂN NUÔI - THÚ Y

Giáo viên hướng dẫn

: ThS. DƯƠNG THU HƯƠNG



HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ của các cá nhân và tập thể.
Qua đây tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong Học
Viện Nông nghiệp Việt Nam nói chung, thầy cô Khoa Chăn nuôi nói riêng, đặc biệt
là các thầy cô trong bộ môn Sinh học - Động vật, người đã truyền đạt những kiến
thức, kinh nghiệm sống quý báu để tôi có được cái nhìn tổng quát ngành nghề, tạo
nền móng cơ bản để khởi nghiệp.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới ThS. Dương Thu Hương
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn cô Đỗ Thị Bình- Chủ trang trại, nơi tôi thực
tập đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi trong thời gian thực tập.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn bạn bè và người thân đã giúp đỡ, động viên, giúp
tôi hoàn thành báo cáo này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2017
Sinh viên

Trần Thị Quỳnh


MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn nuôi lợn ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung đóng vai trò hết sức
quan trọng trong hệ thống chăn nuôi. Lợn là loài gia súc được nuôi phổ biến và

cung cấp lượng thực phẩm lớn nhất có giá trị dinh dưỡng cao cho con người. Việc
tiêu thụ thịt lợn trong các bữa ăn hàng ngày của con người rất phổ biến, mùi vị dễ
thích hợp với tất cả các đối tượng và không gây ra hiên tượng dị ứng do thực
phẩm. Ngoài ra,chăn nuôi lợn còn cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp
chế biến, tạo ra nguồn nguyên liệu cho y học trong công nghệ sinh học y học để
phục vụ nâng cao sức khỏe cho con người, cung cấp nguồn phân bón cho cây trồng
và cải tạo đất nông nghiệp.
Thời gian qua đàn lợn trong nước có sự tăng trưởng khá nhanh về tổng đàn,
chất lượng đàn cũng như quy mô sản xuất, kim ngạch xuất khẩu. Theo thống kê
của cục chăn nuôi đến ngày 1/10/2015 tổng quy mô đàn lợn nước ta là 27,1 triệu
con tăng 1,15% so với năm 2013 là 26,6 triệu con. Trong đó số lượng lợn nái năm
2013 là 3,19 triệu con tăng lên 4,1 triệu con vào năm 2015, (Cục chăn nuôi 2015).
Tuy nhiên lớn lượng sản phẩm sản xuất chủ yếu được tiêu thụ ở thị trường nội
địa, xuất khẩu thịt lợn của Việt nam vẫn chưa đủ sức cạnh tranh, là do cơ cấu
giống lợn của nước ta vẫn là lợn địa phương, lợn lai (nội x ngoại), năng suất thấp,
tỷ lệ mỡ cao. Các cơ sở cung cấp giống lợn ngoại, lợn tốt chưa đảm bảo nhu cầu
của người sản xuất.
Năm 2016 Việt Nam đã gia hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP),
trong đó lĩnh vực nông nghiệp đặc biệt là chăn nuôi được coi là ngành kinh tế chịu
tác động lớn khi nước ta tham gia hiệp định thương mại này. Do giá thành sản
phẩm chăn nuôi của chúng ta còn cao, chất lượng sản phẩm thấp khó cạnh tranh
với các sản phẩm của các nước là vì năng suất chăn nuôi thấp . Yêu cầu đặt ra cho
các nhà chăn nuôi là phải đưa ra được các giống lợn có năng suất cao để nâng cao


hơn nữa khả năng sinh sản của đàn mẹ và đồng thời làm tăng tốc độ sinh trưởng
của đàn con, giảm chi phí thức ăn, tiết kiệm thời gian nuôi.
Đứng trước yêu cầu này, ngành chăn nuôi lợn phải có những giải pháp thích
hợp như: cải tạo cơ cấu đàn giống, nhập các giống ngoại để tiến hành nhân thuần
và cho lai tạo ra đàn con thương phẩm nuôi thịt có năng suất thịt cao và nhiều nạc.

Gần đây, nhiều giống lợn ngoại như: Yorkshire, Landrace, Duroc, Pietrain, … đã
được nhập vào nước ta để nuôi thuần chủng và lai tạo thành những tổ hợp lai mới
có năng suất cho thịt cao, được ứng dụng rộng rãi và mang lại hiệu quả. Nâng cao
chất lượng đàn giống thông qua chọn lọc và cải tạo, tổ chức chăn nuôi theo hướng
hàng hóa và áp dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao hiệu cả chăn nuôi để đáp ứng
nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Lợn ngoại nhập vào nước ta còn chịu sự tác động của nhiều yếu tố: khí hậu,
thức ăn, phương thức chăn nuôi, vệ sinh thú y…Các yếu tố này đều có liên quan
trực tiếp hoặc gián tiếp đến các bệnh sinh sản. Do đó việc tìm hiểu năng suất sinh
sản, các yếu tố ảnh hưởng đến sinh sản là rất cần thiết. Sự hiểu biết này giúp
người chăn nuôi có nhận định đúng trong việc lựa chọn con giống, kỹ thuật chăm
sóc, nuôi dưỡng và quy trình vệ sinh thú y trong quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, năng suất chăn nuôi luôn bị đe dọa bởi các yếu tố dịch bệnh. Nó
thường gây tổn thất lớn và là mối quan tâm của bất cứ cơ sở nào.
Xuất phát từ xu thế và thực tế trên, nhằm nâng cao kiến thức cũng như góp phần
đẩy mạnh công tác chăn nuôi lợn ở Việt Nam, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá năng suất sinh sản và tình hình dịch bệnh của đàn lợn nái
(Landrace x Yorkshide) phối với đực Duroc nuôi tại trang trại của bà Đỗ Thị
Bình, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam”.
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI.
- Đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái Landrace x Yorkshide phối với đực
Duroc nuôi tại trang trại của bà Đỗ Thị Bình, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
- Đánh giá được tình hình dịch bệnh của lợn nái và lợn con theo mẹ.


- Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao năng suất sinh
sản cho đàn nái.

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU



1.1. NGUỒN GỐC VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC GIỐNG LỢN
1.1.1. Giống lợn Yorkshire
Giống lợn Yorkshire có nguồn gốc từ vùng Yorkshire của nước Anh vào đầu
thế kỉ XVI. Là giống lợn được nuôi phổ biến ở hầu khắp các nước trên thế giới. Ở
Việt Nam lợn cũng được nhập vào từ những năm 1920 ở miền Nam để tạo ra lợn
Thuộc Nhiêu Nam Bộ. Đến 1964, lợn được nhập vào miền Bắc thông qua Liên Xô
cũ. Đến năm 1978, chúng ta đã nhập lợn Yorkshire từ Cu Ba.
Lợn Yorkshire có đặc điểm ngoại hình: toàn thân da có màu trắng tuyền, ngực
sâu, đầu cổ nhỏ và hơi dài, mõm thẳng và dài, bụng gọn bốn chân chắc chắn, tai tođứng, mông đùi to, vai lớn, khung xương to vững chắc.
Đặc tính sinh sản: Lợn Yorkshire mắn đẻ, sai con, nuôi con khéo, chịu được
kham khổ, đề kháng rất tốt với bệnh tật, không kén ăn, khả năng chống chịu với
điều kiện khí hậu, môi trường thay đổi cao. Số con/ lứa là 10 – 13 con (có lứa đạt
17 – 18 con). Con cai sữa ở 60 ngày tuổi đạt 16 - 20 kg/con (Võ Trọng Hốt và cộng
sự, 2000).
Hiện nay lợn Yorkshire được nuôi rất phổ biến với số lượng lớn thường dùng
làm nái nền tạo nhiều công thức lai, cũng là giống sản xuất thịt đáp ứng được nhu
cầu thị trường. Thông thường người ta sử dụng hai giống Yorkshire và Landrace để
tạo ra đàn nái bố mẹ có khả năng sinh sản tốt, thích nghi rộng rãi, chất lượng thịt
cao, năng suất cao khi cho lai với các đực giống Pietrain và Duroc…
1.1.2. Giống lợn Landrace
Giống lợn Landrace có nguồn gốc từ Đan Mạch, được nuôi phổ biến ở các nước
Châu Âu từ năm 1990. Chúng được tạo thành bởi quá trình lai tạo chính giữa giống
lợn Youtland có nguồn gốc Đức với lợn Yorkshire có nguồn gốc từ Anh. Năm


1970, giống lợn này được nhập vào Việt Nam qua Cuba. Giống lợn Landrace được
chọn là một trong những giống tốt để thực hiện chương trình nạc hóa đàn lợn Việt
Nam.

Đặc điểm ngoại hình: Toàn thân có màu trắng tuyền, tai to dài rủ xuống kín
mặt, tai cúp về phía trước, cổ nhỏ và dài, mình dài, ngực nông, bụng thon vai- lưng
– mông- đùi rất phát triển, mõm thẳng, thân hình dài, ngoại hình thể chất vững
chắc, tầm vóc lớn.
Khả năng sinh trưởng: khối lượng sơ sinh 1,2-1,4kg, trọng lượng 5-6 tháng tuổi
90kg, trọng lượng trưởng thành 250-300 kg, tỷ lệ nạc đạt 56% trở lên, thịt ngon,
mềm, sớ cơ ít dai. Tiêu tôn thức ăn/kg tăng trọng: 2,8-3,0 kg. Đạt 100 kg khi được
160-170 ngày tuổi.
Lợn Landrace có khả năng sinh sản cao, nuôi con khéo, mắn đẻ và đẻ nhiều
trung bình đạt 1,8-2 lứa/năm. Mỗi lứa đẻ 10-12 con, trọng lượng sơ sinh (Pss)
trung bình đạt 1,2-1,3 kg, trọng lượng cai sữa (Pcs) từ 2-15 kg. Sức tiết sữa từ 5-9
kg sữa/ ngày. Khả năng thích nghi kém hơn Yorkshire, dễ bị stress, kén ăn và
tương đối đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng cao và phải có điều kiện chăm sóc tốt.
Hiện nay giống lợn Landrace đang được nuôi phổ biến ở nước ta và được sử
dụng trong các công thức lai kinh tế giữa các giống lợn ngoại với nhau để tạo ra
con lai thương phẩm có năng suất và chất lượng thịt tốt, đặc biệt nái lai F1(LY)
đang được nuôi rất phổ biến ở các trang trại chăn nuôi nước ta hiện nay.
1.1.3. Giống lợn Duroc
Giống lợn Duroc có nguồn gốc từ miền Đông nước Mỹ và vùng Corn Belt.
Dòng Duroc được tạo ra ở vùng New York năm 1923, bởi Issac Frink. Giống
Duroc-Jersey có nguồn của hai dòng khác biệt Jersey đỏ của New Jersey và Duroc
của New York.
Đặc điểm ngoại hình: Lợn toàn thân có lông màu hung đỏ hoặc nâu đỏ, đầu
to vừa phải, mõm dài, tai to và dài, cổ nhỏ và dài, mình dài, vai-lưng-mông-đùi rất
phát triển. Lợn thuần chủng có sắc lông đỏ nâu, bốn móng ở mỗi chân màu đen
tuyền, khi lai lông có màu vàng nhạt và xuất hiện đốm đen.
Giống Duroc là giống tiêu biểu hướng nạc. Trọng lượng trưởng thành con


đực trên 300 kg/con, con cái 200-300 kg/con, tỷ lệ nạc cao. Chúng là giống lợn cho

nhiều nạc, mỡ lưng mỏng (10-12 mm), nạc có sớ cơ dai, ít vân mỡ nên thịt không
mềm, không ngon lắm. Lợn tăng trọng nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp, có khả năng
tăng trọng từ 750-800 g/ngày, 6 tháng tuổi lợn thịt có thể đạt 105-125 kg.
Đoàn Văn Soạn và Đặng Vũ Bình (2010) cho biết khả năng tăng khối lượng
trung bình trong thời gian từ 60 đến 165 ngày tuổi của các tổ hợp lai giữa nái lai F 1
(L x Y), F1 (Y x L) phối với lợn đực Duroc và đực L 19 (đực VCN03) đạt từ 680 702 g/ngày và cùng trên tổ hợp lai giữa lợn đực Duroc, lợn đực L19 với nái F 1 (L x
Y) và F1 ( Y x L) tác giả Phan Văn Hùng và Đặng Vũ Bình (2008) cho biết tỉ lệ
móc hàm là 75,33 - 75,94%, tỉ lệ thịt xẻ 68,57 - 69,64%, tỉ lệ nạc là 57,21 58,87%, dài thân thịt là 87,38 - 90,87 cm.
Duroc có khả năng sinh sản tương đối cao. Trung bình đạt 1,7 – 1,8 lứa/năm.
Mỗi lứa đẻ từ 9 đến 11 con, lợn con trung bình đạt 1,2 – 1,3 kg, khối lượng cai sữa
đạt 12 – 15 kg. Sức tiết sữa của lợn đạt 5 – 8 kg/ngày. Khả năng sinh trưởng của lợn
tốt. Tuy nhiên, khả năng sinh sản của nái không cao, đẻ khoảng 7-9 con/lứa, nuôi con
kém. Lợn nái đẻ mỗi năm 1,8 lứa, mỗi lứa 8 – 9 con, nái tiết sữa kém, nuôi con kém,
nhu cầu dinh dưỡng cao, sức kháng bệnh kém.
1.2. ĐẶC ĐIỂM SINH LÍ SINH SẢN CỦA LỢN NÁI
1.2.1. Sự thành thục về tính
Tuổi thành thục về tính được tính từ lúc con vật bắt đầu có phản xạ sinh dục
và có khả năng sinh sản.
Khi đó, bộ máy sinh dục phát triển tương đối hoàn chỉnh, con cái rụng trứng lần
đầu, con đực sinh tinh và có biểu hiện giao phối lần đầu. Trứng và tinh trùng gặp
nhau có khả năng thụ thai. Xuất hiện các phản xạ sinh dục con cái thích gần con
đực và chịu đực, con đực có phản xạ giao phối. Các đặc điểm sinh dục thứ cấp xuất
hiện.


Sự thành thục của lợn cái được ghi nhận bằng lần động dục đầu tiên, mặc dù ở
lần động dục đầu tiên này, lợn cái có trứng rụng và có khả năng thụ thai. Nhưng
người ta thường bỏ qua lần động dục đầu tiên này, vì bộ máy sinh sản chưa phát
triển hoàn chỉnh, thể vóc chưa thành thục . Sự thành thục về tính thường biểu hiện
sớm hơn sự thành thục về thể vóc. Nó báo hiệu khả năng sinh sản của lợn nái.

Tuổi phối giống lần đầu tốt nhất cho lợn cái là bỏ 1-2 chu kỳ động dục đầu tiên
tuy nhiên cũng không nên phối giống muộn quá sẽ làm giảm khả năng sinh sản của
lợn nái.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến sự thành thục về tính
Giống
Các giống khác nhau thường có tuổi động dục về tính khác nhau. Các giống lợn
nội thành thục về tính sớm hơn lợn ngoại. Lợn nội thành thục về tính khi được 4-5
tháng tuổi, còn lợn ngoại là 6-7 tháng tuổi. Theo Golubec lợn Duroc thành thục về
tính lúc 207 ngày, trọng lượng đạt 73kg . Theo Trần Thế Thông lợn nái Móng Cái
thành thục về tính lúc 4 tháng 12 ngày, trọng lượng đạt 12kg. Các giống lợn nhỏ
thường thành thục sớm hơn lợn to . Ở cùng một giống thì gia súc cái thành thục về
tính sớm hơn gia súc đực.
Chế độ chăm sóc nuôi dưỡng
Chế độ nuôi dưỡng ảnh hưởng rất lớn tới tuổi thành thục về tính. Trong cùng
một giống những cá thể được nuôi dưỡng tốt hơn thì sẽ thành thục sớm hơn và
ngược lại. Theo Burger (1972), lợn nái trong điều kiện nuôi dưỡng tốt thì sẽ thành
thục về tính ở độ tuổi trung bình là 188,5 ngày, với trọng lượng 80 kg. Nhưng nếu
chúng ta cho lợn ăn hạn chế thì sẽ là 234,8 ngày, với trọng lượng 48,4 kg. Theo
Zimmerman, nếu dinh dưỡng tốt thì sẽ rút ngắn được thời gian thành thục về tính
từ 4-16 ngày so với mức chỉ đáp ứng được 60-70% nhu cầu dinh dưỡng.
Khi lợn bị cung cấp thiếu dinh dưỡng sẽ dẫn đến bị chậm động dục, còn nếu
thừa sẽ gây tích mỡ quanh buồng trứng và cơ quan sinh dục làm giảm chức năng


của chúng. Để lợn sinh trưởng và phát triển bình thường thì phải đảm bảo cung cấp
đầy đủ về nhu cầu năng lượng, protein, khoáng, vitamin... Nhu cầu dinh dưỡng
phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của lợn để chúng phát triển tốt nhất và
đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Thời tiết thời gian chiếu sáng
Nơi có nhiệt độ cao cùng với thời gian chiếu sáng dài hơn sẽ thành thục về tính

sớm hơn nơi nhiệt độ thấp, thời gian chiếu sáng ngắn hơn.
Nuôi nhốt
Mật độ nuôi nhốt sẽ ảnh hưởng đến sự thành thục về tính. Nếu nuôi nhốt quá
đông sẽ làm chậm động dục. Tuy nhiên nuôi lợn nái hậu bị tách biệt đàn cũng làm
chậm sự thành thục về tính. Như vậy lợn nái hậu bị cần được nuôi nhốt theo nhóm
thích hợp.
Khối lượng cơ thể
Cùng tuổi nhưng khối lượng cơ thể con nào lớn hơn thì thành thục sớm hơn.
Thường phối lần đầu khi khối lượng cơ thể đạt 75-80% so với khối lượng trưởng
thành. Nếu phối sớm khối lượng con mẹ bé sẽ đẻ khó, tỷ lệ hao hụt nhiều dẫn đến
nái dễ bị suy thoái. Mặt khác, khi phối sớm trứng rụng ít tỷ lệ sinh thấp. Do vậy,
người ta thường bỏ qua 1-2 chu kỳ đầu.
Sự kích thích của con đực
Sự kích thích của con đực cũng ảnh hưởng tới sự thành thục về tính của con cái
hậu bị. Những lợn cái mà hạn chế được tiếp xúc với đực thì động dục lần đầu chậm
hơn so với lợn cái được tiếp xúc với đực thường xuyên. Vì vậy nên thường xuyên
cho lợn đực tiếp xúc với lợn cái hậu bị.
Theo Hughes (1961) nếu cho lợn cái hậu bị tiếp xúc với đực 2 lần/ngày (15-20
phút/lần) thì 83% lợn cái sẽ động dục lúc 165 ngày tuổi.
Các yếu tố khác


Ngoài ra tuổi thành thục về tính còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như: khí hậu,
mùa vụ, bệnh tật, tính biệt, nề nếp thói quen, công tác quản lí chăm sóc.
1.2.2. Sự thành thục về thể vóc
Sự thành thục về thể vóc là tuổi mà gia súc có sự phát triển về ngoại hình và
thể vóc đạt đến mức độ hoàn chỉnh, xương đã cốt hóa hoàn toàn, tầm vóc ổn định.
Đây mới là thời điểm tốt nhất để con vật thực hiện các hoạt động sinh sản.Thời
gian thành thục về thể vóc thường chậm hơn thời gian thành thục về tính. Do đó,
cần chú ý trong chăn nuôi, không nên cho gia súc sinh sản quá sớm quá sẽ gây ảnh

hưởng đến chất lượng đời con sinh ra và gây hại cho sự phát triển hoàn thiện của
cơ thể lợn mẹ, nếu phối muộn quá thì làm mất hiệu quả kinh tế. Thời điểm thích
hợp nên cho phối là vào 7-8 tháng tuổi lúc đó khối lượng cơ thể đạt 40-50kg đối
với lợn nái nội, 8-9 tháng tuổi khối lượng đạt 100-110kg đối với lợn nái ngoại.
1.2.3. Chu kì tính và điều hòa chu kì tính
1.2.3.1. Chu kì tính
Là một quá trình sinh lý phức tạp sau khi toàn bộ cơ thể con nái đã phát
triển hoàn thiện đầy đủ. Lúc này, cơ thể đặc biệt là cơ quan sinh dục có hàng loạt
các biến đổi về hình thái và chức năng sinh lý. Các biến đổi đó được lặp đi lặp lại
nhiều lần có tính chất chu kì nên được gọi là chu kì tính. Chu kỳ tính được bắt đầu
khi cơ thể gia súc đã thành thục về tính, nó xuất hiện liên tục và chấm dứt khi cơ
thể già yếu.
Thời gian của một chu kì tính được tính lần rụng trứng trước đến lần rụng
trứng sau, chu kỳ động dục của lợn cái thường kéo dài từ 18-25 ngày, trung bình là
21 ngày, đây là thời gian đường sinh dục cái chuẩn bị cho chu kỳ tiếp theo. Lúc này
cơ quan sinh dục cái có sự biến đổi như: âm hộ, âm đạo, tử cung xung huyết; các
tuyến sinh dục tăng cường hoạt động, ở bên trong buồng trứng có quá trình noãn bào
thành thục, chín và rụng. Nắm vững chu kì sinh dục trong chăn nuôi để có thể phát


hiện chính xác hiện tượng động dục và rụng trứng, cho phối đúng thời điểm, nâng cao
tỉ lệ thụ thai, góp phần phát triển đàn lợn.
Mỗi chu kỳ tính của lợn nái được chia làm 4 giai đoạn: giai đoạn trước động
dục, giai đoạn động dục, giai đoạn sau động dục và giai đoạn yên tĩnh.
* Giai đoạn trước động dục (1-2 ngày)
Là giai đoạn đầu tiên của chu kì sinh dục. Ở giai đoạn này, đường sinh dục bắt
đầu có những biến đổi, xuất hiện đầy đủ các hoạt động về sinh lí. Trên buồng trứng
noãn bao phát triển nổi rõ trên bề mặt, ở ống dẫn trứng các vách thế bào tăng
cường sinh trưởng, hệ thống lông nhung phát triển, niêm mạc đường sinh dục xung
huyết nhẹ, hệ thống tuyến tăng cường tiết dịch, niêm dịch ở cổ tử cug tiết ra kích

thích cổ tử cug hé mở. Đến cuối giai đoạn này, noãn bao chín dần, tế bào trứng
tách ra ngoài, tử cung co bóp mạnh, cổ tử cung mở to ra, niêm dịch tiết ra nhiều
nhưng loãng, con vật bắt đầu xuất hiện hiện tượng động dục.
Biểu hiện bên ngoài: âm đạo sưng to, hơi mở ra, có màu đỏ hồng, không có
hoặc ít dịch nhày chảy ra, bỏ ăn hoặc ăn ít, kêu rít, thích nhảy lên lưng con khác
nhưng không cho con khác nhảy lên lưng.
* Giai đoạn động dục( 2-3 ngày)
Là giai đoạn mà các biến đổi cơ quan sinh dục thể hiện rõ nhất. Lúc này, âm hộ
sưng to, xung huyết rõ, niêm dịch tiết ra nhiều như keo dính, cổ tử cung tăng
cường co bóp, nhiệt độ âm hộ tăng 0,3-0,70C, pH âm đạo hạ hơn trước.
Biểu hiện của con vật hưng phấn cao độ, đứng nằm không yên, ăn uống giảm,
kêu rít, phá chuồng đi tìm con đực, luôn nhảy lên lưng con khác hoặc để con khác
nhảy lên lưng mình, khi gần đực thì luôn đứng ở tư thế sẵn sàng chịu đực: đuôi
cong lên và lệch sang một bên, hai chân sau dạng ra và khụy xuống sẵn sàng cho
con đực nhảy. Bên trong cổ tử cung đã hé mở và co bóp mạnh, âm hộ chuyển sang
màu mận chín có dịch nhờn chảy ra. Phối ở giai đoạn này sẽ cho hiệu quả thụ thai
cao nhất. Nếu trứng rụng được thụ tinh thì lợn nái chuyển sang giai đoạn có chửa,


chu kì sinh dục sẽ xuất hiện trở lại sau khi đẻ xong một thời gian nhất định thì chu
kỳ mới xuất hiện lại. Sau khi trứng rụng mà không được thụ tinh thì chuyển sang
giai đoạn tiếp theo.
* Giai đoạn sau động dục( 3-4 ngày)
Ở giai đoạn này, cơ quan sinh dục dần dần trở về trạng thái sinh lý bình thường.
Trên buồng trứng thể vàng đã xuất hiện và tiết ra progesteron tác động lên tuyến
yên làm giảm tiết oestrogen từ đó làm giảm hưng phấn của con vật. Các biểu hiện
hoạt động sinh dục giảm dần, niêm mạc đường sinh dục ngừng tăng sinh, các tuyến
ở tử cung không tiết niêm dịch, mọi phản xạ sinh dục giảm dần, âm hộ teo dần về
trạng thái bình thường, con vật chịu ăn uống và trở nên yên tĩnh hơn.
* Giai đoạn yên tĩnh( 12-14 ngày)

Con vật hoàn toàn không có phản xạ sinh dục, cơ quan sinh dục trở lại bình
thường, yên tĩnh và ăn uống bình thường, hoàn toàn không có phản xạ với con đực.
Trong buồng trứng, thể vàng bắt đầu teo đi, noãn hoàng bắt đầu phát triển nhưng
chưa nổi rõ trên bề mặt buồng trứng.
Trong chăn nuôi cần quan tâm đến chu kỳ động dục để phát hiện sớm và
phối giống phù hợp. Phối sớm quá hoặc muộn quá đều ảnh hưởng đến tỷ lệ thụ
thai. Nếu phối giống 1 lần thì nên phối giống trong khoảng thời gian 24 -

30

giờ sau khi lợn bắt đầu chịu đực. Nếu phối giống 2 lần thì lần 1 từ 15 - 20 giờ, lần
2 từ 24 - 36 giờ kể từ khi lợn bắt đầu chịu đực.
1.2.3.2. Sự điều hòa chu kì tính
Chu kì tính được điều hòa qua cơ chế điều hòa ngược dưới sự điều khiển: Hệ
thần kinh và thể dịch, với sự tham gia vùng dưới đồi, tuyến yên, buồng trứng điều
khiển mọi hoạt động sinh lý, sinh dục của lợn nái.
Dưới tác động của các yếu tố ngoại cảnh như, não bộ tác động lên vùng dưới
đồi (hypothalamus) giải phóng ra kích dục tố GnRH (Gonadotropine Release
hormone). GnRH kích thích thùy trước tuyến yên sản xuất ra các hormone FSH


(Follicle Stimulating Hormone: Kích thích bao noãn phát triển, tiết ra oestrogen),
LH (Luteinizing Hormone: Làm trứng chín và rụng, hình thành nên thể vàng) và
Prolactin (Thúc đẩy tiết sữa, kích thích hoạt động thể vàng tiết Progesteron, thúc
đẩy bản năng làm mẹ).
Thể vàng được hình thành sau khi rụng trứng và sản sinh ra hormone
progesteron, hormone này cùng với estrogen thúc đẩy sự tăng sinh lớp nội mạc tử
cung chuẩn bị đón hợp tử. Progesteron duy trì quá trình mang thai, kích thích tuyến
vú phát triển và ức chế tuyến yên tiết FSH và LH. Khi con cái động dục thì nồng
độ hormone ostradiol và LH tăng lên rất cao còn progesteron lại giảm rất thấp. Sau

khi kết thúc quá trình động dục thì ngược lại progesteron tăng dần và hai hormone
trên có xu hướng giảm đi. Nồng độ progesteron tăng đạt đỉnh tối đa sau động dục
lúc 13-14 ngày, sau giảm rất nhanh do thể vàng teo biến, khi đó không còn ức chế
thùy trước tuyến yên tiết FSH và LH, nồng độ của hai hormone này cũng như
estrogen tăng lên để chuẩn bị cho lần động dục sau. Nếu trứng được thụ tinh thì thể
vàng tồn tại suốt thời gian mang thai, nó sinh ra Progesteron tác động ngược trở lại
tuyến yên làm ngừng FSH và LH làm cho trứng không chín, gia súc ngừng động
dục đến khi đẻ và sau khi cai sữa thì động dục trở lại. Nếu trứng không được thụ
tinh thì sau 15 ngày thể vàng tiêu biến bởi tác động của Prosglandine do sừng tử
cung tiết ra. Một chu kì mới lại được bắt đầu.
1.2.4. Quá trình thụ tinh
Quá trình thụ tinh là quá trình sinh lí phức tạp của tế bào trứng và tế bào tinh
trùng đã hoàn toàn thành thục và còn khả năng thụ thai. Sau khi tế bào tinh trùng
được đưa vào đường sinh dục của con cái. Nhờ các đặc tính và sự tác động của
niêm dịch đường sinh dục cái cộng với sự hấp dẫn bởi chất nữ bào tố Fertilizin,
giúp cho tinh trùng vận động tiến thẳng đến vị trí thụ tinh để gặp trứng. Chúng sẽ
bao vây lấy tế bào trứng tiết men để lần lượt xuyên qua màng phóng xạ, màng
trong suốt và màng nguyên sinh chất để vào nhân. Khi đầu tinh trùng chạm được


vào màng nguyên sinh chất, nó sẽ mở màng nguyên sinh chất ra sau đó đóng lại
đồng thời tiêu diệt hết tinh trùng còn lại. Sau khi vào nguyên sinh chất của tế bào
trứng nó sẽ bộc lộ nhân. Chúng gặp nhau phát sinh các phản ứng đồng hóa và dị
hóa để tạo thành một tế bào sống mới mang một nửa NST của bố, một nửa NST
của mẹ.
1.2.5. Quá trình sinh trưởng phát triển của bào thai
Sau khi trứng được thụ tinh, hợp tử hình thành và phát triển qua 3 thời kỳ:
* Thời

kỳ phôi thai (từ ngày thứ 1- 22)

Sau khi trứng và tinh trùng gặp nhau ở 1/3 phía trên ống dẫn trứng, tại đây

diễn ra quá trình thụ tinh. Trứng được thụ tinh hình thành hợp tử, 1 – 3 ngày sau
khi thụ tinh hợp tủ di chuyển về hai bên sừng tử cung và làm tổ ở đó, trong sừng
tử cung hợp tử lại tiếp tục phân chia thành hàng trăm tế bào phôi.
Túi phôi được hình thành sau đó 5 - 6 ngày, túi phôi chứa chất lỏng. Màng
ối hình thành sau 7 - 8 ngày, đây là màng ngoài cùng bao bọc lấy bào thai trong
có chứa dịch ối. Dịch ối có tác dụng giúp cho bào thai nằm thoải mái, đệm đỡ
cho bào thai không bị va chạm với các cơ quan xung quanh của cơ thể lợn mẹ.
Màng niệu được hình thành sau khoảng 10 ngày, là màng giữa có chứa dịch
niệu, chứa nước tiểu của bào thai, chứa kích tố nhau thai, trong dịch niệu cũng
chứa một số chất dinh dưỡng cung cấp cho bào thai.
Màng đệm được hình thành sau khoảng 12 ngày là màng ngoài cùng tiếp giáp
với niêm mạc tử cung của lợn mẹ, trên bề mặt của màng đệm có nhiều lông nhung
để hút các chất dinh dưỡng từ cơ thể lợn mẹ. Cuối thời kỳ này thì trọng lượng của
phôi đạt 1 – 2g, hình dáng và các cơ quan bộ phận như: đầu, hố mắt, tim, gan được
hình thành nhưng chưa hoàn chỉnh, sự gắn kết giữa cơ thể mẹ và bào thai chưa
chắc chắn nên dễ bị sảy thai. Như vậy người chăn nuôi cần phải có kỹ thuật chăm
sóc phải cẩn thận và tỉ mỉ. Những yếu tố ngoại cảnh như: ô nhiễm, dinh dưỡng,
môi trường nuôi quá ô nhiễm…đều ảnh hưởng rất lớn đến phôi thai.


*Thời kỳ tiền thai (từ ngày thứ 23 – 39)
Đặc điểm của thời kỳ này là phôi phát triển mạnh dần, bắt đầu hình thành nhau
thai, mối liên hệ giữa phôi thai và tử cung chắc chắn hơn, ít xáy ra hiện tường xảy
thai. Các khí quan hình thành rõ rệt. Cuối thời kỳ này khối lượng thai đạt 6 – 7g.
*Thời kỳ bào thai (từ ngày thứ 40 đến khi đẻ, 114 ngày)
Ở thời kỳ này quá trình trao đổi chất của bào thai diễn ra mạnh mẽ nhất để
hoàn thành nốt những bộ phận còn lại như: da, lông, răng, thể hiện đặc điểm của
giống. Thai phát triển mạnh nhất ở 30 ngày trước đẻ. Khối lượng bào thai tăng lên

ở tháng cuối cùng trước đẻ có thể chiếm 2/3 hoặc 3/4 so với khối lượng bào thai.
Đến cuối thời kỳ, mỗi thai nặng khoảng 1300 – 1400g. Khi các cơ quan đã phát
triển hoàn chỉnh thì cơ thể mẹ đẩy thai ra ngoài.
Trong thực tế để áp dụng kỹ thuật nuôi dưỡng chăm sóc, người ta chia giai
đoạn chửa thành 2 kỳ: 84 ngày đầu là chửa kỳ 1, 30 ngày sau là chửa kỳ 2. Cần chú
ý việc nuôi dưỡng chăm sóc nái chửa kỳ 2, cần cung cấp thức ăn có chất lượng tốt,
khẩu phần được chia nhỏ để tránh sự chèn ép gây ảnh hưởng tới thai.
1.3. KHẢ NĂNG SINH SẢN CỦA LỢN NÁI
1.3.1. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái
Năng suất sinh sản của lợn nái được cấu thành bởi nhiều yếu tố, do đó cũng có
nhiều chỉ tiêu để đánh giá năng suất sinh sản của lợn nái. Nhưng người ta thường
quan tâm đến 1 số chỉ tiêu quan trọng về năng suất mà qua đó có thể đánh giá được
khả năng cũng như năng suất sinh sản của lợn nái.
Theo Trần Đình Miên và cs (1997), việc tính toán khả năng sinh sản của lợn
nái cần xét đến các chỉ tiêu như chu kì động dục, tuổi thành thúc về tính, tuổi có
khả năng sinh sản, thời gian chửa và số con đẻ/lứa.
Mabry et al. (1997) cho rằng: các tính trạng năng suất sinh sản chủ yếu của
lợn nái bao gồm: số con sơ sinh/ổ, số con cai sữa/ổ, khối lượng toàn ổ ở 21 ngày


tuổi và số lứa đẻ ra/nái/năm. Các tính trạng này ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của
người chăn nuôi lợn nái.
*Nhóm chỉ tiêu về sinh lý sinh dục của lợn nái
Tuổi động dục lần đầu:
Được tính từ khi sơ sinh đến khi lợn nái hậu bị xuất hiện động dục lần đầu
tiên. Các giống khác nhau thì tuổi động dục khác nhau, lợn nội có tuổi động dục
sớm hơn lợn ngoại.
Tuổi động dục lần đầu chịu ảnh hưởng bởi chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc,
quản lý và tuổi động dục lần đầu cũng ảnh hưởng lớn đến tuổi phối giống lần đầu
nên ảnh hưởng lớn đến thành tích sinh sản của con cái.

Tuổi phối giống lần đầu:
Tuổi phối giống lần đầu sớm hay muộn đều ảnh hưởng đến khả năng sản
xuất của lợn nái, nên phối giống lần đầu cho lợn ở lần động dục thứ 2,3 là tốt nhất,
khi đó khối lượng của nái đạt khoảng 100-110kg. Đối với lợn cái phối giống lần
đầu nên phối giống trực tiếp là tốt nhất. Cần xác định chính xác thời điểm mê ì ở
lợn cái hậu bị để cho phối giống ngay. Sau đó phối lại lần thứ 2 cách lần đầu 10-12
giờ. Phối vào sáng sớm, chiều muộn.
Tuổi đẻ lứa đầu:
Là khoảng thời gian tính từ sơ sinh đến khi đẻ lứa đầu tiên, phụ thuộc vào tuổi
phối giống lần đầu, kết quả phối giống, thời gian mang thai, giống. Nếu tuổi phối
giống lần đầu sớm thì tuổi đẻ lứa đầu sớm. Lợn nội thì tuổi đẻ lứa đầu sớm hơn lợn
ngoại
Thời gian mang thai:
Thời gian mang thai của lợn là một chỉ tiêu sinh lý sinh sản của lợn. Thời gian này
dao động từ 110 – 117 ngày, trung bình 114 ngày.
Thời gian chờ phối:
Là thời gian động dục trở lại sau khi cai sữa và phối giống có kết quả, thời


gian chờ phối phụ thuộc vào giống lợn, thể trạng, điều kiện dinh dưỡng và thời
gian cai sữa lợn con.
Khoảng cách lứa đẻ:
Là khoảng thời gian lợn đẻ lứa trước đến khi lợn đẻ lứa tiếp theo hay bằng
tổng thời gian mang thai, thời gian nuôi con và thời gian chờ phối. Nếu khoảng
cách lứa đẻ ngắn thì hệ số lứa đẻ của nái/năm tăng lên. Trong ba yếu tố thì thời
gian mang thai thường cố định hoặc biến đổi rất nhỏ nên khoảng cách hai lứa đẻ
phụ thuộc vào thời gian nuôi con và thời gian chờ phối. Hiện nay đã áp dụng cai
sữa sớm cho lợn con ở 21 ngày tuổi và cho lợn nái ăn theo chế độ phù hợp để rút
ngắn thời gian động dục trở lại sau cai sữa.
Số lứa đẻ/nái/năm:

Công thức tính:
Số lứa đẻ/nái/năm =
*Nhóm chỉ tiêu về năng suất sinh sản của lợn nái
Số con sơ sinh/ổ:
Là tổng số con đẻ ra trên ổ bao gồm cả số con sống, số con chết, số thai chết
và thai gỗ. Số con đẻ ra/ổ khác nhau qua các lứa đẻ, tăng lên ở lứa 2, tương đối ổn
định ở các lứa tiếp theo và giảm dần từ lứa 6-7.
Chỉ tiêu này đánh giá khả năng nuôi thai của lợn nái và kỹ thuật nuôi dưỡng,
chăm sóc, quản lý của người chăn nuôi.
Số con sơ sinh sống/ổ:
Là số con sơ sinh sống đến 24 giờ kể từ khi lợn mẹ đẻ xong con cuối cùng,
không tính những con có khối lượng dưới 0,2 kg đối với lợn nội 0,5 kg đối với lợn
ngoại.
Chỉ tiêu này đánh giá khả năng đẻ nhiều hay ít của lợn nái, kĩ thuật chăm sóc
lợn nái chửa, kĩ thuật thụ tinh, chất lượng tinh của đực giống.
Tỷ lệ sơ sinh sống đến 24h sau khi đẻ:


Tỷ lệ sơ sinh sống đến 24h sau đẻ được tính như sau:
Tỷ lệ sơ sinh sống (%) =
Tỷ lệ này không đảm bảo được 100% do nhiều nguyên nhân như lợn con chết
khi đẻ ra, thai gỗ, thai non…
Số con để nuôi (con)
Là số con còn lại sau khi đã loại bỏ những con quá nhỏ và ghép loại thải, số
con gửi nuôi.
Số con để nuôi (con) = Số con sống đến 24 giờ - Số con loại thải ± Số con
gửi nuôi
Khối lượng sơ sinh/ổ:
Là khối lượng toàn ổ cân được sau khi lợn con sinh ra được lau khô, cắt rốn
và chưa bú sữa đầu. Chỉ tiêu này cho chúng ta biết được đặc điểm về giống và khả

năng nuôi thai của lợn mẹ
Khối lượng sơ sinh/con:
Là khối lượng từng con sau khi lợn con sinh ra được lau khô, cắt rốn và chưa
bú sữa đầu. Chỉ tiêu này cho ta biết được khả năng nuôi thai cũng như mức độ
đồng đều của lợn sơ sinh.
Khối lượng cai sữa/ổ:
Khối lượng của toàn ổ cân lúc cai sữa, chỉ tiêu này đánh giá khả năng nuôi con
của lợn mẹ, kỹ thuật chăm sóc lợn con theo mẹ của người chăn nuôi.
Khối lượng cai sữa/con:
Khối lượng của từng con lúc cai sữa, chỉ tiêu này đánh giá khả năng sinh
trưởng của từng con và khả năng nuôi con của lợn mẹ.
Số con cai sữa/ổ (con)
Là số con còn sống nuôi đến cai sữa mẹ, thời gian cai sữa tùy thuộc vào kỹ
thuật chăn nuôi lợn con bú sữa, khả năng tiết sữa và khả năng nuôi con của lợn mẹ.


Đây là chỉ tiêu kinh tế quan trọng đánh giá chính xác khả năng sinh sản của lợn
nái. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng nuôi con khéo của nái, sức sống của lợn con
theo mẹ và kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng của người chăn nuôi.
Tỷ lệ cai sữa (%)
Là tỷ lệ số con còn sống nuôi đến khi cai sữa. Chỉ tiêu này quyết định hiệu
quả chăn nuôi, tỷ lệ cai sữa càng cao thì hiệu quả chăn nuôi càng cao.
Tỷ lệ cai sữa (%) =
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái
1.3.2.1. Yếu tố di truyền
Giống là nhân tố di truyền quan trọng liên quan tới các chỉ tiêu sinh sản của
lợn nái (Đặng Vũ Bình, 1999), (Trần Tiến Dũng và cs, 2002). Giống khác nhau thì
sinh sản khác nhau.
Theo Legault (trích từ Rothschild và cộng sự, 1998), căn cứ vào khả năng sinh
sản và sức sản xuất thịt, các giống lợn được chia làm bốn nhóm chính như sau:

+ Các giống đa dụng như: Yorkshire, Landrace và một số dòng nguyên
chủng được xếp vào loại có khả năng sản xuất thịt và sinh sản khá.
+ Các giống chuyên dụng “dòng bố” như Pietrain, Duroc có khả năng sinh
sản trung bình nhưng khả năng sản xuất thịt cao.
+ Các giống chuyên dụng “dòng mẹ” như Yorkshire, Landarce, đặc biệt một
số giống chuyên sản của Trung Quốc như Taihu (điển hình là Meishan) có khả
năng sinh sản đặc biệt cao nhưng khả năng cho thịt kém.
+ Các giống địa phương có đặc tính chung là khả năng sinh sản và sức sản
xuất thịt kém, song có khả năng thích nghi tốt với môi trường.
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của giống đến năng suất sinh sản của lợn nái,
Schimidin (1980) đã đưa ra kết quả sau:
Bảng 1.1. Năng suất sinh sản của một số giống lợn nái
Chỉ tiêu

Số con cai sữa/ổ

Số con cai sữa/nái/năm


Landrace
Yorkshire
LxY
YxL

10,64
10,25
9,96
10,80

21,4

20,9
21,3
22,1

Nguồn: Schimidin (1980)
Phương pháp nhân giống : Phương pháp nhân giống cũng ảnh hưởng rất rõ
rệt đến năng suất sinh sản của lợn nái. Nhân giống gồm có nhân giống thuần chủng
và lai giống.
Hệ số di truyền cũng là yếu tố ảnh hưởng tới năng suất sinh sản của lợn nái.
Schmitten, 1988 đưa ra hệ số di truyền với các tính trạng sau :
Bảng 1.2. Hệ số di truyền của một số tính trạng sinh sản
(Schmitten, 1988)
Chỉ tiêu

h2

Tỷ lệ rụng trứng

0,30

Số con đẻ ra/lứa

0,09

Số con đẻ ra sống/ lứa

0,09

Số con đẻ ra chết/lứa


0,05

Số con để lại nuôi/lứa

0,08

Thời gian phối giống lại sau cai sữa

0,20

Khối lượng sơ sinh/lứa

0,20
Nguồn :Schmitten (1988)

Các tính trạng về năng suất sinh sản thường có hệ số di truyền thấp, vì vậy
cần sử dụng phương pháp lai giống để tạo ưu thế lai ở những tính trạng mong
muốn. Phương pháp nhân giống khác nhau sẽ cho năng suất khác nhau.
1.3.2.2. Các yếu tố ngoại cảnh
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái như: chế độ nuôi


dưỡng, tuổi, khối lượng phối, phương thức phối, lứa đẻ, mùa vụ, nhiệt độ môi
trường, bệnh tật,...(Martinez Gamba, 2000).
Chế độ nuôi dưỡng
Để đảm bảo khả năng sinh sản của lợn nái thì một trong những yếu tố quan
trọng đó là dinh dưỡng. Lợn nái và lợn cái hậu bị có chửa cần được cung cấp đủ về
số và chất lượng các chất dinh dưỡng để có kết quả sinh sản tốt.
Theo Nguyễn Quế Côi và Nguyễn Thanh Sơn (2006), khẩu phần ăn dành cho
lợn nái mang thai như sau:

Bảng 1.3. Thức ăn dành cho lợn nái mang thai
Giai đoạn mang thai
Từ phối giống đến 84 ngày
Từ ngày thứ 85 đến ngày thứ 110
Từ ngày thứ 111 đến ngày thứ 113
Từ ngày thứ 114 đến ngày đẻ

Lượng thức ăn/con/ngày (kg)
Lợn gầy
Lợn
bình Lợn béo
thường
2,5
2,0
1,8
3,0
2,5
2,5
2,0
2,0
2,0
Cho ăn ít hoặc không cho ăn, uống nước tự do

Chế độ dinh dưỡng bao gồm dinh dưỡng năng lượng, dinh dưỡng Protein,
ảnh hưởng của khoáng chất, nguyên tố đa lượng, vi lượng và ảnh hưởng của
Vitamin.
Vitamin:
Vitamin cần thiết khi sự chuyển hóa bình thường cho sự phát triển của các mô
bào, cho sức khỏe, sinh trưởng và duy trì. Nếu vitamin A dẫn tới mù, năng xuất
sinh sản thấp, tốc độ sinh trưởng giảm, chết phôi, chết non, thai phát triển kém, sảy

thai. Vitamin D có hai loại tốt với lợn là vitamin D2 và D3, cũng như thiếu Ca, P
thiếu vitamin D thì lợn con sinh ra sẽ còi cọc, lợn nái sẽ bị bại liệt trước và sau khi
đẻ, chất lượng và số lượng sữa cũng kém. Thiếu vitamin B 1 dẫn tới lợn con bị phù,
viêm dây thần kinh yếu, co giật, bại liệt tứ chi. Thiếu vitamin C làm giảm sức đề
kháng của cơ thể, vi khuẩn dễ xâm nhập và gây bệnh. Thiếu vitamin E ở giai đoạn


có chửa có thể dẫn tới chết phôi, lợn đẻ ra không hoàn thiện, giai đoạn tiết sữa lợn
con sẽ kém phát triển, hoạt động của cơ kém nhịp nhàng, nhạy cảm với đau đớn, dễ
bị sốc.
Khoáng chất:
Khoáng gồm có hai loại là khoáng đa lượng (Ca, P, K, Na, Cl...) và khoáng vi
lượng (Cu, Fe, Zn, Mg, Mn...). Khi thiếu khoáng đa lượng làm xương chi phát triển
không bình thường, xương thai phát triển kém. Thiếu khoáng vi lượng lợn bị thiếu
máu, giảm sức đề kháng. Cần chú ý đến nhu cầu khoáng chất của lợn nái, không
tùy tiện bổ sung quá mức sẽ gây trở ngại cho việc hấp thu các chất dinh dưỡng
khác.
Năng lượng:
Việc cung cấp năng lượng phải phù hợp với từng giai đoạn của lợn nái, ngoài
việc đảm bảo khả năng sinh sản của lợn nái còn nâng cao hiệu quả về kinh tế.
Cung cấp thừa hay thiếu đều ảnh hưởng không tối . Ngoài ra định mức ăn của nái
còn phải căn cứ vào thể trạng béo hay gầy để có chế độ ăn hợp lý. Nếu thừa sẽ làm
cho lợn mẹ quá béo, làm tăng tỷ lệ chết phôi và khả năng sinh sản giảm. Nếu thiếu
năng lượng lợn mẹ sẽ gầy, chậm động dục trở lại, lợn con bé, chậm lớn.
Kết quả thực nghiệm của Anderson (1967) cho thấy: mức ăn hạn chế về năng
lượng đã làm tuổi thành thục về tính dục chậm 16 ngày so với các mức ăn khác và
tập trung mức năng lượng cao vào thời điểm từ 1-14 ngày trước phối giống sẽ cho
số trứng rụng tăng lên.
Protein:
Protein là thành phần quan trọng trong khầu phần ăn của lợn, là thành phần

không thể thay thế và cần thiết cho mọi hoạt động trao đổi chất của cơ thể, tham
gia cấu tạo nên các mô trong cơ thể cũng như tạo ra sản phẩm. Do Protein tham gia
vào cấu tạo hoạt động trao đổi chất nên hàng ngày luôn có một lượng Protein mất
đi.


Mùa vụ
Mùa vụ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái.
Gaustad -Aas và cộng sự (2004), cho biết mùa vụ có ảnh hưởng đến số con đẻ ra/ổ.
Mùa có nhiệt độ cao là nguyên nhân làm kết quả sinh sản ở lợn nái nuôi chăn thả
thấp, tỷ lệ chết ở lợn con cao. Theo Quiniou và cộng sự (2000), nhiệt độ cao làm
lợn nái thu nhận thức ăn thấp, tỷ lệ hao hụt lợn nái tăng và tỷ lệ động dục trở lại
sau cai sữa giảm.
Tỷ lệ thụ thai bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ và mùa vụ. Lợn nái phối giống vào
các tháng nóng có tỷ lệ thụ thai thấp, làm tăng số lần phối giống, giảm khả năng
sinh sản từ 5 - 20%. Stress nhiệt có thể làm giảm tỷ lệ thụ thai tới 20%, giảm số
phôi sống 2% và do đó làm giảm thành tích sinh sản của lợn nái (Peltoniemi và
cộng sự, 2000).
Tuổi và khối lượng phối giống lần đầu
Để tiến hành phối giống lần đầu thì lợn cái hậu bị phải thành thục cả về tính
và thể vóc. Nhìn chung trong chăn nuôi lợn nái, tuổi phối giống lần đầu càng sớm
càng tốt vì sẽ giảm được chi phí trong chăn nuôi.
Nếu tuổi và khối lượng phối giống lần đầu quá sớm hay quá muộn, quá thấp
hay quá cao đều ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái. Nếu quá sớm thì cơ
thể con vật chưa phát triển hoàn thiện, khả năng sinh sản còn kém, số lượng trứng
rụng ít, tỷ lệ thụ thai kém. Nếu muộn quá sẽ làm giảm hiệu quả kinh tế, đây là điều
không mong muốn.
Lứa đẻ
Là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái, khả năng
sinh sản của lợn nái thường thấp ở lứa đẻ thứ nhất, tăng dần qua các lứa rồi ổn định

và giảm dần từ lứa 6-7. Số con đẻ ra/ổ liên quan chặt chẽ đến tuổi của lợn nái và
giảm nhanh sau 4-5 tuổi.
Bảng 1.4. Ảnh hưởng của lứa đẻ tới số con sơ sinh


( Phạm Hữu Doanh và Lưu Kỷ, 2004)
Lứa đẻ
Năm thứ nhất
Năm thứ hai
Năm thứ ba
Năm thứ tư
Năm thứ năm

Lứa 1
Lứa 2
Lứa 3
Lứa 4
Lứa 5
Lứa 6
Lứa 7
Lứa 8
Lứa 9

Số con sinh ra (con)
7–8
9 – 10
9 – 11
9 – 11
9 – 11
9 – 10

8–9
8
8

Kỹ thuật phối giống, số lần và phương thức phối
Kỹ thuật phối giống ảnh hưởng đến số lượng con/lứa. Chọn thời điểm phối
giống hợp lý làm tăng tỷ lệ thu thai và số con sinh ra.
Có hai phương pháp phối giống: trực tiếp và thụ tinh nhân tạo. Lần đầu phối
người ta thường cho nhảy trực tiếp, nhưng đến các lần tiếp theo lại sử dụng phương
pháp thụ tinh nhân tạo. Mỗi phương pháp sử dụng đều có những ưu và nhược điểm
khác nhau. Khi cho phối trực tiếp thì làm tăng khả năng thụ thai, tuy nhiên số
lượng lợn nuôi nhiều gây tốn kém. Còn về thụ tinh nhân tạo rẻ hơn, nhanh, thụ tinh
trên nhiều nái hơn, nhưng sẽ làm giảm tỷ lệ thụ thai.
Số lần phối giống trong một lần động dục ở nái ảnh hưởng tới số con sơ
sinh/ổ. Theo Clark and Leman (dẫn từ Ian Gordon, 1997), cho biết phối đơn trong
một chu kỳ động dục ở lúc động dục cao nhất có thể làm tăng số con sơ sinh/ổ,
nhưng phối hai lần trong một chu kì động dục làm tăng số con sơ sinh/ổ.
Theo Anon (dẫn từ Ian Gordon, 1997), phối nhân tạo kết hợp với nhảy trực
tiếp có thể làm tăng 0,5 con so với phối riêng lẻ.
Thời gian cai sữa
Là yếu tố ảnh hường rất lớn tới năng suất sinh sản của lợn nái do liên quan tới
số lứa hàng năm và một phần liên quan tới số con đẻ ra mỗi lứa. Để rút ngắn thời


×