Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG HỆ THỐNG THỦY NÔNG PHỤC VỤ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN VĂN GIANG, TỈNH HƯNG YÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 80 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA MÔI TRƯỜNG
------------------------&---------------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG HỆ THỐNG THỦY
NÔNGPHỤC VỤ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TẠI HUYỆN VĂN GIANG, TỈNH HƯNG YÊN”

Người thực hiện

: ĐÀO XUÂN GIANG

Lớp

: MTB

Khóa

: 57

Ngành

: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG

Giáo viên hướng dẫn : ThS. NGÔ THỊ DUNG

HÀ NỘI - 2016



HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA MÔI TRƯỜNG
------------------------&---------------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG HỆ THỐNG THỦY
NÔNGPHỤC VỤ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TẠI HUYỆN VĂN GIANG, TỈNH HƯNG YÊN”

Người thực hiện

: ĐÀO XUÂN GIANG

Lớp

: MTB

Khóa

: 57

Chuyên ngành

: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG

Giáo viên hướng dẫn : ThS. NGÔ THỊ DUNG
Địa điểm thực tập

HÀ NỘI - 2016

2

: Phòng NN&PTNT huyện Văn Giang

2
2


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

GIẤY XÁC NHẬN
Kính gửi: Khoa Môi trường – Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam
Được sự giới thiệu của khoa Môi trường – Học Viện Nông
Nghiệp Việt Nam, phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Văn
Giang đã tiếp nhận sinh viên Đào Xuân Giang – lớp MTBK57 về thực tập tại
phòng từ ngày 18/2/2016 – 31/4/2016 với đề tài “Đánh giá hiện trạng hệ
thống thủy nôngphục vụ sản xuất nông nghiệp tại huyện Văn Giang, tỉnh
Hưng Yên” .
Trong thời gian thực tập, mọi người trong phòng đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để sinh viên Đào Xuân Giang hoàn thành tốt đợt thực tập.
Qua quá trình thực tập và nghiên cứu của sinh viên Đào xuân Giang,
cán bộ và nhân viên của phòng có những nhận xét và đánh giá như sau: Sinh
viên đã tích cực học hỏi, tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thành tốt đề tài, đồng
thời chấp hành tốt các nội quy, quy chế của phòng, có quan hệ tốt, thân thiện
với tập thể cán bộ, nhân viên trong phòng.
Vậy phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Văn Giang xác
nhận và kính đề nghị khoa Môi Trường – Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam tạo
mọi điều kiện để sinh viên Đào Xuân Giang hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp.
Hưng Yên, Ngàytháng


năm 2016

XÁC NHẬN CỦA PHÒNG NN&PTNN

3

3
3


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ
trợ từ giáo viên hướng dẫn là ThS. Ngô Thị Dung. Các nội dung nghiên cứu
và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
cứ công trình nghiên cứu nào trước đây.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận này đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước Hội đồng cũng như kết quả khóa luận của mình.

Hà Nội, ngày

tháng năm 2016

Sinh viên

Đào Xuân Giang


4

4


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình điều tra nghiên cứu để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp,
ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được sự quan tâm giúp đỡ
của các thầy cô giáo và các cán bộ nhân viên phòng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn và nhân dân huyện Văn Giang, nơi tôi thực tập.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn là ThS. Ngô
Thị Dung đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập.
Khóa luận này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự giúp đỡ
của cán bộ, nhân viên phòng nông nghiệp phát triển nông thôn và nhân dân
huyện Văn Giang. Qua đây tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến họ đã
nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp những thông tin cần thiết để tôi có thể hoàn thành
khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Sinh viên

Đào Xuân Giang


5

5


MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

6

QL

Quản lí

BHH

Bắc Hưng hải

BQ

Bình quân

TTCN

Tăng trưởng công nghiệp

KTCTTL


Khai thác công trình thủy lợi

TBVG

Tây Bắc Văn Giang

ĐBVG

Đông Bắc Văn Giang

CTTNHHMTV

Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên

HTXDVNN

Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp

PTNT

Phát triển nông thôn

HTX

Hợp tác xã

TBH

Tam Bá Hiển


TT

Thị trấn

BOD5

Nhu cầu oxy sinh hóa

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

6


DANH MỤC BẢNG

7

7


DANH MỤC HÌNH

8

8


MỞ ĐẦU

Tính cấp thiết của đề tài
Tài nguyên nước là thành phần chủ yếu của môi trường sống, quyết
định sự thành công trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Hiện nay nguồn tài nguyên
thiên nhiên quan trọng này đang phải đối mặt với nguy cơ ô nhiễm và cạn
kiệt. Nhu cầu phát triển kinh tế nhanh với mục tiêu lợi nhuận cao, con người
đã cố tình bỏ qua các tác động đến môi trường một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp. Nguy cơ thiếu nước, đặc biệt là nước ngọt và nước sạch là một hiểm họa
lớn đối với sự tồn vong của con người cũng như toàn bộ sự sống trên trái đất.
Dođó con người cần phải nhanh chóng có các biện pháp bảo vệ và sử dụng
hợp lý nguồn tài nguyên nước.
Trong nông nghiệp: Tất cả các cây trồng và vật nuôi đều cần nước để
phát triển.Từ một hạt cải bắp phát triển thành một cây rau thương phẩm cần
25 lít nước; lúa cần 4.500 lít nước để cho ra 1 kg hạt. Dân gian ta có câu:
“Nhất nước, nhìphân, tam cần, tứ giống”, qua đó chúng ta có thể thấy được
vai trò của nước trong nông nghiệp. Theo FAO, nước tưới và phân bón là hai
yếu tố quyết định hàng đầu là nhu cầu thiết yếu, đồng thời còn có vai trò điều
tiết các chế độ nhiệt, ánh sáng, chất dinh dưỡng, vi sinh vật, độ thoáng khí
trong đất, làm cho tốc độ tăng sản lượng lương thực vượt qua tốc độ tăng dân
số thế giới. Đối với Việt Nam, nước đã cùng với con người làm lên nền Văn
minh lúa nước tại châu thổ sông Hồng – các nôi Văn minh của dân tộc, của
đất nước, đã làm nên các hệ sinh thái nông nghiệp có năng xuất và tính bền
vững vào loại cao nhất thế giới, đã làm nên một nước Việt Nam có khối lượng
xuất khẩu gạo đứng nhất nhì thế giới hiện nay (Lê Quốc Tuấn, 2013).
Văn Giang là huyện nằm ở phía tây bắc tỉnh Hưng Yên, phía bắc và tây
bắc giáp thành phố Hà Nội, phía nam giáp huyện Khoái Châu, huyện Văn
Lâm, phía đông giáp huyện Yên Mỹ, phía tây giáp tỉnh Hà Tây, có 11 đơn vị
hành chính, gồm 10 xã và 1 thị trấn với tổng diện tích 71,79 km 2. Trong đó
9


9


đất nông nghiệp có hơn 5.021 héc ta, dân số hiện nay có gần 104 nghìn người.
Đến nay đã chuyển đổi đất trồng lúa sang đất trồng cây ăn quả, cây cảnh, hoa
và cây có giá trị kinh tế cao là 1.980 héc ta (chỉ còn 1.530 héc ta đất trồng lúa
nước). Trong sản xuất nông nghiệp, hệ thống thủy nông đóng vai trò hết sức
quan trọng, giúp vận chuyển và điều hòa nguồn nước cho cây phát triển tốt
nhất. Để tìm hiểu sâu về tình hình hoạt động, quản lí và các vấn đề liên quan
của hệ thống này, em thực hiện đề tài:
“Đánh giá hiện trạng hệ thống thủy nôngphục vụ sản xuất nông
nghiệp tại huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên”
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
* Đánh giá hiện trạng hệ thống thủy nôngphục vụ sản xuất nông nghiệp
tại huyện Văn Giang
* Đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động và
quản lí hệ thống có hiệu quả
Yêu cầu nghiên cứu
Nghiên cứu phải phản ánh đầy đủ, chính xác hiện trạng hệ thống thủy
nông phục vụ sản xuất nông nghiệp tại khu vực nghiên cứu

10

10


Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

1.1. Hiện trạng môi trường nước ở Việt Nam
Việt Nam nằm ở phía Đông Nam, tận cùng của khối lục địa Á Âu, lục địa lớn

nhất hành tinh, trước mặt là Thái Bình Dương nên có một nguồn hơi ẩm lớn.
Chính nhờ có một chế độ khí hậu điều hoà, lượng mưa trung bình hàng năm
từ 1500-2000mm đã tạo nên một hệ thống sông ngòi khá dày đặc (cứ hơn
10km bờ biển thì có một cửa sông). Sông ngòi là sản phẩm của khí hậu ở Việt
Nam, tổng lượng nước đổ ra biển từ sông ngòi khoảng 800×109m3, lượng
nước này có thể tưới đủ cho 1/3 diện tích bề mặt hành tinh (Viện Quy hoạch
và Quản lý nước, 2013).
1.1.1. Tài nguyên nước mặt
Hệ thống sông ngòi Việt Nam dày đặc với 2360 sông có chiều dài trên
10km, 8 trong số các sông này có lưu vực sông lớn diện tích lớn hơn
10.000km2. Tổng lượng dòng chảy hàng năm trên tất cả các sông suối chảy
qua Việt Nam khoảng 853km3/năm tương đương 27.100m3/s. Tổng lượng
dòng chảy thuộc phần phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam là 317km 3/năm, chiếm
37% tổng lượng dòng chảy, phần còn lại được sản sinh từ các nước láng giềng
536km3/năm, chiếm 63% tổng lượng dòng chảy năm ( Viện Quy hoạch và
Quản lý nước, 2013).
Nhóm 1: Nhóm hệ thống sông mà thượng nguồn của lưu vực nằm
trong lãnh thổ Việt Nam gồm các sông Sêsan, Nậm Rốm, hệ thống sông Bằng
Giang - Kỳ Cùng, sông thuộc Tây Thừa Thiên Huế. Tổng lượng dòng chảy
của nhóm các hệ thống sông này 38,85km3/năm chiếm khoảng 4,6 tổng lượng
toàn bộ dòng chảy, trong đó có 1,68km3/năm phát sinh ở Trung Quốc thuộc
thượng nguồn sông Quang Sơn rồi chảy qua địa phận Việt Nam rồi lại đổ về
Trung Quốc.

11

11


Bảng 1.1: Trữ lượng nước mặt của các sông

Nhóm
song

Sông

Các
sông

liên
quan

Diện tích lưu vực (km2)
Toàn bộ

Trong
nước

Ngoài
nước

Tổng lượng nước
sông (km3/năm)
Toàn
bộ

Trong
nước

Ngoài
nước


9,15

7,47

1,68

Nhóm 1
Nhóm hệ
thống sông
có thượng
nguồn lưu
vực nằm
trong lãnh
thổ Việt
Nam

Bằng
Giang
Kỳ Cùng
Nậm Rốm
Sêsan

13.180

11.200

1.650
11.620


1650
11.620

18.480

18.480

Công
Sê –
Băng
hiêng

7.750

7.750

Tổng

45.705

43.725

Srepok
Sông Tây
Thừa
Thiên Huế

1980

1,10 1,10

11,40 11,40
15,7
15,70
0
1,50

1,50

1980

38,8
5

37,17

1,68

82.200

137,
0

93,00

44,00

10.800
9.470
3.700
765.00

795.000 40.000
0
1.060.00
861.17
199.230
0
0
Nhóm 3

20,1
24,2
30,6

15,76
19,46
29,20

4,34
4,74
1,40

505

25,2

497,8

716,
9


189,62

543,2
8

4.720

4.720

8,9

8,9

4.680
26.500
2.660

4.680
26.500
2.660

4,9
2,6
2,6

4,9
2,6
2,6

3.700


3.700

6,4

6,4

13.900
10.350
3.240
2.900

13.900
10.350
3.240
2.900

10,3
18,9
3,3
2,6

10,3
18,9
3,3
2,6

852

852


0,8

0,8

1.900

1.900

2,3

2,3

Nhóm 2
Hệ thống
sông có
trung và hạ
lưu nằm
trong lãnh
thổ Việt
Nam

Hồng và
Thái Bình

Toàn
bộ
lưu
vực 2
sông



Cả
Đồng Nai
Mêkông
Tổng

Hệ thống
sông có lưu
vực nằm
trọn trong
lãnh thổ
Việt Nam

S. Quảng
Ninh
Gianh
Nhật Lệ
Thạch Hãn
Hương
Ba
Thu Bồn
Trà Khúc
Kôn
Cái Ninh
Hoà
Cái Nha
Trang

12


Bồ,
Ôlâu,
Truồi

168.700

86.500

28.400
27.200
41.100

17.600
17.730
37.400

12


Cái Phan
Rang
Cái Phan
Thiết
Tổng

3.000

3.000


2,4

2,4

1.050

1.050

0,5

0,5

55.602

55.602

66,5 66,5
000
822,
535,9
297.557
293,29
1
6
853,
535,9
330.000
317,90
8
6

( Viện Quy hoạch và Quản lý nước, 2013)

Tổng cộng
Tổng cả nước

Nhóm 2: Nhóm hệ thống sông ngòi mà phần trung lưu và phần hạ lưu
của lưu vực nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Trong nhóm này có 4 lưu vực sông
chính là sông Mêkông, sông Hồng, sông Mã, sông Cả với tổng lượng dòng chảy
toàn bộ 716,9km3/năm chiếm gần 84% tổng lượng dòng chảy trong toàn quốc.
Trong số 716,9km3/năm phần sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam là 189,62km 3/năm,
chiếm 25,4% và phần sinh ra ở nước ngoài là 534,28km 3/năm chiếm 74,6%.
Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sử dụng nước ở Việt Nam khi các nước ở
thượng nguồn khai thác triệt để nguồn nước sinh ra trên lãnh thổ của nước
mình. Như sông Mêkông với lượng nước hàng năm 505,0km 3/năm nhưng
phần sinh ra ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 25,2km 3/năm, chiếm 5% tổng
lượng dòng chảy. Còn sông Hồng và sông Thái Bình với tổng lượng dòng
chảy là 137,0km3/năm trong đó lượng dòng chảy sinh ra ở Việt Nam là 93,0
km3/năm, chiếm tới 68% tổng lượng dòng chảy của sông Hồng. Đối với sông
Mã và sông Cả tổng lượng dòng chảy sản sinh ra ở Việt Nam là tương đối lớn
cho nên việc điều tiết dòng chảy bằng các biện pháp công trình có thể thực
hiện được
Nhóm 3: Nhóm hệ thống sông mà lưu vực nằm hoàn toàn trong lãnh thổ
Việt Nam. Các sông thuộc nhóm này bao gồm toàn bộ các sông còn lại ở Việt
Nam với tổng lượng dòng chảy tương ứng là 92,7km 3/năm, chiếm 11,4% tổng
lượng dòng chảy toàn bộ. Lượng nước này chúng ta hoàn toàn chủ động khai
thác không ảnh hưởng đến các quốc gia khác (Viện Quy hoạch và Quản lý
nước, 2013).
1.1.2. Tài nguyên nước ngầm
13


13


Theo E.K.Alan (2013), thì trữ lượng nước dưới đất của Việt Nam khá
lớn. Tổng số trữ lượng động tự nhiên nước dưới đất toàn lãnh thổ chưa kể
phần hải đảo là 1513,445m3/s nhưng phân bố không đều trong các vùng địa
chất thuỷ văn.

Bảng 1.2: Trữ lượng động tự nhiên của nước dưới đất ở các miền địa chất
thuỷ văn theo từng phức hệ địa chất (m3/s)
Cộng
theo
thành hệ
địa chất

Tỷ lệ
% so
với
toàn
quốc

389,815

26

47,525

231,672

15


51,330

66,993

5

108,62

255,557

17

76,090

5

247,305

16

245,934

16
100

Các miền địa chất thuỷ văn
Thành
hệ
Đông

Bắc Bộ
Bở rời

2,250

Lục
nguyên

35,850

Phun trào

0,088

Xâm
nhập

47,128

Cacbonat

82,500

Biến chất

27,685

Hỗn hợp

213,16

0

Cộng
theo
miền
ĐCTV
Tỷ lệ %
trữ lượng
từng
miền so
với toàn
quốc

Tây
Bắc
Bộ
9,09
5
27,7
8
2,57
0
26,9
0
40,7
9
86,9
4
47,7
4


Đồng
bằng
Bắc
Bộ
88,86
5

Bắc
Trung
Bộ
83,17
0
120,5
1
13,00
5
72,90
9
22,80
0
69,56
5
85,03
2

Nam
Trung
Bộ


Đồng
bằng
Nam
Bộ

48,535

158,25

62,840

238,66

241,
8

88,86
5

466,9
9

318,85

158,25

1513,45

16


16

6

31

21

10

100

( Viện Quy hoạch và Quản lý nước, 2013)

14

14


Tiềm năng khai thác nước dưới đất trên cả nước của các tầng cỡ gần 60
tỷ m3 mỗi năm. Trữ lượng nước dao động từ mức rất nhiều ở vùng Đồng Bằng
Sông Cửu Long đến mức khan hiếm ở vùng Bắc Trung Bộ. (Hình 1.1: Báo
cáo Diễn biến Môi trường Việt Nam 2013. Môi trường Nước. Wordbank)

Hình 1.1: Trữ lượng nước dưới đất có tiềm năng khai thác (tỷ m3)
1.1.3. Chất lư3. Ch Tr
1.1.3.1. Chất lượng nước mặt
Theo các kết quả quan trắc cho thấy chất lượng nước ở thượng lưu của
hầu hết các con sông chính của Việt Nam còn khá tốt, trong khi mức độ ô
nhiễm ở hạ lưu của các sông này ngày càng tăng do ảnh hưởng của các đô thị

và các cơ sở công nghiệp. Đặc biệt, mức độ ô nhiễm tại các sông tăng cao vào
mùa khô khi lưu lượng nước đổ về các sông giảm.
Hàm lượng BOD5 và N-NH4+: Theo kết quả quan trắc 2 thông số trên
tại một số điểm của các hệ thống sông chính trên cả nước cho thấy có hiện
tượng vượt mức tiêu chuẩn cho phép và dao động từ 1,5-3 lần.
Hàm lượng chất rắn lơ lửng (TSS) đo được tại các sông hồ và hệ thống
kênh rạch chính đều vượt ngưỡng tiêu chuẩn cho phép loại A từ 1,5-2,5 lần
Một số thông số khác: Một số điểm cũng đã có dấu hiệu bị ô nhiễm kim
15

15


loại nặng, coliform, hoá chất bảo vệ thực vật,… Chỉ số coliform
(MPN/100ml) tại một số sông lớn cũng đã vượt tiêu chuẩn cho phép loại A từ
1,5- 6 lần. Tuy nhiên vấn đề này mới chỉ mang tính chất cục bộ.
Ô nhiễm nước mặt khu đô thị: Trong khu vực nội thành của các thành
phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, hệ thống các ao, hồ,
kênh rạch và các sông nhỏ là nơi tiếp nhận và vận chuyển nước thải của các
khu công nghiệp, khu dân cư. Hiện nay hệ thống này đều ở tình trạng ô nhiễm
nghiêm trọng vượt quá mức tiêu chuẩn cho phép 5-10 lần (đối với tiêu chuẩn
nguồn nước mặt loại B theo TCVN 5942-1995). Các hồ trong nội thành phần
lớn ở trạng thái phú dưỡng. Nhiều hồ bị phú dưỡng hoá đột biến và tái nhiễm
bẩn hữu cơ ( Nguyễn Đức Quý, 2005).
1.1.3.2. Chất lượng nước dưới đất
Khai thác nước quá mức không có quy hoạch đã làm cho mực nước
dưới đất bị hạ thấp. Hiện tượng này thấy nhiều tại các khu vực đồng bằng
Bắc Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Trong nước dưới đất nhiều nơi đã thấy
dấu hiệu ô nhiễm phôtphat (P-PO4) và Asen. Tại Hà Nội, số giếng có hàm
lượng phôtphat cao hơn mức cho phép chiếm tới 71%.Việc khai thác nước

dưới đất của các hộ gia đình và một số công trình khai thác không được quản
lý và quy hoạch cụ thể đã dẫn đến hiện tượng nước dưới đất bị nhiễm mặn ở
nhiều nơi.
Một nguyên nhân nữa là nước dưới đất bị ô nhiễm là do việc chôn lấp
gia cầm bị dịch không đúng quy cách. Theo báo cáo của Cục Thú y, tính đến
cuối năm 2012, do dịch cúm gia cầm, hơn 40 triệu gia cầm đã bị tiêu huỷ,
chiếm gần 20% tổng lượng đàn trên cả nước. Nguy cơ ô nhiễm nước dưới đất
từ các hồ chôn lấp, tiêu huỷ gia cầm là rất cao, đặc biệt trong mùa mưa (Báo
cáo Diễn biến Môi trường Việt Nam 2013. Môi trường Nước,Wordbank)
1.2. Tình hình sử dụng nước
1.2.1. Tình hình sử dụng nước trên thế giới
Nước bao phủ ba phần tư bề mặt trái đất, nước cũng chiếm ba phần tư
cấu tạo các mô sinh vật. Trữ lượng nước trên trái đất có hạn và chu trình
16

16


nước tiếp diễn liên tục từ dạng đặc sang dạng lỏng, chuyển sang dạng khí và
ngược lại. Trong tổng lượng nước của trái đất chỉ có 3% là nước ngọt, trong
đó chỉ có 0,3% là sẵn sàng dùng được cho chúng ta. Hiện nay, ở nhiều vùng
trên thế giới vào những thời điểm nhất định, có tình trạng thiếu nước vì con
người không chỉ cần có nước mà nước phải đủ, đảm bảo về chất lượng, đúng
lúc và đúng chỗ.
Trong tự nhiên nước được luân chuyển theo một chu trình bay hơi và
ngưng tụ liên tục gọi là chu trình thuỷ văn, nhờ đó mà nước tham gia vào chu
trình phát triển của tất cả các hệ sinh thái. Theo tính toán lượng nước mưa hàng
năm trên trái đất khoảng 105.000 km3, trong dó khoảng 1/3 thấm vào đất, tích
đọng ở ao hồ và hình thành dòng chảy ra sông, 2/3 còn lại trở lại khí quyển.
Tổng lượng nước trên trái đất khoảng 1,4 tỷ km 3 nhưng 96,5% là nằm ở đại

dương. Nguồn nước ngọt mà con người có thể dùng được chỉ khoảng 2,53%
tổng lượng nước toàn trái đất, còn lại đóng băng ở hai cực trái đất. Trong khi
lượng mưa chủ yếu lại rơi trên đại dương, trung bình năm khoảng 990 mm, lục
địa trung bình năm chỉ khoảng 650 - 670 mm, trên lục địa lượng mưa phân bố
rất không đều nó phụ thuộc vào khí hậu và địa hình, vùng nhiệt đới từ 2000 5000 mm/năm, vùng hoang mạc dưới 120 mm/năm. Từ đó cho thấy nước là
một thứ tài nguyên phân bố không đều, nhìn chung trên toàn thế giới từ một xứ
khô cằn sang một vùng nhiệt đới lượng nước có thể biến đổi từ 1 - 1000.
Nguồn nước trên trái đất chúng ta không phải là vô tận. Vì vậy từ xa xưa
tổ tiên loài người đã thấy được tầm quan trọng của nước và tìm cách cải tạo dòng
nước tự nhiên, sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất: ở Ai Cập 5000 năm trước
công nguyên con người đã xây dựng những đập giữ nước trên sông Nile, Trung
Quốc 4000 năm trước đã xây dựng kênh đào tới 700 dặm, Ấn Độ cách chúng ta
20 thế kỷ đã có nhiều công trình chứa nước tưới cho lưu vực sông Indus.
Cho đến vài thập kỷ gần đây, nhờ hệ thống thuỷ nông mà diện tích đất
được tưới tăng tương đối ổn định. Năm 1972 diện tích đất được tưới của thế
giới là 176.420.000 ha, năm 1982 tăng lên là 215.253.000 ha, năm 1987 là
227.108.000 ha. Trong đó chỉ riêng khu vực Châu Á diện tích đất được tưới
năm 1972 là 113.888.000 ha, năm 1982 là 135.297.000 ha, năm 1987 là
17
17


142.301.000 ha, năm 1992 là 181.533.000 ha và Trung Quốc là nước có diện
tích đất được tưới lớn nhất trong khu vực và trên thế giới, diện tích đất được
tưới năm 1992 là 49.030.000 ha, đến nay con số này là trên 5 triệu ha. Cùng
với sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật và áp lực về an ninh lương thực của toàn
nhân loại, diện tích đất được tưới không ngừng tăng, đây là điều đáng mừng
cho ngành nông nghiệp thế giới.
Ngày nay việc sử dụng nước của con người không ngừng tăng lên do
dân số tăng, đầu thế kỷ 20 dân số toàn cầu là 1,6 tỷ người nhưng đến cuối

năm 1999 đã đạt 6 tỷ, tăng 3,75 lần, điều này đã khiến cho nước dùng cho
công nghiệp tăng 20 lần, nước dùng cho nông nghiệp tăng 7 lần, nước cho
sinh hoạt tăng 10 lần. Ngoài sự gia tăng dân số khiến nhu cầu sử dụng nước
gia tăng còn có các nguyên nhân khác như cách sống của con người thay đổi
cần sử dụng nhiều nước hơn, nhất là nhu cầu nước sạch cung cấp cho các
thành phố lớn. Trên thế giới có hơn 100 quốc gia và khu vực bị thiếu nước với
mức độ khác nhau, trong đó có 4 quốc gia bị thiếu nước nghiêm trọng. Vùng
thiếu nước trên trái đất chiếm tới 60% diện tích châu lục, trong các nước đang
phát triển có tới 60% số người thiếu nước sạch trong sinh hoạt, 80% bị bệnh
tật có liên quan đến ô nhiễm nước.
Có thể nhận thấy rằng trong những năm gần đây, để phát triển ngành
nông nghiệp hầu hết Chính phủ các nước trên thế giới đều rất chú trọng đến
công tác thuỷ lợi, cả về đầu tư xây dựng hệ thống và tổ chức quản lý khai
thác, sử dụng các công trình. Ở những nước phát triển đầu tư các công trình
thuỷ lợi hoàn chỉnh, (tưới, tiêu chủ động), các nước đang phát triển xây dựng các
công trình thuỷ lợi đầu mối có tính chất trọng điểm, các công trình có sự tham gia
của cộng đồng, tư nhân tự bỏ vốn xây dựng công trình. Đa dạng hoá các hình thức
đầu tư và quản lý các công trình thuỷ lợi tất cả phục vụ nền nông nghiệp phát triển
bền vững (Phạm Ngọc Dũng, Nguyễn Đức Quý, Nguyễn Văn Dung , 2005).
1.2.2. Tình hình sử dụng nước ở Việt Nam
Lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam gắn liền với sự
hình thành của hệ thống đê điều, hệ thống kênh rạch chống lũ, hàng ngàn năm
18
18


mở mang vùng đất mới, phát huy mặt lợi, hạn chế mặt hại của nước để tồn tại
và phát triển. Cũng nhờ lợi thế đó, một nền văn minh lúa nước đã hình thành
từ hàng nghìn năm trước ở vùng đồng bằng Sông Hồng và di cư vào đồng
bằng Sông Cửu Long 300 năm trước đây.

Là một quốc gia có nguồn tài nguyên nước phong phú với mức bình
quân trên đầu người hiện nay là 12.000m3/năm, nhưng 2/3 lượng nước nói
trên lại phát sinh từ lãnh thổ các nước khác ở thượng lưu, như thượng lưu khu
vực sông Hồng, trung và thượng lưu khu vực sông MêKông. Vì thế lượng
nước qua lãnh thổ Việt Nam phụ thuộc một phần vào tình hình khai thác và sử
dụng nước của các nước trên. Do địa hình bị chia cắt bởi nhiều dãy núi song
song và do chế độ mưa không đồng nhất nên dòng chảy phân bố không đều
trên lãnh thổ.
Vùng đồng bằng sông Cửu Longcó tổng lượng dòng chảy là 507,8 tỷ
m3, trong đó 95% lượng nước từ bên ngoài lãnh thổ chảy vào, lượng nước qua
vùng chiếm 61% quỹ nước mặt của toàn lãnh thổ. Tuy lượng nước phong phú
nhưng vẫn còn hai hạn chế cho sự phát triển của một số vùng thuộc đồng
bằng sông Cửu Long đó là “ngập lụt về mùa mưa và hạn hán về mùa khô”.
Vùng đồng bằng Bắc Bộ là vùng có tiềm năng nước đứng thứ hai trong
cả nước với tổng lượng dòng chảy bình quân nhiều năm là 159 tỷ m 3, chiếm
19% quỹ nước của quốc gia. Bình quân ở Bắc Bộ mỗi ha hàng năm có 13.900
m3 nước trong đó 8.940 m3 được phát sinh trong lãnh thổ (64%). Dung tích các
hồ chứa ở Bắc Bộ đã đạt trên 8 tỷ m 3 nước. Hầu như trên các sông vừa và nhỏ
trong vùng đều đã có các hồ chứa hoặc các công trình cấp nước làm tăng dòng
chảy và lượng dòng chảy trong mùa kiệt .
Vùng Bắc Trung Bộ là vùng đứng thứ 3 về tiềm năng nguồn nước với
lượng nước trung bình nhiều năm là 83,4 tỷ m 3 chiếm 9,4% quỹ nước quốc
gia trong đó có 11,9 tỷ m3 từ bên ngoài đổ vào. Lượng dòng chảy tháng kiệt
nhất chỉ chiếm 1,3% lượng dòng chảy cả năm nên ở Bắc Trung Bộ cũng được
xây dựng nhiều hồ chứa nhỏ để tăng cường lượng dòng chảy vào mùa kiệt.
19

19



Vùng Nam Trung Bộ có tiềm năng nước mặt 59,5 tỷ m3, bình quân có
12.000m3/ha trong năm. Do chiều dài sông ngắn và dốc, các sông có nguồn từ
Đông Trường Sơn chảy thẳng ra biển nên trong vùng này khó có điều kiện
xây dựng các hồ vừa và lớn.
Vùng Tây Nguyên chủ yếu là sông Sêsan và sông Serepok có tổng
dòng chảy của cả hai sông là 27,8 tỷ m 3 trong đó lưu vực sông Sesan có
tiềm năng nguồn nước mặt là 12.000 m 3/ha/năm, cao hơn lưu vực sông
Serepork (7.540 m 3/ha/năm). Hiện trên sông Sesan đã xây dựng thuỷ điện
Yaly có dung tích điều tiết 700 triệu m 3. Trên sông Serepok chưa có hồ
chứa nước lớn nhưng có rất nhiều hồ chứa nhỏ tưới cho lúa và cây công
nghiệp như cà phê, tiêu, cao su.
Vùng Đông Nam Bộ có lượng nước đến hàng năm là 36,6 tỷ m 3, trong
đó chỉ có 4 tỷ m3 chảy vào lãnh thổ Campuchia. Lượng dòng chảy đến trung
bình năm là 10.200 m3/ha, trong đó 9.100 m3/ha là do phát sinh tại chỗ. Do
lượng mưa càng giảm theo độ cao bề mặt lưu vực nên càng về phía ven biển
và phía Nam của vùng thì lượng dòng chảy do mưa tại chỗ giảm. Hiện nay
trong vùng đã có nhiều hồ chứa với dung tích 4.800 triệu m 3 để điều tiết nước
tưới và cung cấp cho sinh hoạt, công nghiệp.
Nhờ nguồn nước phong phú, tổ tiên chúng ta từ xa xưa đã nhận thức
được tầm quan trọng của thuỷ lợi đối với đời sống và phát triển sản xuất nông
nghiệp. Tuỳ thuộc vào quá trình phát triển xã hội trong từng giai đoạn mà các
phương tiện, biện pháp khai thác tài nguyên nước cũng khác nhau. Thời gian
đầu người ta chỉ biết sử dụng nguồn nước có sẵn của tự nhiên, sau đó biết đào
giếng, đào ao để lấy nước sử dụng cho sản xuất và đời sống. Cùng với quá
trình phát triển của xã hội, khoa học công nghệ với các phương thức khai thác
tài nguyên nước cũng được phát triển theo hướng hiện đại và hiệu quả. Quá
trình khai thác tài nguyên nước gắn liền với quá trình hình thành và phát triển
hệ thống công trình các cấp và hình thức quản lý tương ứng qua từng thời kỳ
(Nguyễn Trọng Hà, 2001).
20


20


* Thời kỳ phong kiến
Thế kỷ IX, nhân dân ta đã xây dựng được công trình kiên cố là đê bao
thành Đại La với chiều dài 8.500 m, cao 6 m. Thế kỷ X (983), nhân dân
Thanh Hoá đã đào đắp sông Đồng Cỏ, Thái Hoà, dưới thời Lý Thái Tôn đào
sông Đan Nãi. Thời Trần Thái Tông (năm 1231) đào sông Hào và sông Trầm.
Năm 1390 đào sông Thiên Đức (sông Đuống ngày nay). Khi xã hội phong
kiến nước ta bước vào thời kỳ suy tàn, các công trình thuỷ nông ít được xây
dựng, hạn hán lũ lụt xảy ra liên tục.
* Thời kỳ Pháp thuộc
Thời kỳ này, thực dân Pháp xây dựng hơn 10 công trình thuỷ nông, các
công trình này chủ yếu phục vụ các đồn điền của Pháp như hệ thống sông
Cầu, hệ thống sông Liễu Sơn...( Hà Học Ngô, Ngô Đức Thiệu ,1978).
* Sau năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng các công trình thuỷ nông đã được
phục hồi nhanh chóng. Đến năm 1956, nhân dân ta đã đào đắp công trình 27
triệu 90 vạn m3 để tưới cho 1 triệu 56 vạn ha. Đến năm 1959 đã tiếp tục đào
đắp 84 triệu 86 vạn m3 để tưới cho 1 triệu 90 vạn ha. Đáng chú ý, hệ thống đại
thuỷ nông Bắc Hưng Hải ra đời đã góp phần làm thay đổi nước trên đồng
ruộng của tỉnh Hải Hưng cũ. Năm 1958, khi chưa có hệ thống thuỷ nông Bắc
Hưng Hải, Hưng Yên cấy hai vụ với diện tích 209.925 ha, thu hoạch được
162.885 tấn thóc. Năm 1959, nhờ có hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải,
Hưng Yên cấy hai vụ với diện tích 246.807 ha đạt 208.860 tấn thóc (tăng
95.975 tấn so với năm 1958) (Hà Kế Tấn ,1964). Nhờ có hệ thống công trình
này, các tỉnh đồng bằng Sông Hồng đã sản xuất thêm được vụ đông và dần trở
thành vụ sản xuất chính. Các công trình thủy lợi đã tạo điều kiện và khả năng
thâm canh cao trong sản xuất, kết quả thể hiện rõ nhất là năng suất, sản lượng
cây trồng đã được tăng lên không ngừng qua các năm (Phan Khánh,1997).

Trong ba năm phát triển kinh tế (1958 - 1960), ngoài việc xây dựng hệ
thống đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải, Nhà nước còn xây dựng một số trạm bơm
loại vừa như Thuỵ Phương, Gia Thượng Hà Nội, Tây và Nam Nghệ An.
21

Dưới ánh sáng Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IV, Nhà nước và nhân
21


dân đầu tư vốn và sức lực vào xây dựng các công trình thuỷ nông như Trịnh
Xá, Kim Đôi Hà Bắc, HTTN Nam Sông Mã - Thanh Hóa; Các hồ chứa nước
suối Hai, Đại Lãi, Cẩm Ly; Các trạm bơm như La Khê (Hà Tây), Hồng Vân...
Phong trào thi đua làm thuỷ lợi nhỏ năm 1964 - 1965 đã động viên
đông đảo quần chúng nhân dân xây dựng mạng lưới công trình tưới, tiêu rộng
khắp đồng ruộng (Hà Học Ngô, Ngô Đức Thiệu, 1978).
Những công trình xây dựng từ những năm 1955 - 1970, có năng lực
thiết kế tưới nước hơn gấp ba lần so với năng lực của các công trình xây dựng
dưới thời Pháp thuộc, bị phá hoại do chiến tranh mà Nhà nước đã khôi phục
lại. Đến năm 1970, 60% diện tích đất canh tác đã có công trình thuỷ lợi.
Trong đó, đồng bằng Bắc Bộ khoảng 80%, Trung du và khu 4 cũ gần 60%,
miền núi gần 30%. Các công trình thuỷ lợi ra đời với việc tưới, tiêu chủ động
nên năng suất lúa trong thời gian này đạt 2 - 3 tấn/ha/vụ.
Đến nay thuỷ lợi Việt Nam đã hình thành 75 hệ thống thuỷ lợi lớn và
vừa, 750 hồ chứa nước lớn và vừa, trên 10.000 hồ chứa nhỏ, 2.000 trạm bơm
điện lớn và vừa, có công suất 450 MW, 30 vạn máy bơm với năng lực thiết kế
tưới cho 3 triệu ha đất canh tác; Tiêu cho trên 1,4 triệu ha đất tự nhiên ở các
tỉnh Bắc Bộ; Ngăn mặn 70 vạn ha, cải tạo 1,6 triệu ha đất chua phèn ở đồng
bằng Sông Cửu Long. Riêng diện tích trồng lúa được tưới chiếm 80% tổng
diện tích lúa trong cả nước. Năm 2000, diện tích lúa được tưới cả năm gần 7
triệu ha, trong đó: - Lúa Đông Xuân: 2.860.000 ha - Lúa Hè Thu: 2.190.000

ha - Lúa mùa: 1.640.000 ha; Các hệ thống thuỷ lợi còn tưới trên 1 triệu ha cây
rau màu, cây công nghiệp và cây ăn quả.
1.3. Vai trò của thủy nông đối với sản xuất nông nghiệp
Hệ thống thủy lợi (hệ thống thủy nông) là một hệ thống liên hoàn từ
công trình đầu mối (hồ chứa, đập dâng, trạm bơm…) đến công trình kênh
mương các cấp để dẫn nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, đảm bảo
cung cấp nước cho cây trồng khi thiếu nước và tiêu thoát nước kịp thời cho
cây trồng khi thừa nước nhằm thoả mãn yêu cầu nước cho cây trồng phát triển
tốt và cho năng suất cao. Thực tế hệ thống thuỷ lợi thường là hệ thống phải
đáp ứng yêu cầu tổng hợp lợi dụng cho nhiều ngành khác nhau, không chỉ giải
22

22


quyết cấp thoát nước cho nông nghiệp mà còn phải giải quyết cấp thoát nước
cho nhiều ngành kinh tế quốc dân khác như cấp thoát nước cho sinh hoạt,
công nghiệp, phát điện, chăn nuôi, phát triển thuỷ sản, giao thông thuỷ, du
lịch, cải tạo môi trường,…Hệ thống thủy lợi bao gồm:
-Công trình đầu mối gồm: Hồ chứa, đập dâng, trạm bơm tưới, tràn xả
lũ, cống lấy nước có nhiệm vụ phối hợp một cách hợp lý nhất yêu cầu cấp
thoát nước của hệ thống với nguồn nước. Tùy theo từng trường hợp cụ thể để
quyết định các hình thức, quy mô công trình.
-Mạng lưới kênh mương: Mạng lưới kênh mương có nhiệm vụ dẫn nước từ
công trình đầu mối về ruộng, đây là hệ thống xương sống của hệ thống tưới.
Kênh thường làm bằng đất hay xây đá, gạch,…. Hệ thống kênh tưới có nhiều
cấp, tuỳ thuộc quy mô hệ thống mà số cấp nhiều hay ít, nhiều nhất có thể đến
5 cấp, ít nhất là 2 cấp.
-Các công trình trên kênh bao gồm cống đầu kênh, bậc nước, dốc nước,
tràn bên, cống qua đường, cầu giao thông,..

-Hệ thống bờ bao là loại hệ thống công trình nhỏ có tác dụng quan
trọng trong việc ngăn nước, giữ nước, giữ màu. Bờ vùng là bờ ven theo
mương cấp 2 hoặc cấp 3 có tác dụng ngăn nước ngoại lai, nước từ khu đồng
cao dồn xuống khu đồi thấp. Bờ khoảng là bờ ven theo mương cấp 3 hoặc cấp
4 có tác dụng điều chỉnh nước mưa tại chỗ trong vùng. Bờ thửa là hệ thống bờ
ven theo rãnh tưới có tác dụng giữ nước màu và làm đường đi lại khi chăm
bón (Phạm Ngọc Hải, 2006).
Trong “Luật Tài nguyên nước” được Quốc hội thông qua năm 1998,
việc bảo vệ tài nguyên nước đã được khẳng định, điều đó chứng tỏ nước có
vai trò quan trọng trong đời sống và sản xuất.
Nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống sinh vật, đối với
cây trồng nó là yếu tố quyết định sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng.
Trong cây nước chiếm tới 3/4 trọng lượng, trong chất nguyên sinh hàm lượng
23

23


nước chiếm tới 90%. Nước tham gia các quá trình trao đổi chất, là nguyên
liệu để thực hiện quá trình quang hợp, nước là phương tiện vận chuyển các
chất trong cây, đảm bảo trạng thái có lợi cho sự sinh trưởng. Nói cách khác
nước vừa tham gia cấu trúc nên cơ thể thực vật, vừa quyết định các biến đổi
sinh hoá và các hoạt động sinh lý trong cây cũng như quyết định sự sinh
trưởng, phát triển của cây. Chính vì vậy nước được xem là yếu tố sinh thái
quan trọng nhất đảm bảo và quyết định năng xuất cây trồng.
Trong suốt đời sống của cây, nước lúc nào cũng cần thiết để thay thế
lượng nước mất đi. Nhưng ở những thời kỳ khác nhau thì cây cần lượng nước
không giống nhau. Ở bất kỳ thời kỳ sinh trưởng nào của cây nếu thiếu nước
đều gây ảnh hưởng xấu, nhưng có một thời kỳ thiếu nước sẽ gây tác hại
nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng sản phẩm thu hoạch của cây - thời

kỳ đó gọi là thời kỳ khủng hoảng nước của cây hay thời kỳ nhạy cảm với sự
thiếu hụt nước (Nguyễn Thế Kỉ, 1994). Ở thời kỳ này cây tiêu thụ nước với
hiệu suất tích luỹ chất khô cao nhất và nước đóng vai trò quyết định năng suất
cuối cùng. Ví dụ đối với cây lúa giai đoạn làm đòng, trổ bông và phát triển hạt
cho đến khi lúa chín tức là thời kỳ tích luỹ chất khô, nếu ở giai đoạn này thiếu
nước sẽ gây nên hiện tượng lem lép hạt.
Ngoài ra chúng ta còn thấy rõ tác dụng của nước đối với việc cải tạo
các loại đất mặn, đất chua, đất lầy thụt, đất bạc màu v.v... Trong công tác cải
tạo các loại đất này thì thuỷ lợi luôn đi trước một bước, tạo nên các loại đất
thích hợp cho cây trồng, góp phần giữ vững và ổn định sản xuất.
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả của tưới, tiêu mang lại không thể
phủ nhận. Tổng kết thực tế của Vụ quản lý và khai thác công trình thuỷ lợi
cho biết: ở nước ta tưới, tiêu cho lúa có thể tăng sản lượng lên 20%- 30%.
Nhờ có các công trình thuỷ lợi, chúng ta đã chế ngự được thiên nhiên, hạn chế
được những tác hại do thiên tai như lũ lụt, hạn hán. Từ xa xưa ông cha ta đã
biết làm thuỷ lợi như quai đê lấn biển, thau chua, rửa mặn, tạo nên những
làng, xã, những huyện mới như: Tiền Hải - Thái Bình, Kim Sơn - Ninh Bình.
24

24


Nhờ sử dụng nước tưới từ các công trình thuỷ lợi, các sản phẩm nông
nghiệp được sản xuất với chi phí thấp, khả năng cạnh tranh cao, sản xuất trên
diện tích lớn; Tăng trưởng sản xuất ổn định, nguồn lực sản xuất nông nghiệp
như lao động, đất đai được khai thác và sử dụng một cách hợp lý; Đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia, phát triển nông nghiệp cân đối và bền vững.
Nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng ngoài việc cung cấp nước cho nông
nghiệp còn cấp nước đầy đủ và ổn định cho sinh hoạt và phát triển tiểu thủ
công nghiệp, các khu công nghiệp ở thị xã, thành phố. Nhiều công trình thuỷ

lợi, hồ đập chứa nước tạo ra cảnh quan môi trường rất lý tưởng để khai thác
nuôi trồng thuỷ sản, phát triển du lịch. Có công trình thuỷ lợi sử dụng nước
rất độc đáo đã góp phần tạo nên kỳ quan thế giới như vườn treo Babilon.
Nhu cầu về nước là rất lớn và không thể thay thế, đặc biệt đối với các
quốc gia, các vùng sản xuất nông nghiệp. Trong nền kinh tế mở hiện nay,
nông nghiệp nông thôn đang có nhiều đổi mới, đời sống nhân dân ổn định và
từng bước nâng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong quá trình sản xuất
của nhân dân thì công tác thuỷ lợi ngày càng trở nên quan trọng và thường
xuyên được quan tâm.
Ở Việt Nam, yêu cầu nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ
trọng 80-90% tổng lượng nước dùng, có vai trò quyết định đối với năng suất, sản
lượng cây trồng, nhất là lúa nước ( Vũ Ngọc quỳnh, 1992). Vai trò của nước đối
với cây trồng được xếp ngang hàng với 3 yếu tố quan trọng là phân - cần - giống.
Ông cha ta cũng đã khẳng định vai trò của nước qua câu “nhất nước, nhì phân,
tam cần, tứ giống”.
Theo Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc tưới tiêu nước cho
lúa hợp lý góp phần làm tăng năng suất từ 17-25% . Kết quả nghiên cứu của
Cục quản lý và Khai thác công trình thủy lợi ở nước ta đã chỉ ra tưới, tiêu cho
lúa góp phần làm tăng năng suất từ 20-30%. Ở Trung Quốc, kết quả nghiên cứu
cho thấy nếu đảm bảo đủ nước tưới cho lúa sẽ làm tăng sản lượng 30%
(Nguyễn Thanh Ngà, 1990).
Theo nghiên cứu của bộ môn Thuỷ nông - Trường Đại học Nông
25

25


×