Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Ebook truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc việt namphần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.6 KB, 26 trang )

Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 79 –

CHƯƠNG II
TÁC DỤNG CỦA NHỮNG NHÂN TỐ LỚN
TRONG CÁC CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM

1. TÁC DỤNG CỦA TINH THẦN YÊU NƯỚC
1.1. HOÀN CẢNH THIÊN NHIÊN VÀ LỊCH SỬ ĐÃ RÈN ĐÚC NÊN
TRUYỀN THỐNG KIÊN CƯỜNG VÀ BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG Ý
THỨC QUỐC GIA DÂN TỘC
1.1.1. Hoàn cảnh thiên nhiên
ƒ

Thuận lợi:

Nước ta ở vào xứ nhiệt đới nóng có nhiều vùng đất đai khác nhau, sinh vật phong
phú: ba vùng thổ nhưỡng là đồng bằng châu thổ, Trung du và miền rừng núi.
Đồng bằng châu thổ sông Hồng; sông Mã, sông Cả; sông Mêkông và duyên hải ven
biển rất thuận lợi cho nông nghiệp trồng lúa nước. Vùng Trung du với đất vàng, đất đỏ
bazan rất thuận lợi cho sự phát triển các loại cây công nghiệp có giá trò kinh tế cao.
Vùng rừng núi với hệ động thực vật phong phú là nguồn tài nguyên vô tận của đất nước.
Nước ta lại ở vào vùng nhiệt đới nóng, ẩm, mưa nhiều (số giờ nắng là 1200-2000
giờ/năm, lượng mưa nhiều từ 1500-2300 mm/năm). Điều kiện đó rất thích nghi với sự
phát triển của sinh vật. Sông hồ nước ta rất dày đặc (trung bình 20 km có một cửa sông).
Riêng ở miền Bắc có hơn 100 con sông có độ dài từ trên 100 km, là nguồn nước tưới
tiêu, nguồn thực phẩm vô tận, mạch giao thông quan trọng, nguồn phù sa màu mỡ,…
cho đời sống và sản xuất của con người. Bờ biển nước ta dài hơn 3000 km, nguồn cá
phong phú, nhiều hải cảng đẹp, có giá trò kinh tế cao, thuận lợi cho đời sống của con
người.


Đó chính là các yếu tố tạo cơ sở cho sự xuất hiện của loài người sớm, là một trong
những cái nôi của loài người nguyên thủy.
ƒ

Khó khăn:

Rừng núi chiếm 80% diện tích đất nước gây nên nhiều khó khăn lớn, tạo nên những
trận mưarừng lớn, gây khó khăn cho con người. Bờ biển dài, sông hồ nhiều nên bão tố,
lũ lụt đe dọa cuộc sống của con người, nước ta là một trong những trung tâm của bão tố
trên thế giới. Ở các tỉnh miền Bắc, vào các tháng 9,10,11 lũ lụt luôn gây cho con người
những thử thách lớn, khí hậu ẩm tạo cho các loại côn trùng, sâu bệnh phát triển làm ảnh

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 80 –

hưởng lớn đến sản xuất trong nông nghiệp (6-7 lứa sinh trưởng /năm). Những yếu tố trên
làm cho những lớp cư dân đầu tiên phải rèn luyện cho mình những bản chất bất khuất,
kiên cường để chinh phục mảnh đất này. Qua những kết quả khai quật khảo cổ học ở
Núi Đọ, Lạng Sơn, Quảng Ninh,… cho ta thấy nền văn hóa khảo cổ phát triển một cách
liên tục, Sơn Vi (Bắc Thái) thuộc hậu kỳ đá cũ xuất hiện ở trên 70 đòa điểm như ở Cúc
Phương (Ninh Bình), Hà Nội, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, Hà Tây, Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tónh. Tiếp đến, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy văn hóa thuộc đồ
đá mới ở Bắc Sơn, Quỳnh Văn (miền Trung), trung kỳ đá mới ở Đa Bút, hậu kỳ đá mới
ở khắp mọi miền đất nước, văn hóa Đông Sơn có 4 giai đoạn: Phùng Nguyên, Đồng

Đậu, Gò Mun, Đông Sơn.
Trên các loại hình công cụ ta thấy nền văn hóa phát triển liên tục và mang tính chất
bản đòa (những sọ người có thêm những yếu tố mới gia nhập vào yếu tố cũ). Như vậy là
những lớp cư dân đã bất chấp những khó khăn khắc nghiệt của thiên nhiên để phấn đấu,
duy trì cuộc sống và bám chắc mảnh đất giàu đẹp, xây dựng nền văn hóa giai đoạn sau
phát triển hơn giai đoạn trước. Đến sát Công nguyên, cư dân nước ta đã đạt được trình
độ khá cao, kỹ thuật đúc đồng tinh vi, ổn đònh trên cơ sở một nền kinh tế nông nghiệp
đã rất phát triển, đời sống của cư dân ổn đònh. Các đòa điểm khảo cổ học kéo dài vài
trăm năm, chứng tỏ quan hệ xã hội đã được xây dựng và dần dần ổn đònh. Sự phân hóa
giai cấp xã hội ngày càng rõ rệt, làm xuất hiện một quốc gia Văn Lang là một điều
chứng tỏ miền đất nước này đã đạt đến trình độ văn minh khá cao. Trong quá trình ấy,
trong cộng đồng dân cư dần dần nảy nở tình yêu mảnh đất và liên tục được hun đúc
thành lòng yêu nước, đó chính là mầm mống của tinh thần yêu nước. Thời kỳ nước Văn
Lang được xây dựng, tinh thần đó đã phát triển thành mầm mống đầu tiên của tinh thần
quốc gia, gắn bó tinh thần của con người với mảnh đất cư trú.
1.1.2. Hoàn cảnh lòch sử
Nước ta nằm ở bán đảo Đông Dương, ngã tư Đông Tây, Bắc Nam, là bao lơn nhìn
ra Thái Bình Dương, nên đã thu hút sự chú ý của các cư dân xưa. Nhiều loại chủng tộc
sinh sống trên đất nước ta, nhiều cư dân các bộ tộc mạnh đã nhòm ngó và tràn vào khu
vực này. Truyền thuyết ghi lại những sự kiện như giặc Man, giặc mũi đỏ, giặc Ân vào
xâm lược đất nước ta, Hùng Vương cự tuyệt sứ giả của Việt vương Câu Tiễn. Điều đó
phản ánh sự đấu tranh chống xâm lược của cư dân nước ta và đó là cơ sở rèn đúc nên
tinh thần quật cường và tinh thần đoàn kết trong cộng đồng cư dân tạo dựng nên nhà
nước Văn Lang hùng cường. Trước họa xâm lăng của quân Tần, cư dân Lạc Việt và cư
dân Tày, Nùng của Thục Phán đã liên kết lại. Các nhà viết sử đã nhận đònh: “Trong lòch
sử đấu tranh lâu dài, từ thời đại đồ đá mới rồi đến đồ đồng, đồ sắt, với nền văn hoá
Đông Sơn nổi tiếng, nền kinh tế và xã hội của các tộc Việt đã có bước phát triển mới.

ThS. Bùi Văn Hùng


Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 81 –

Cộng đồng dân tộc của người Việt cổ đã hình thành: Nhà nước Văn Lang đã xuất hiện.
Những tình cảm dân tộc nảy sinh từ thû ban đầu đã được tôi luyện và lớn mạnh, trở
thành tinh thần độc lập tự chủ kiên cường, lòng yêu nước thương nòi và chí khí đấu tranh
bất khuất chống ngoại xâm”1

1.2. TÁC DỤNG CỦA TINH THẦN YÊU NƯỚC TRONG THỜI KỲ
BẮC THUỘC: BẢO TỒN NÒI GIỐNG VÀ GIÀNH LẠI ĐỘC LẬP DÂN
TỘC.
Thế kỷ III trước Công nguyên, đế chế của người Hán dưới triều Tần phát triển mạnh
mẽ. Người Trung Quốc xây dựng quốc gia từ khoảng trên 2000 năm TCN. Trung Quốc
xây dựng quốc gia đi đôi với quá trình bành trướng xâm lược từ Hạ-Thương-Chu (Đông
Chu liệt quốc - Xuân Thu chiến quốc). Thời Tần, đòa vực chủ yếu là sông Hoàng Hà,
thế kỷ III TCN phát triển thành đế chế rộng lớn tràn xuống phía Nam sông Dương Tử,
xâm phạm đến Bách Việt, trong đó có Âu Việt và Lạc Việt. “Nhà Tần ở phía bắc mắc
họa với người Hồ, phía nam mắc họa với người Việt, đóng binh ở đất vô dụng, tiến
không được, lui không được trong hơn 10 năm đến khi Tần Thủy Hoàng chết thì bãi binh
” - Sử ký Tư Mã Thiên. Nhà Tần đánh vào đất Bách Việt năm 218 TCN, Tần Thủy
Hoàng chết năm 209 TCN (10 năm), trong thời gian đó nhà Tần lập được 4 quận: Tượng,
Nam Hải, Quế Lâm, Mân Trung, bốn quận đó ổn đònh trong suốt thời gian Tần Thủy
Hoàng thống trò, có nghóa là đánh nhau với người Việt ở phía Nam Quảng Tây chỉ có thể
là Âu Lạc của An Dương Vương. Kết hợp với truyền thuyết của ta là Hoài Nam Tử:
“người Việt cử người kiệt tuấn ra đánh giặc” mà người đó là An Dương Vương thì chứng
tỏ An Dương Vương đã lãnh đạo nhân dân chống Tần.

Sự thắng lợi đó củng cố thêm lòng tự tin vào sức mạnh của cư dân nước ta vì đó là
cuộc kháng chiến lớn nhất với quyết tâm cao nhất của nhân dân ta. Sau đó, Triệu Đà
đánh vào nước ta 2 lần. Mặc dù thất bại nhưng cũng chứng tỏ nhân dân ta chiến đấu với
tinh thần rất cao vì Triệu Đà vừa phải dùng mưu, vừa phải dùng quân sự “Cao Hậu chết,
bãi binh, Đà nhân thế đó lấy sinh lực uy hiếp biên cảnh, lấy của cải đút lót khiến Âu
Lạc thuần phục” - Hoài Nam Tử. Nhà Triệu thi hành chính sách thống trò trực tiếp bằng
cách chia nước ta thành 2 quận: Giao Chỉ và Cửu Chân đứng đầu là hai tên quan sứ còn
quan lại bên dưới vẫn là các lạc tướng, dùng tục cũ để trò dân, để đối phó với sự phản
ứng liên tục của nhân dân ta. Sang thời Tây Hán, nhân dân ta vẫn liên tục nổi dậy, sử
Hán ghi: “quân lính run sợ, mệt mỏi vì Âu Lạc”. Năm 111 TCN, triều Hán phải cử quân
sang đánh dẹp cuộc khởi nghóa của Tây Vũ Vương.

1

Hồng Nam, Hồng Lónh (chủ biên): Những trang sử vàng của dân tộc Việt Nam chống phong kiến Trung
Quốc xâm lược, Sđd, TI, trang 63,64.

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 82 –

Sang thời Đông Hán, tư tưởng bình thiên hạ đã rất phát triển ở Trung Quốc. Trương
Khiên đi sứ Tây Vực để phát triển thế lực sang phía Tây. Dân số của đế chế gần 60
triệu người, thực hiện chính sách đồng hóa đối với các dân tộc bò chinh phục trong đó có
nước ta. Hai thái thú Tích Quang (Giao Chỉ), Nhâm Diên (Cửu Chân)

mở
mang các trường học để tuyên truyền lễ giáo phong kiến Trung Quốc để đồng hóa nhân
dân ta, ép buộc nhân dân ta thay đổi phong tục tập quán nhất là hôn nhân, về kinh tế thì
khuyếch trương, phổ biến việc sử dụng đồ sắt nhằm tước đoạt ruộng đất của nông dân,
đẩy mạnh khẩn thực, lập trang trại người Hán và đưa tội nhân đến ở để đồng hóa, can
thiệp đến tận cơ sở, xúc phạm mạnh mẽ tới quyền lợi và truyền thống dân tộc.
Cuộc khởi nghóa Hai Bà Trưng trong thời kỳ Tô Đònh làm thái thú, nhưng lại là kết
quả của những chính sách từ trước được nhân dân 4 quận: Cửu Chân, Nhật Nam, Giao
Chỉ, Quế Lâm hưởng ứng thu được 56 thành. Trưng Trắc lên làm vua là sự phủ đònh hiên
ngang tư tưởng bình thiên hạ của đế chế Hán, chứng tỏ sự kêu gọi tinh thần quật cường
dân tộc. Chính quyền trung ương được xây dựng trên cơ sở đất đai của Âu Lạc cũ, Mã
Viện sau này đã tàn sát nhân dân, giết hại các Lạc tướng, vơ vét các trống đồng để đúc
ngựa mang về Trung Quốc. Phần còn lại, Mã Viện đúc một cột đồng ở Giao Chỉ, thể
hiện hành động dã man hòng thủ tiêu tinh thần dân tộc, xáo trộn các đơn vò hành chính,
bỏ luật của người Việt để cảnh cáo tinh thần nhân dân ta.
Trong khoảng 100 năm, phong trào chìm lắng không chỉ vì ý chí dân tộc ta bò sa sút
mà vì thiếu lực lượng lãnh đạo, vì quý tộc cũ bò tiêu diệt, quý tộc mới đang bò phân hóa.
Từ năm 137, phong trào lại bùng lên, nhiều cuộc khởi nghóa nổ ra làm cho nhà Hán
nhiều phen cử quân chinh phạt. Chính quyền nhà Ngô phải chia phía Nam làm hai châu
(châu Giao, châu Quảng) và nới lỏng sự ràng buộc với châu Giao: “nhân dân miền Giao
Chỉ chán yên vui, thích làm loạn, khó cai trò”. Thực tế, nhân dân ta đã thắng được chính
sách đồng hóa và chính sách di dân khẩn thực của kẻ thù, buộc chúng phải thống trò theo
lối ràng buộc, các hào trưởng vẫn hùng cứ và mỗi khi có điều kiện lại nổi dậy chống đối
chính quyền thực dân. Năm 468, Lý Trường Nhân nổi dậy khởi nghóa, giết các quan lại
người Hán giành quyền tự trò. Tất cả các cuộc khởi nghóa sau đó đều có ý nghóa độc lập,
việc đó có một ý đồ chính trò rất lớn làm chấn động cả miền châu Giao. Khởi nghóa Lý
Bí thắng lợi và sự ra đời của nhà nước Vạn Xuân kết thúc giai đoạn Bắc thuộc lần thứ 2
càng chứng tỏ sự thất bại của chính sách đồng hóa của người Hán, đó cũng là sự đồng
hóa trở lại (Lý Bí thuộc tầng lớp đòa chủ Hán tộc bò đồng hóa thành người Việt). Đây là
sự kiện chứng tỏ sự đấu tranh chống đồng hóa của nhân dân ta rất mạnh mẽ. Chính

quyền Vạn Xuân được xây dựng lên đã đối đầu thắng lợi với các cuộc tiến công của
nhà Lương để xây dựng một quốc gia riêng biệt. Hoàng đế Lý Bí là sự thể hiện ý chí
độc lập cho toàn thể nhân dân lúc đó với chính sách phong thần cho bà Triệu.

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 83 –

Bắc thuộc lần thứ 3 là giai đoạn đế chế Hán dưới thời Đường. Trung Quốc là một đế
quốc rộng lớn mở rộng ảnh hưởng văn hóa ra cả Trung Á, châu Âu, châu Phi và đẩy
mạnh đồng hóa sang nước ta như tên Đường Nhân (Phố) thuộc huyện Đường Hào, đặt
các An Đông, An Tây, An Nam, An Bắc đô hộ phủ, khống chế về quân sự và mua
chuộc, chia rẽ quý tộc bản xứ. Nhiều người làm quan, chức cao đến An phó đô hộ phủ,
mở trường dạy học, khoa thi cử. Suốt 3 thế kỷ, nhân dân ta vẫn liên tiếp nổi dậy giành
quyền tự chủ (các cuộc khởi nghóa Lý Tự Tiên, Đinh Kiến, Mai Thúc Loan, Phùng
Hưng, Dương Thanh …).
Sau hơn 30 năm từ 905 - 938, ý thức dân tộc phát triển mạnh mẽ, quần chúng nhân
dân tập hợp lực lượng dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền tiêu diệt quân Nam Hán ngay
lúc chúng đặt chân vào đất nước ta, nói lên sự trưởng thành vượt bậc về vật chất và tinh
thần của nhân dân ta. Một bài học được rút ra là mỗi khi khởi nghóa phải đi liền với
kháng chiến chống ngoại xâm thì mới thành công. Nhà nước mà Ngô Quyền xây dựng
nên là hiện tượng riêng trong bối cảnh Ngũ đại thập quốc ở Trung Nguyên. Đây là chủ
quyền độc lập của nhân dân Âu Lạc sau hơn 1000 năm bò đô hộ chứ không phải là một
sự cát cứ phong kiến mà một số sử gia Trung Quốc nhận đònh.
Lãnh thổ bao gồm đất Âu Lạc cũ với cư dân người Việt khác hẳn về chủng tộc với

người Hán, với phong tục riêng: búi tóc, nhuộm răng, ăn trầu, ngôn ngữ riêng biệt mặc
dù trải qua một quá trình đồng hóa lâu dài (tiếng Hán Quảng Đông khác Bắc Kinh
nhưng vẫn là ngôn ngữ Hán). Ngô Quyền đóng đô ở Cổ Loa với ý đồ khôi phục lại quốc
gia thời kỳ An Dương Vương. Tổ chức nhà nước và chủ quyền khác hẳn với Trung Quốc.
Đinh Tiên Hoàng lại thể hiện ý chí độc lập rõ rệt: đặt tên nước là Đại Cồ Việt, xưng
hoàng đế, đặt niên hiệu, xây dựng một đạo quân 1 triệu (Thập đạo ) để bảo vệ độc lập
dân tộc.
Nhìn lại thực lực của kẻ thù mới thấy được sức mạnh của ý chí dân tộc và tinh thần
đó được bồi đắp, vươn lên khiến cho nhân dân ta giành được độc lập dân tộc thế kỷ X.
Phạm Văn Đồng nhận đònh: “khắc khổ, cần lao và tranh đấu là 3 đức tính của đời sống
dân tộc, ông cha ta rất giàu tinh thần chiến đấu, rất giàu sinh lực mới vượt qua được bao
chướng ngại thiên nhiên trùng trùng, điệp điệp trước con đường sinh tồn mới thắng được
kẻ thù bao phen giày xéo đất nước ta”1.

1.3. TINH THẦN YÊU NƯỚC MẠNH MẼ ĐÃ THÚC ĐẨY NHÂN DÂN
TA ĐẤU TRANH GIỮ VỮNG NỀN ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ LẬP NÊN

1

Phạm Văn Đồng: Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ só, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1978,
trang 37.

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 84 –


NHỮNG CHIẾN CÔNG HIỂN HÁCH TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ
XVIII.
Nguyên nhân chủ quan: đó là cơ sở truyền thống đấu tranh có từ trước và đẩy mạnh
trong thời Bắc thuộc.
Nguyên nhân khách quan: hai cuộc sống tương phản trước và trong thời Bắc thuộc
đã thúc đẩy nhân dân ta đấu tranh, kẻ thù ngay từ đầu đã ôm mộng bành trướng, nhân
dân ta phải đứng trước thử thách lớn lao, đã vững vàng lập nên những chiến công hiển
hách.
Năm 979, nhà Tống đã thống nhất toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, là một vương triều
phong kiến rất mạnh tiếp tục nuôi ý đồ xâm lược nước ta khi nước ta có dấu hiệu suy
yếu. Triều đình Đại Cồ Việt lục đục, nhà Tống xúi giục Chiêm Thành tiến công phía
Nam và chuẩn bò tiến công phía Bắc. Chúng kéo vào nước ta theo 3 đường: Bạch Đằng,
sông Hồng, Lạng Sơn. Như vậy, sau gần một nửa thế kỷ, nước ta lại phải đương đầu với
một đế quốc hùng mạnh. Với tinh thần yêu nước mạnh mẽ, nhân dân ta quyết tâm ủng
hộ cuộc kháng chiến của Lê Hoàn. Mùa xuân 981, Lê Hoàn đã đập tan cuộc xâm lược
của quân Tống ngay từ đòa đầu đất nước (Bạch Đằng, Chi Lăng). Nhưng nhà Tống
không từ bỏ ý đồ mà vẫn tiếp tục chuẩn bò xâm lược nước ta. Năm 1075, nhà Tống
chuẩn bò 10 vạn quân với 20 vạn dân phu do những tướng tài như Quách Quỳ, Triệu Tiết
chỉ huy. Nhưng cũng với lòng yêu nước mạnh mẽ, nhân dân ta đã tích cực ủng hộ cuộc
kháng chiến của Lý Thường Kiệt: đem quân đánh Ung Châu, Khâm Châu và Liêm
Châu trước để tự vệ. Năm 1077, nhân dân ta lại đập tan toàn bộ quân xâm lược của Nhà
Tống bên bờ sông Như Nguyệt. Quân Tống chỉ còn 2,3 vạn tức là ¾ quân số bò tiêu diệt,
số quân và dân phu bò giết lên tới gần 30 vạn, tốn 5 triệu lạng vàng. Nhà Tống đònh
dùng chiến tranh để giải quyết mâu thuẫn nội bộ nhưng bò mất hết cả thể diện, do đó,
hơn 200 năm sau chúng không dám nghó đến việc xâm lược nước ta nữa. Nhân dân ta
càng thêm tin tưởng và tự hào về những chiến công của mình. Lý Thường Kiệt thay mặt
nhân dân làm bài thơ “Thần” đuổi giặc được coi như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên
của dân tộc.
Đến cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông, đế chế Nguyên - Mông đã xâm lược

hầu khắp lục đòa và 3 lần xâm lược nước ta với quyết tâm lớn. Chúng dùng ½ triệu quân
với các tướng tài thuộc hàng công thần khai quốc, áp dụng những chiến thuật, chiến lược
mới lạ, gây nên nỗi sợ hãi của con người. Nhân dân ta bằng nhiều hình thức đã tham gia
tích cực vào cuộc kháng chiến. Trong cả 3 lần kháng chiến, lần nào nhân dân ta cũng
đuổi được kẻ thù ra khỏi bờ cõi. Đó chỉ có thể là tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia
dân tộc mạnh mẽ của nhân dân ta. Sứ nhà Nguyên là Trần Phu đã làm bài thơ trong đó

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 85 –

có câu “nghe tiếng trống đồng mà bạc cả tóc”. Nhà Nguyên tồn tại một thời gian dài
nữa cũng không dám sang xâm lược nước ta.
Trong cuộc kháng chiến chống Minh, nhà Minh sang xâm lược nước ta với hàng
chục vạn quân. Thắng lợi của cuộc xâm lược ban đầu không phải vì sức mạnh của hàng
chục vạn quân mà chính vì nhà Hồ không đoàn kết được toàn dân. Cuộc kháng chiến
vẫn nổ ra khắp nơi làm cho nhà Minh phải bình đònh trong một thời gian dài. Lê Lợi
phát động cuộc khởi nghóa, ban đầu chỉ vài trăm người nhưng đến cuối cuộc khởi nghóa
đã có 35 vạn quân. Các tầng lớp nhân dân ở khắp nơi cùng tham gia đánh giặc. Với tinh
thần và lực lượng cuộc khởi nghóa như thế, chúng ta quét sạch quân thù ra khỏi đất
nước. Lời thề Đông Quan của Vương Thông lần đầu tiên phải tuyên bố không dám xâm
lược nước ta nữa. Nguyễn Trãi thay mặt nhân dân ta viết lên bản tuyên ngôn độc lập lần
thứ hai nói lên khí thế oai hùng của dân tộc và khẳng đònh chủ quyền quốc gia.
Cuộc kháng chiến chống quân Xiêm, Thanh vốn từ khởi nghóa của nông dân. Xiêm
tuy không phải là một đế chế lớn nhưng là một vương triều mạnh, chiến thắng xẩy ra

trong một thời gian rất ngắn. Nhà Thanh là một đế chế lớn mạnh bậc nhất thời bấy giờ,
đó là một đế chế dựa trên sự đồng hóa Hán Mãn đã xâm lược nước ta với 29 vạn quân.
Chỉ hơn 2 tháng, được sự ủng hộ của toàn dân, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng quét sạch
quân thù ra khỏi bờ cõi. Sau chiến thắng đó, Nguyễn Huệ còn cầu hôn với công chúa
nhà Thanh và đòi đất Lưỡng Quảng để đóng đô.
Tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia dân tộc mạnh mẽ đã giúp nhân dân ta làm nên
những chiến công hiển hách, đánh bại những cuộc xâm lăng của kẻ thù, bảo vệ vững
chắc chủ quyền quốc gia.

1.4. TINH THẦN YÊU NƯỚC CỦA QUÝ TỘC PHONG KIẾN
Giai cấp quý tộc phong kiến đối lập với quần chúng nhân dân về quyền lợi và tư
tưởng. Trong quá trình đấu tranh vì quyền lợi của dân tộc và bản thân thì lẽ ra quyền lợi
của giai cấp quý tộc phong kiến đối kháng với quyền lợi của nhân dân. Nhưng trong
điều kiện chiến tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệ tổ quốc ở nước ta thì quyền lợi
của dân tộc đã thống nhất hai giai cấp. Nước ta là một nước nhỏ bé, nếu bò kẻ thù thống
trò thì giai cấp quý tộc sẽ bò chia sẻ quyền lợi. Tinh thần yêu nước của quý tộc phong
kiến được thể hiện dưới hình thức trung quân “Ai cũng mến vua mà liều chết” - Nguyễn
Trãi, “Xã tắc bò giày xéo” - Trần Quốc Tuấn, “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” - Lý
Thường Kiệt, Trần Quốc Toản “phá cường đòch báo hoàng ân”…
Nhưng không chỉ vì trung quân mà còn vì tinh thần dân tộc: đấu tranh để cứu nhân
dân ra khỏi cảnh lầm than. Họ cùng quân só lăn lộn gian khổ để chiến đấu. Từ thời Hai
Bà Trưng đến Lê Lợi. Hai Bà Trưng tha tô thuế cho nhân dân trong 3 năm, tha bỏ lực

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam


- 86 –

dòch của họ Khúc. Các vua Lý thương yêu dân như con. Nhà Trần một mặt vạch trần tội
ác của quân Nguyên, mặt khác nêu lên nỗi khổ của nhân dân. Lãnh đạo nhân dân
chống xâm lược “Thiên nam hành lý”. Nguyễn Trãi: “việc nhân nghóa cốt để yên
dân…”.
Họ nêu cao tinh thần tự hào dân tộc như đặt tên nước là Đại Việt, Đại Cồ Việt. Ý
thức dân tộc mạnh mẽ “Khải Hoàn” - Trần Quang Khải. Họ có tinh thần chiến đấu rất
dũng cảm. Một bộ phận liên kết với kẻ thù nhưng không đáng kể (Trần Ích Tắc, Trần
Kiện, …). Giai cấp quý tộc phong kiến tham gia tích cực vào các cuộc đấu tranh chống
xâm lược với tư cách là người đại diện cho quyền lợi dân tộc.

2. TÁC DỤNG CỦA KHỐI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN
Ngay từ buổi đầu dựng nước, chúng ta đã phải đối phó với cuộc xâm lược của nhà
Tần. Một trong những biện pháp quan trọng nhất là đoàn kết nhất trí: “người Việt cùng
nhau trốn vào rừng, cử người kiệt tuấn ra đánh giặc”. Lúc nào có sự đoàn kết thì thắng
lợi, chia rẽ thì thất bại.
Tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trở thành một truyền thống, một di sản quý báu
của dân tộc ta. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tần thế kỷ XIII đã chứng minh rõ
ràng sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân. Hai Bà Trưng hô hào khởi nghóa giành
độc lập dân tộc, được nhân dân ta nhất tề hưởng ứng, chỉ trong 3 tháng là thu phục được
56 thành, đuổi quân xâm lược về nước. Sau Hai Bà Trưng, phong trào bò chìm đắm trong
hơn một trăm năm là do không có thành phần quý tộc lãnh đạo nhân dân ta đoàn kết
đấu tranh dân tộc..
Lý Bí liên kết được hào kiệt các châu đồng thời khởi nghóa, đánh đuổi quân Lương
đô hộ, lập nên nhà nước Vạn Xuân. Nhân dân ta đồng lòng ủng hộ công cuộc khôi phục
và đấu tranh giành quyền tự chủ của họ Khúc, Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền.
Cuối Đinh, trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, toàn thể quý tộc tôn Lê Hoàn là
người có uy tín, có tài năng lên làm vua. Lê Ngọa Triều tàn bạo, làm mất lòng dân nên
toàn thể tướng lónh, sư sãi đã tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Nhận thức sâu sắc sức

mạnh của tinh thần đoàn kết, trước cuộc kháng chiến chống Tống, Lý Thường Kiệt đã
chủ động dàn xếp mâu thuẫn với Lý Đạo Thành. Ông còn phát động tinh thần đoàn kết
trong nhân dân và quân só để đánh thắng quân xâm lược.
Nhà Trần xây dựng và củng cố khối đoàn kết toàn dân. Trần Thái Tông nói: “xã tắc
này là của tổ tiên, người làm vua phải cùng anh em thụ hưởng”. Nhà vua không vì hiềm
khích mà trao quyền cho Trần Quốc Tuấn là người tài giỏi. Mặt khác, Trần Quốc Tuấn
lại rất gương mẫu để củng cố khối đoàn kết. Ông đã chủ động dàn xếp mâu thuẫn với

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 87 –

Trần Quang Khải khi tắm cho Trần Quang Khải trên bến sông Bình Than. Bộ chỉ huy
nghóa quân Lam Sơn là hình ảnh của khối đoàn kết dân tộc. Ban đầu, trong Hội thề
Lũng Nhai chỉ có 19 người nhưng đã đầy đủ hào kiệt bốn phương về tụ nghóa.
Nguyễn Huệ đã tìm mọi cách để thu hút lực lượng và đoàn kết trong bộ chỉ huy của
mình. Ông ra sức thu hút nhân só Bắc Hà, phát hòch kể tội quân xâm lược, nêu cao
truyền thống đánh giặc cứu nước của tổ tiên để kích động tinh thần yêu nước của toàn
dân. Nhờ đó, toàn dân như một, tập hợp dưới ngọn cờ dân tộc của Quang Trung Nguyễn Huệ
Ngược lại, khi có sự chia rẽ thì kháng chiến thất bại. An Dương Vương thất bại trong
cuộc chiến tranh chống Triệu Đà là do bò chia rẽ “Âu Lạc tương công đánh lẫn nhau”.
Nhà Hồ không tranh thủ được sự ủng hộ của quý tộc phong kiến và nhân dân. Hồ
Nguyên Trừng đã trả lời Hồ Quý Ly là: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không
theo mà thôi”. Đánh giá về quân đội nhà Hồ, nguyễn Trãi nói: “Quân họ Hồ trăm vạn
người, trăm vạn lòng”.

Giới quý tộc phong kiến đã rút ra được tác dụng to lớn của khối đoàn kết trong các
vấn đề sống còn của quốc gia, thể hiện qua lời nói của các bậc anh hùng. Trần Hưng
Đạo nói: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức khiến giặc mạnh phải
bó tay”.
Điều kiện khách quan cho việc thực hiện khối đoàn kết toàn dân chính là: Tạo cơ sở
cho việc xóa bỏ cát cứ, thực hiện khối đoàn kết, sở hữu ruộng đất thuộc nhà nước.
Ở nước ta, mặc dù mới dựng nước nhưng con người đã có thói quen sử dụng vũ khí,
ý chí đấu tranh được duy trì trong suốt thời kỳ bò nô dòch. Nông nghiệp trồng lúa nước
cần phải liên kết với nhau làm thủy lợi. Nhà nước tập quyền của An Dương Vương ra
đời, đến thời kỳ thống trò, nhà nước đó vẫn là nhà nước tập quyền, thi hành chính sách
bóc lột ở khắp các đòa phương một cách đồng đều tạo ra mâu thuẫn đồng đều trong cả
nước. Đối lập với phong kiến ngoại tộc không chỉ là giai cấp nông dân mà còn cả phong
kiến dân tộc. Người nông dân chống xâm lược, nên liên minh với quý tộc phong kiến
chống ngoại tộc. Mặt khác, phong kiến dân tộc cũng chống phong kiến ngoại tộc vì
quyền lợi giai cấp. Họ phải nhân nhượng nông dân ở chỗ thu tô thuế nhẹ làm cho giai
cấp nông dân thấy được phải theo giai cấp phong kiến để giành quyền lợi cho mình,
nguyện vọng dân chủ được đáp ứng phần nào, ý thức quốc gia dân tộc có từ sớm là nhân
tố quan trọng trong việc đoàn kết chống ngoại xâm.
Đoàn kết trong cộng đồng các tộc người: nước ta là quốc gia đa dân tộc từ buổi ban
đầu dựng nước đã khác nhiều quốc gia đa dân tộc khác là chia rẽ: Âu Lạc duy trì và
phát huy khối cộng đồng dân tộc. Bắc thuộc lần thứ nhất, Bà Trưng kêu gọi mọi tộc

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 88 –


người. Bắc thuộc lần thứ hai, Lý Bí, Lý Thiên Bảo thường rút lui vào các Động để
nương náu và xây dựng lực lượng. Bắc thuộc lần thứ ba, người Ô Tử, Man.v.v.. đã tham
gia các cuộc khởi nghóa Lý Tự Tiên, Đinh Kiến ( miền núi - đồng bằng ), Mai Thúc
Loan liên kết 32 châu. Thời Lý, Trần, Lê Sơ thực hiện chính sách “Nhu viễn” để lôi
kéo đồng bào các dân tộc ( Tày, Nùng ở phía Bắc, họ Thân ở Động Giáp, họ Nùng ở
Tông Đán, họ Lê ở Hưng Hóa, họ Hà ở Tuyên Quang, cha con Hà Khuất, Hà Bổng, Hà
Đặc, Hà Chương ở Chiêm Hóa, Lê Lợi, Lê Lai người Mường, v.v..).

3. VỊ TRÍ CỦA NHỮNG YẾU TỐ KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG
CÁC CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM THỜI CỔ TRUNG
ĐẠI VIỆT NAM.
3.1. YẾU TỐ KINH TẾ:
Ăngghen nói: “Bất cứ bạo lực chính trò nào ban đầu cũng đều dựa trên một chức
năng kinh tế, xã hội”1. Kẻ thù của ta có lực lượng vật chất rất mạnh, lại ở sát nước ta,
khi có chiến tranh, chúng ta phải mất một số lực lượng để phục vụ chiến tranh (quân
đội, vật chất). Do đó, kinh tế có vò trí rất quan trọng.
Nước ta là một nước có nền kinh tế nông nghiệp rất phát triển (đồng thau, đồ sắt)
tạo nên của cải thặng dư để cung cấp cho lực lượng thoát ly sản xuất để chuyên phục vụ
chiến đấu. Nền kinh tế đó tạo nên mảng kinh tế thủ công nghiệp phát triển, sản xuất vũ
khí phong phú về loại hình và số lượng. Mặt khác, nông nghiệp tạo điều kiện cho cư dân
ổn đònh kết cấu và tạo điều kiện chiến tranh việc tổ chức tập trung để chiến đấu: “Trước
khi có nhà nước phải có một điều kiện hoàn toàn đặc biệt mới làm cho nửa triệu người
có thể tập hợp lại dưới sự chỉ đạo của trung ương duy nhất và điều kiện đó chắc chắn
chưa bao giờ có được”1.
Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, mặc dù chính quyền thực dân kìm hãm, nhân dân ta
vẫn phấn đấu kiên quyết để phát triển kinh tế làm cho kinh tế đồ sắt ngày càng phát
triển trên phạm vi cả nước. Thế kỷ II, đồ sắt khá phát triển, đến thế kỷ VI đã phổ biến
toàn quốc gia.
Từ thế kỷ III, những cuộc đấu tranh giành độc lập đã nổ ra liên tục, rộng lớn về

không gian và thời gian. Đến cuối Bắc thuộc lần thứ hai, kinh tế càng phát triển, quan
hệ sản xuất độc lập càng thúc đẩy kinh tế phát triển tạo điều kiện cho chúng ta xây
dựng được một đạo quân lớn không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất. Nền kinh tế
1

F. Engels: Chống Đuy Rinh, C. Mác, F. ng Ghen tuyển tập, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1983, T.V, trang
259, 260.
1
F. ngghen, Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước, Tuyển tập, Sđd, TVI. trang
245.

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 89 –

thủ công nghiệp khá phát triển là cơ sở để trang bò vũ khí thuộc loại hiện đại trong thời
kỳ đó. Thời Lý có máy bắn đá, thời Trần, Hồ có hỏa pháo (Hồ Nguyên Trừng là người
cải tiến), Tây Sơn có súng đại bác. Tổ tiên ta xây dựng được đủ các binh chủng, chiến
thuyền nhiều, trọng tải lớn có khi chở được vài trăm quân: Tây Sơn 60 đại bác, 70
người/thuyền dài hàng chục mét (chiến thuyền). Nhà Hồ xây dựng thành Đa Bang và
các tuyến phòng thủ khác vào loại kiên cố.
Mặt khác, đó là điều kiện cho thương nghiệp, giao thông vận tải phát triển. Hệ
thống giao thông chính được thiết lập từ cuối đời Đường, có thể huy động quân đội dễ
dàng. Nhà Trần huy động quân đội ở Vạn Kiếp và rút quân thần kỳ. Thông tin tuyên
truyền phát triển thuận lợi, truyền tin, mệnh lệnh. Hào kiệt mọi nơi về hội thề ở Lam

Sơn trong cuộc khởi nghóa Lam Sơn.

3.2. YẾU TỐ AN NINH CHÍNH TRỊ
Yêu cầu liên kết các tộc người dẫn đến nhà nước trung ương tập quyền ra đời. Ngay
từ thời kỳ Hùng Vương, An Dương Vương, quốc gia Văn Lang, Âu Lạc đã là một vương
quốc thống nhất. Các cuộc khởi nghóa chống Bắc thuộc đã liên kết được nhân dân cả
nước đánh đuổi quân đô hộ của phong kiến Hán tộc. Trong thời kỳ xây dựng và củng cố
quốc gia độc lập tự chủ, các nhà nước phong kiến Đại Việt đã hết sức chú ý giữ gìn an
ninh chính trò quốc gia.
Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (981), Lê Hoàn đã dẹp yên nội
loạn, đánh bại cuộc tấn công quân sự của Chiêm Thành từ phía Nam để tập trung toàn
lực đối phó với quân Tống ở phía Bắc. Nhờ đó, hậu phương của Đại Cồ Việt được đảm
bảo và quân dân ta đã đánh thắng quân xâm lược Tống ngay ở đòa đầu đất nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai, trên cơ sở một nền kinh tế phát
triển, một lực lượng quân sự hùng mạnh, nhà Lý đã đủ sức đương đầu với hàng chục vạn
quân Tống xâm lược. Để đảm bảo an ninh chính trò vững vàng, nhà Lý đã làm tốt việc
bảo đảm an ninh biên giới. Bằng chính sách “Nhu viễn”, nhà Lý đã gắn kết các cộng
đồng dân cư các dân tộc thiểu số ở vùng rừng núi phía bắc của tổ quốc, củng cố an ninh
biên giới phía nam. Trước hành động chia rẽ khối đoàn kết dân tộc của bọn gián điệp
nhà Tống, một mặt nhà Lý phát hiện và trừng trò bọn gián điệp, mặt khác nhà Lý chủ
động dàn xếp mâu thuẫn nội bộ. Nhờ đó, nhà Lý đã đánh thắng quân Tống cả trên đất
Tống và trên đất nước ta.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông, nhà Trần nhờ làm tốt công tác
an ninh chính trò mà tổ chức cuộc chiến tranh nhân dân thắng lợi. Cả ba lần kháng chiến,
nhà Trần đều cô lập bọn sứ giả nhà Nguyên, không cho chúng tự động đi lại để dò xét
kinh thành và đảm bảo bí mật quốc gia. Nhà Trần còn cấm nhân dân đi lại buôn bán với

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử



Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 90 –

các lái buôn Hồi Hột, không giao dòch buôn bán ở biên giới phía bắc. Nhà Trần còn chủ
động đặt quan hệ hữu nghò với Chiêm Thành để ổn đònh biên giới phía nam. Nhờ đó, an
ninh chính trò của đất nước được giữ vững, giặc Nguyên – Mông dù có chiếm được phần
lớn nước ta nhưng đều không thể bắt được bộ chỉ huy cuộc kháng chiến. Nhân dân ta
một lòng đoàn kết và đánh đuổi được quân xâm lược.
Nhà Minh xâm lược nước ta, nhân dân ta đã không ngừng nổi dậy giành quuyền độc
lập. Lê Lợi phát động cuộc khởi nghóa Lam Sơn. Trong thời kỳ xây dựng lực lượng, dù
quân giặc liên tục càn quét, tấn công vào căn cứ đòa của nghóa quân, nhưng nhờ làm tốt
công tác bảo mật mà cả ba lần nghóa quân rút về căn cứ Chí Linh đều thoát khỏi sự truy
nã của giặc Minh. Trong suốt thời gian đấu tranh giải phóng dân tộc, bộ chỉ huy nghóa
quân Lam Sơn đều nêu cao tinh thần yêu nước và đoàn kết của toàn dân để giữ vững an
ninh chính trò ở vùng giải phóng. Yếu tố bí mật nhờ đó đã phát huy tác dụng và hoàn
thành sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Quân Thanh xâm lược nước ta, mặc dù có sự chỉ đường của bè lũ Lê Chiêu Thống
nhưng hoàn toàn không biết gì ở nội bộ quân Tây Sơn. Quang Trung – Nguyễn Huệ đã
tận dụng tốt yếu tố bất ngờ để lần lượt đánh bại quân xâm lược chỉ trong một thời gian
ngắn.
Yếu tố an ninh chính trò là một trong những vấn đề quan trọng nhằm tạo nên sức
mạnh để tổ tiên ta giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh dân tộc.

4. NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO CHIẾN TRANH
“Nghệ thuật tổ chức chiến tranh là nghệ thuật tổ chức các lực lượng và kết hợp tất
cả các mặt trong chiến tranh, trong đó nghệ thuật quân sự là một bộ phận hết sức quan
trọng vì vũ trang là mặt chủ yếu trong chiến tranh nên nghệ thuật quân sự Việt Nam chỉ

đạo tất cả các mặt trong chiến tranh, nó có một truyền thống lâu đời” - Mấy vấn đề về
nghệ thuật quân sự Việt Nam, Văn Tiến Dũng.
Mục đích: đấu tranh để giành lại độc lập dân tộc hoặc đấu tranh để ngăn chặn sự
xâm lược của kẻ thù là để đạt được nội dung: toàn vẹn lãnh thổ bảo đảm được chủ
quyền và bảo đảm làm cho quân thù quân thù không dám xâm lược nữa. Muốn đạt được
mục đích đó phải xét đến nghệ thuật quân sự.
Các nhà sử học ghi chép lại đường lối chỉ đạo chiến tranh của các nhà lãnh đạo rất ít
ỏi. Sách Toàn Thư và các sách khác chỉ ghi chép lời nói của Trần Hưng Đạo và các vua
Trần.
Binh Thư Yếu Lược trên danh nghóa của Trần Quốc Tuấn nhưng thực chất có những
phần của đời sau thêm thắt vào.

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 91 –

Trong giai đoạn Trònh - Nguyễn phân tranh, cuốn Vạn Kiếp Tông bí truyền thư của
Trần Hưng Đạo đã bò mất hoàn toàn.
Quân Trung từ mệnh tập gồm có thư từ, chỉ thò của bộ chỉ huy nghóa quân Lam Sơn,
chúng ta cũng phải dựa vào diễn biến để cân nhắc đúng sai.
Mặc dù vậy ta vẫn có thể nghiên cứu được nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của cha
ông ta.

4.1. NGHỆ THUẬT CHIẾN LƯC
4.1.1. Tương quan lực lượng

Xét đến tương quan lực lượng để đề ra được đường lối thực hiện chiến tranh. Tục
ngữ ta có câu: “biết mình, biết người trăm trận đánh trăm trận thắng”. Nguyễn Trãi có
câu: “tri bổ, tri kỷ, năng nhược năng cường”, nghóa là biết mình biết người, biết chỗ
mạnh, chỗ yếu.
Kẻ thù về vật chất rất mạnh và chính họ đã tự khoe khoang là rất mạnh để thực hiện
tư tưởng bình thiên hạ. Người đương thời cho rằng nhà Lý đánh nhà Tống chỉ như châu
chấu đá xe. Ô Mã Nhi nói với Trần Khắc Chung “bọ ngựa dám chống xe liệu sẽ ra sao
?”. Thực tế thì kẻ thù cũng rất mạnh so với ta, dân số tỷ lệ là 13/1 tức gấp chúng ta 13
đến 14 lần, đất đai cũng như thế, dã tâm và tham vọng của họ rất lớn. Nhà Tống hai lần
xâm lược quy mô, nhà Nguyên 3 lần, nhà Minh 5 lần động binh. Tổ tiên ta biết kẻ thù
rất rõ nhưng không máy móc mà rất toàn diện và cụ thể để đấu tranh chống lại cuộc
chiến tranh phi nghóa của chúng.
Trong Quân Trung từ mệnh tập - Nguyễn Trãi viết: “Trời đất không dung tha, lòng
người đều căm giận”. Vua Trần gửi vua Nguyên các bức thư, trong đó có nói “trăm họ
đều căm giận”. Mặc dù nước ta nhỏ, dân ta ít nhưng trong quá trình tiến hành chiến
tranh, ta luôn có lợi còn kẻ thù thì bất lợi vì chúng khó huy động lực lượng, còn ta được
mọi người ủng hộ tức là ta rất mạnh về tinh thần.
Từ chỗ đó, tổ tiên đã nhận đònh mạnh yếu có thể chuyển hóa lẫn nhau. Nguyễn Trãi
nói: “người dùng binh giỏi ở chỗ biết rõ thời thế, được thời thế thì mất biến thành còn,
nhỏ hóa ra lớn, bất thời không thế thì mạnh hóa yếu, yên thành nguy” - Quân Trung từ
mệnh tập.
Tổ tiên ta thường quan niệm rằng nhỏ yếu đánh được lớn mạnh “kẻ nhân giả lấy
yếu trò được mạnh, kẻ nghóa giả lấy ít đòch được nhiều”- Quân Trung từ mệnh tập.
Trần Hưng Đạo nói “ lấy đoản binh chế được trường trận đấy là việc thường của
binh pháp” Toàn Thư .

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử



Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 92 –

4.1.2. Xét đến đường lối chiến tranh chung
Tổ tiên ta thường không chủ trương dùng đội quân chuyên nghiệp mà bằng: “vua tôi
đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”- Toàn Thư, hay “lấy đại nghóa thắng
hung tàn”, đánh vào lòng người, tuyên truyền lòng yêu nước trong nhân dân, dựa vào
sức mạnh của dân tộc để chiến thắng kẻ thù nhất đònh thực hiện được.
4.1.3. Tư tưởng chiến lược
Tư tưởng xuyên suốt trong các cuộc chiến tranh là chủ động tiến công dưới mọi hình
thức dựa trên cơ sở tinh thần yêu nước của nhân dân và lòng quyết tâm giành bằng được
độc lập dân tộc. Trên cơ sở tinh thần tự vệ mạnh mẽ đã nảy sinh ra cách đánh giặc của
người Việt Nam trong lòch sử nước ta: “Mỗi khi dân tộc ta vùng dậy chống ngoại xâm là
chỉ có tiến công chứ không có phòng ngự, tiến công kẻ xâm lược để bảo vệ độc lập dân
tộc của mình”- Lê Duẩn - Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, thanh niên trong các lực lượng
vũ trang hãy tiến lên.
4.1.4. Phương châm chiến lược
Tư tưởng chủ động tiến công cũng như bất cứ yêu cầu nào của cuộc chiến tranh là
nhằm bảo toàn lực lượng ta, tiêu hao lực lượng đòch, muốn vậy ta phải có phương châm
chiến lược đúng đắn.
- Một mặt thể hiện đường lối chính trò của ta.
- Mặt khác thể hiện ứng phó của ta, thích ứng với âm mưu của kẻ thù. Mục đích
của kẻ thù là đánh nhanh thắng nhanh để bóc lột sức người sức của và tránh sự chán nản
của binh lính và sự phản đối của nhân dân. Trong khi nếu tiến hành chiến tranh bằng
phương châm đánh nhanh thắng nhanh thì ta sẽ mắc mưu kẻ thù, sẽ bò thất bại hoàn toàn
hoặc phải kéo dài chiến tranh trong thế bất lợi vì:
Lực lượng ta ít ỏi thua kém về vật chất và con người nên tổ tiên ta chủ trương dựa
vào dân để xác đònh ngay từ đầu và bảo toàn lực lượng đánh lâu dài.

Xét qua diễn biến của các cuộc chiến tranh ta thấy tổ tiên ta không đònh rõ thời gian
lâu dài là bao nhiêu mà quan niệm chuẩn bò tốt về tinh thần và vật chất để có thể tiến
hành cuộc chiến tranh kéo dài. Trong quá trình đó, ta luôn luôn tìm mọi cách làm
chuyển biến tương quan lực lượng, chủ động tiêu diệt đòch, nắm thời cơ chính xác để
chuyển sang tiến công.
Trong cuộc kháng chiến chống Tần, tương quan lực lượng rất chênh lệch, do đó ta
chủ trương đánh lâu dài và sau 10 năm nhân dân ta đã thu được thắng lợi.

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 93 –

Trong cuộc khởi nghóa Hai Bà Trưng, không thực hiện đánh lâu dài trong khi lực
lượng đòch rất mạnh với khoảng 20 vạn quân, 2 nghìn tàu xe và những tướng lão luyện.
Hai Bà Trưng dàn quân ra đối đòch nên bò thất bại nhanh chóng.
Lý Bí cũng không chủ trương đánh lâu dài mà dàn quân ra các nơi nên thua hết trận
này đến trận khác, phải bò động kéo dài chiến tranh ra trong 3 năm nhưng vẫn thất bại.
Triệu Quang Phục lần đầu tiên đã xác đònh phải đánh lâu dài chống lại thế lực hùng hậu
nhà Lương. Trong khi ta bò suy yếu nghiêm trọng, Triệu Quang Phục lập cơ sở ở Dạ
Trạch (Vónh Phúc), dần dần tương quan lực lượng chuyển biến ta mạnh lên, đòch suy yếu
và sau 2 năm Triệu Quang Phục đã giành lại được đất nước.
Đến thời kỳ độc lập, tự chủ, tổ tiên ta đã rất khôn ngoan vận dụng phương châm
đánh lâu dài. Nhà Tống là một vương triều rất mạnh, huy động mấy chục vạn quân
chuẩn bò rất công phu để xâm lược nước ta. Lý Thường Kiệt chủ trương đánh lâu dài:
nhận đònh nhà Tống có lực lượng mạnh nhưng thế yếu: phân tích 3 khó khăn của nhà

Tống: mắc họa với nạn xâm lăng của Liêu, Hạ; nội bộ triều đình lục đục; nhân dân mâu
thuẫn với triều đình, do đó không dốc được toàn lực vào cuộc chiến tranh. Những cải
cách của Vương An Thạch càng làm cho tình hình nhà Tống thêm rối ren. Lý Thường
Kiệt chủ trương khoét sâu vào thế yếu của đòch làm cho thế của chúng suy sụp, chủ
động tấn công trước để tự vệ. Kháng chiến trên đất nước không đưa chủ lực lên biên
giới để đánh đòch mà ở đó chỉ có các đơn vò người dân tộc phòng thủ, cản bước tiến của
quân thù. Mặt khác, Lý Thường Kiệt dồn lực lượng chính ở bờ Nam sông Như Nguyệt,
tin tưởng vững chắc là sẽ kết thúc chiến sự thắng lợi.
Cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông, rõ ràng nhà Trần có chủ trương đánh lâu
dài. Mặc dù lúc đầu đã đònh chặn đánh đòch ở Bình Lệ Nguyên nhưng sau đó lại chủ
động rút lui và từng bước ngăn chặn bước tiến của đòch ra lệnh cho cả kinh đô sơ tán.
Từng bước đẩy đòch vào thế bò động, lúng túng đối phó rồi đánh trận quyết đònh. Lần
thứ hai, nhà Trần quyết đònh rút khỏi Thăng Long để lại kinh thành trống không, ở các
nơi khác khi giặc đến đều có sự sơ tán như vậy. Quân đòch truy đuổi, ta quyết không
giao chiến những trận lớn mà phục kích đánh các đơn vò nhỏ làm cho đòch hoang mang,
dao động, mệt mỏi. Lần thứ ba, Trần Quốc Tuấn nói “thế giặc năm nay dễ đánh”. Các
mặt trận ở biên giới, ta không để lực lượng đối đòch mà chỉ để một đơn vò mạnh ở Vân
Đồn nhằm chặn đánh đoàn thuyền tải lương thực của Trương Văn Hổ.
Cuộc khởi nghóa Lam Sơn, bộ chỉ huy nghóa quân ngay từ đầu đã chủ trương đánh
lâu dài nhằm xây dựng lực lượng và phát triển lực lượng, tránh chỗ giặc mạnh, đánh vào
chỗ yếu hiểm.

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 94 –


Cuộc kháng chiến chống Xiêm, các tướng lónh Tây Sơn rút lui chiến lược nhử đòch
vào sâu, ngụy trang bằng cách xin giảng hòa đó là chủ trương đánh lâu dài.
Cuộc kháng chiến chống Thanh, ngay từ đầu ta đã chủ trương đánh lâu dài. Nguyễn
Huệ chấp nhận cuộc rút lui chiến lược của Ngô Thì Nhậm, tránh nhuệ khí của đòch.
Rõ ràng phương châm chiến lược của tổ tiên ta là đánh lâu dài dựa vào sức mạnh
của nhân dân. Mỗi thời một vẻ nhưng luôn luôn dựa vào dân để phát triển lực lượng,
làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cuộc chiến tranh lâu dài thắng lợi.
4.1.5. Xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh
Muốn thực hiện được các mặt chiến lược nhằm biến ta từ yếu sang mạnh và buộc kẻ
thù không thể tiếp tục thực hiện dã tâm xâm lược, chúng ta phải hết sức linh hoạt.
Trần Hưng Đạo: “xem xét quyền biến như người đánh cờ”. Quang Trung: “lường
thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động, tùy theo tình thế mà bày
chước lạ”. Rồi từ đó rút ra được một số biện pháp trong nghệ thuật chỉ đạo chiến lược,
xây dựng lực lượng vũ trang lớn mạnh dựa vào sức mạnh của toàn dân. Nhưng “mục
đích của chiến tranh là tiêu diệt lực lượng của đòch” - Võ Nguyên Giáp. Nên chúng ta
vẫn phải xây dựng lực lượng vũ trang là biện pháp nòng cốt.
Dựa vào sức mạnh của toàn dân tộc và sức chiến đấu của toàn dân. Trong các cuộc
khởi nghóa, tổ tiên ta đã tuyển nghóa quân từ mọi thành phần, mọi tầng lớp. Mọi người
dân ở nước ta ngay từ đầu khi thoát ra khỏi thời kỳ nguyên thủy đã quen sử dụng vũ khí
thậm chí khi bò mất nước vẫn còn vũ khí trong tay. Bởi vậy, từ đầu thời kỳ Bắc thuộc,
nhân dân đã tự động nổi dậy đấu tranh suốt trong các thời kỳ đô hộ. Đó là một thực tế
mà các nhà đề xướng đã phân tích và nhìn nhận khả năng chiến đấu của toàn dân. Lực
lượng thû ban đầu được xây dựng dần dần thành đội quân chính quy của quần chúng
nhân dân các đòa phương.
Trong các cuộc chiến tranh tự vệ, việc xây dựng lực lïng vũ trang vẫn dựa vào
quan điểm như vậy. Lúc bình thường, trong điều kiện xã hội có giai cấp, nhà nước
không thể vũ trang toàn dân nhưng lại khuyến khích tinh thần thượng võ của nhân dân
để duy trì sức chiến đấu của toàn dân tộc. Nhà nước thi hành chế độ tuyển quân sáng
tạo “Ngụ binh ư nông” được bắt đầu từ thời Lý nhằm một mặt giảm gánh nặng kinh tế

cho nhà nước và tạo cho đinh nam tập quen dần với chiến đấu. Thanh niên nào cũng trải
qua thời kỳ nghóa vụ quân sự do đó khi hết hạn họ trở thành lực lượng dự bò ở nhà và khi
có chiến tranh họ sẵn sàng chiến đấu: “khi có việc toàn dân là lính”- Phan Huy ChúLòch triều Hiến chương lọai chí. Mặt khác, nhà nước cho phép thành lập các đội dân
binh ở các đòa phương để bảo vệ xóm làng trong những lúc bình thường và khi có chiến

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 95 –

tranh trở thành lực lượng kháng chiến rất quan trọng vì họ đã tập quen dần với chiến
đấu. Nguyễn Lộc, Nguyễn Lónh đã lập ra các đội dân binh và cùng quân triều đình đánh
bại đội quân hộ tống Trần Ích Tắc, Trần Kiện về nước. Nguyễn Truyền, Trần Thông,
Nguyễn Khả Lạp đã phối hợp với quân Trần đánh giặc. Đội dân binh của Lý Huề hoạt
động rất có hiệu quả ở Lạng Sơn.
Mặt khác, để đảm bảo có đội quân đông, nhà nước còn cho phép các vương hầu, tù
trưởng thiểu số có quân đội riêng. Nhà nước còn ban thưởng, cung cấp một phần cho các
đạo quân đó để khi cần có thể huy động được ngay lực lượng này. Chính sách đó rất có
tác dụng vì ta có thể huy động và xây dựng được đội quân mạnh. Quân đội của Thân
Cảnh Phúc, Hoằng Chân, Chiêu Văn (thời Lý chống Tống xâm lược).v.v..
Quan điểm dựa vào sức mạnh của toàn thể dân tộc, nhà nước phong kiến đã áp dụng
những chính sách trên để đánh thắng quân xâm lược, đó là số lượng lớn quân đội chính
quy kết hợp với quân đòa phương.
Mặt khác, nhà nước rất coi trọng việc giáo dục tinh thần quyết chiến cho quân đội
giáo dục tinh thần yêu nước. Nhìn vào các cuộc kháng chiến và khởi nghóa, ta thấy nhà
nước tuyên truyền vấn đề này rất rõ ràng: Lý Thường Kiệt nêu lên bài thơ “thần”, Trần

Hưng Đạo viết Hòch Tướng Só, quân lính nhà Trần thích vào tay hai chữ “ sát thát”.
Nguyễn Trãi nói: “ đạo làm tướng lấy nhân nghóa làm gốc, trí dũng giúp thêm”. Nhân
nghóa là yêu nước, yêu dân. Nguyễn Huệ khi đánh quân Thanh đã tập hợp toàn thể binh
só nêu tấm gương các anh hùng dân tộc để động viên binh lính chiến đấu nên đã tạo ra
sức mạnh rất lớn.
Ngoài ra các tướng lónh còn quan tâm đến việc xây dựng khối đoàn kết trong binh
lính: Trần Quốc Tuấn đã nêu rõ là “làm sao thu hút quân só như cha con một nhà thì
mới thắng được” - Toàn Thư. Thực hiện điều đó, các gia tướng của ông đã nêu cao tinh
thần đoàn kết trong quân đội nên lòch sử thường gọi binh lính của ông là “phụ tử chi
binh”. Nguyễn Trãi nói: “binh mạnh hay yếu không cứ ở nhiều, quân họ Hồ trăm vạn
người, trăm vạn lòng, quân tôi bất quá vài mươi vạn nhưng ai cũng một lòng”, Quân
Trung từ mệnh tập, Nguyễn Huệ nói: “quân lính cốt hòa hòa thuận không cốt đông”.
Bang giao tập. Bên cạnh đó, những người chiû đạo chiến tranh còn quan tâm tới sự đoàn
kết giữa quân đội và nhân dân. Quân đội dưới thời quân chủ chuyên chế vẫn mang tính
giai cấp của nó nhưng muốn tạo nên sức mạnh to lớn chống ngoại xâm, các nhà lãnh
đạo đã đề ra tính kỷ luật cao, nguyên tắc đó đã tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân.
Xây dựng tinh thần kỷ luật trong quân đội cao: Lý Thường Kiệt đánh sang Ung Châu
mà binh lính không hề đụng đến của cải của dân Tống, quân giặc đuổi đến, Yết Kiêu
vẫn giữ chiến thuyền ở bến Bãi.

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 96 –

Rèn luyện kỹ thuật chiến đấu: coi sức mạnh quân đội không chỉ ở số lượng mà coi

trọng chất lượng. Trần Hưng Đạo nói: “quân lính cần tinh nhuệ, không cần nhiều”.
Nguyễn Huệ “quân lính cần tinh nhuệ không cần đông”. Do đó, các nhà chỉ huy quân sự
luôn luôn chú trọng luyện tập quân sự, tập trận ở những nơi sung yếu.
4.1.6. Xây dựng hậu phương vững mạnh
Về kinh tế: các nhà nước quân chủ luôn luôn chú trọng đến việc xây dựng kinh tế
vững mạnh để đối phó với giặc phương Bắc bằng các biện pháp: khuyến khích nông
nghiệp, khai hoang, thủy lợi tạo cơ sở vững chắc, vững mạnh.
Trong các cuộc khởi nghóa, chú ý xây dựng căn cứ đòa (Lam Sơn) sau đó mở rộng ra
toàn quốc. Thực hiện “vừa cày ruộng, vừa đánh giặc”. Nhà nước đưa ra chính sách nông
nghiệp kòp thời để khuyến khích sản xuất.
Về chính trò: ổn đònh tình hình chính trò, củng cố các mặt biên thùy nhất là phía
Nam. Nhà Tống xúi Chiêm Thành tấn công nước ta, nhà Lý đã chủ động tiến công trước
để đập tan âm mưu đó vào năm 1075. Nhà Trần đem 2 vạn quân giúp Chiêm Thành để
chặn đánh đạo quân xâm lược của Toa Đô, khởi nghóa Lam Sơn liên kết với người Lào.
Quan trọng nhất là tuyên truyền giáo dục lòng yêu nước trong nhân dân, củng cố
khối đoàn kết. Nhà Trần mở hội nghò Diên Hồng và yết bảng khắp nơi để phát động
cuộc kháng chiến, bộ chỉ huy nghóa quân Lam Sơn chủ trương đánh vào lòng người
“Bình ngô sách”, Nguyễn Huệ “Chiếu lên ngôi”.v.v… để củng cố khối đoàn kết dân
tộc. Lê Lợi đoàn kết tất cả mọi người trong giai cấp đòa chủ và quý tộc cũ, liên kết giữa
giai cấp thống trò và giai cấp nông dân. Luật “Hồng Đức” tiến bộ và luôn bỏ thu tô thuế
mỗi khi mất mùa, hạn hán, chính sách “Nhu viễn” của triều đình vì các dân tộc ở đòa
đầu tổ quốc giáp biên giới.
Vì thế trong các cuộc kháng chiến thắng lợi, hậu phương rất ổn đònh, số quý tộc đầu
hàng rất ít.
4.1.7.Chọn phương hướng tác chiến chiến lược chính xác
Yếu tố này tác động thắng lợi tới 9/10 của cuộc chiến tranh. Cha ông ta đã biết tổ
chức tác chiến chính xác. Một trong những hướng đó là đánh vào hậu cần của đòch, vì kẻ
thù tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược viễn chinh ở xa không thể thực hiện hậu
cần tại chỗ được. Nhà Tống, Nguyên, mỗi tên xâm lược phải có 2 phu mang vác lương
thực và vũ khí theo. Vì vậy vấn đề lương thực là nhược điểm cố hữu của kẻ thù. Lý

Thường Kiệt phá tan Ung Châu là một cứ điểm xâm lược kiên cố: ngoài số quân bảo vệ
còn có 5 vạn quân sẵn sàng tràn qua biên giới. Để hạn chế lực lượng đòch, Lý Thường
Kiệt đã phá tan căn cứ đó, làm chậm lại cuộc xâm lăng của quân Tống, buộc chúng

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 97 –

phải chuẩn bò lại, Vương An Thạch phải từ chức 10 tháng sau khi Ung Châu bò san bằng.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên, nhà Trần phát động nông dân làm vườn không
nhà trống : “người Giao thường cất thóc gạo và trốn đi”. Trong lần thứ 3, nhà Nguyên
phải huy động lực lượng thuyền tải lương chở 17 vạn thạch thóc, chuẩn bò kho tàng ở
Vạn Kiếp để chứa thóc duy trì cuộc chiến tranh. Nhà Trần chọn phương hướng chính
xác, Trần Quốc Tuấn: “năm nay thế giặc dễ đánh”. Nhà Trần chủ động rút lui trước các
mũi tiến công của đòch nên quân đòch đánh 17 trận đều thắng. Trong khi đó mặt trận
Vân Đồn, quân ta được chuẩn bò rất chu đáo. Trần Quốc Tuấn giao cho Phó tướng Trần
Khánh Dư trực tiếp chỉ huy. Lúc đầu vua Trần gọi Trần Khánh Dư về trò tội, Trần Khánh
Dư xin khất vài ngày rồi chuẩn bò trận đòa từ Vân Đồn đến Cửa Lục rồi nhấn chìm toàn
bộ đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ.
Nguyễn Huệ tiêu diệt và phá hủy 18 kho lương của đòch.
Khởi nghóa Lam Sơn cấm nhân dân không được bán lương thực cho đòch.
Giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh khi thế lực kẻ thù còn mạnh ta đánh vào chổ
yếu hoặc sơ hở của đòch. Sơ hở của đòch ở Ung Châu là bất ngờ.
Khi tương quan lực lượng có lợi cho ta, ta đánh vào đầu não của kẻ thù làm cho các
nơi khác suy sụp và tan rã.

Kháng chiến chống Tống, ta đánh vào doanh trại Triệu Tiết và Quách Quỳ buộc
chúng phải rút quân và bò ta tiêu diệt. Kháng chiến chống Nguyên – Mông, ta đánh vào
Đông Bộ Đầu làm cho đòch tan rã và rút chạy. Lần 2, ta đánh vào chỗ dựa của đòch ở
Nam Sông Hồng, lần 3 ta đánh vào Sông Bạch Đằng trên đường rút chạy của đòch.
Kháng chiến chống Minh ta đánh vào đạo viện binh của Liễu Thăng là mũi chính
của đòch lại có nhiều sơ hở làm cho Mộc Thạnh phải rút lui, Vương Thông phải xin
hàng.
4.1.8. Liên tục tiến công quân giặc
Trong các cuộc khởi nghóa, tiêu biểu nhất là khởi nghóa Lam Sơn. Giai đoạn đầu
1418 –1423, mặc dù lực lượng còn nhỏ bé ta đã tiến hành 15 trận đánh như Mường Pòn,
Nga Lạc, Bến Bổng, Kình Lộng, Quan Du .v.v.. tức là vẫn chủ động tiến công đòch. Mặc
dù chúng vây quét ta, ta vẫn chủ động tiến công đòch giết được vài trăm, thậm chí vài
ngàn tên, buộc đòch phải đình chiến với ta vào năm 1423.
Trong các cuộc kháng chiến, giai đoạn 1 ta vẫn tiến công: Tống, Nguyên 3 lần khiến
cho nhà Nguyên phải than “chư man đã phục rồi lại phản”. Nguyễn Huệ mặc dù rút lui
chiến lược vẫn để Trương Văn Đa tiến công đòch làm cho chúng 6 tháng sau mới chiếm
được 3 tỉnh. Mặc dù rút lui chiến lược nhưng Ngô Thì Nhậm vẫn phái Phan Văn Lân lên

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 98 –

chặn đòch ở sông Cầu. Xuất phát từ điều kiện nước ta nếu chỉ rút lui đơn thuần thì không
đảm bảo được tiêu diệt sinh lực đòch khác với Napôlêông vào nước Nga. Ta đánh liên
tiếp làm cho đòch không kòp trở tay và kết thúc bằng trận quyết chiến chiến lược. Kháng

chiến chống Tống, Nguyên – Mông .v.v…, ta tiến công liên tục là cách đánh giặc của
người Việt Nam, kiến tạo thế mạnh quân sự trên các chiến trường mặc dù ta ít, đòch
nhiều kể cả giai đoạn phản công. Ta phải kết hợp cả chủ lực và dân binh đánh đòch tạo
ra thế mạnh, lợi dụng đòa thế lợi hại để tạo nên sức mạnh phát huy tinh thần yêu nước
cao độ của nhân dân và binh só, ta biết tập trung sinh lực vì ta đánh đòch trên đất nước ta
và tiến hành cuộc chiến tranh yêu nước nên ta tập trung không sợ mất đất, mất dân là
tạo nên thế mạnh trên chiến trường.
4.1.9. Đấu tranh quân sự kết hợp với những biện pháp khác
Kẻ thù dùng lực lượng quân sự rất mạnh nên ta phải kết hợp đấu tranh quân sự cùng
các hình thức khác trên cơ sở dựa vào dân thi hành quyền chính nghóa, chiến tranh yêu
nước lấy ít đòch nhiều đó là đấu tranh chính trò kết hợp ngoại giao, đòch vận nhằm vạch
trần tính chất xâm lược của kẻ thù.
Tờ “Lộ bố” của Lý Thường Kiệt khi ông trên đường tiến đánh Ung Châu có tác
dụng hạn chế sự chống đối của nhân dân Trung Quốc, nên Lý Thường Kiệt hành quân
từ Khâm Châu đến Ung Châu dễ dàng.
Kháng chiến chống Nguyên, nhà Trần nhiều lần vạch trần tội ác của quân Nguyên
qua nhiều bức thư gửi vua Nguyên.
Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết rất nhiều về việc đó như nêu lên nỗi khổ của nhân dân,
đấu tranh đòch vận, dụ hàng thành Nghệ An vạch rõ 6 điều thua của Vương Thông cho
quân só thấy. Tác dụng là đã hạ được các thành khác.
Đấu tranh ngoại giao nhằm mục đích hòa hoãn để củng cố thêm lực lượng tiến hành
cuộc chiến tranh đang gay go hoặc kết thúc chiến tranh một cách tốt đẹp nhất để đạt
mục đích của chúng ta.
Quách Quỳ “ai bàn đến đánh sẽ chém”: ốm đau, thiếu lương thực, bò ta tập kích
mạnh tiêu diệt hơn quá nửa nhưng không thể rút lui được vì sợ mất thể diện. Lý Thường
Kiệt chủ động giảng hòa khi đã đánh thắng quân giặc. Giảng hòa không nhục tướng só,
không đổ xương máu mà còn bảo tồn được tôn miếu.
Kháng chiến chống Nguyên, ta sử dụng nhiều biện pháp này: 3 năm cống 1 lần, ta
có hơn 20 năm chuẩn bò kháng chiến, dùng lý lẽ để thuyết phục kẻ thù: không
lạy chiếu thư, luôn luôn chuẩn bò lực lượng quốc phòng tích cực chuẩn bò kháng chiến…


ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 99 –

Khởi nghóa Lam Sơn, phương pháp này rất quan trọng. Năm 1423, ta giảng hòa phú
núi Chí Linh: “bên trong ta rèn khí giới, bên ngoài ta giả thác hòa thân”, tướng nhà Minh
tâu về triều đình là Lê Lợi hàng nhưng không chòu ra làm quan. Năm 1426 lực lượng ta
mạnh, nhà Minh đặt điều kiện tìm con cháu nhà Trần, Lê Lợi lập Trần Cảo để thương
lượng với kẻ thù. Ta vẫn tiến công, chuẩn bò điều kiện để phản công quét sạch kẻ thù.
Kết thúc chiến tranh, Vương Thông phải thề trước thần sông núi nước Nam là không
dám xâm lược nước ta nữa. Ta vẫn trao đổi ngoại giao, đưa chiếu cầu phong và cấp
thuyền cho quân Minh về nước.
Kháng chiến chống Thanh, ta thắng oanh liệt, gần 29 vạn quân Thanh bò tiêu diệt.
Quang Trung vẫn ra lệnh cho Ngô Thì Nhậm viết biểu để lập lại quan hệ ngoại giao và
nói với Phan Huy Ích: “nay quân Thanh đã bò thất bại tất lấy làm xấu hổ quyết không
ngừng tay nhưng hai nước đánh nhau thì không phải là phúc cho sinh dân, chỉ có những
lời lẽ khôn khéo mới ngừng được binh đao”- Quang Trung (chính biên liệt truyện).
Tóm lại: Đấu tranh chính trò, ngoại giao là củng cố thắng lợi cho đấu tranh quân sự.
Nhưng chỉ dựa trên cơ sở đấu tranh quân sự đã có kết quả thì đấu tranh ngọai giao mới
có kết quả để bảo đảm độc lập, hòa bình cho đất nước. Đó là năm biện pháp trên cơ sở
phương châm chiến lược của tổ tiên ta.

4.2. NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO CHIẾN DỊCH , CHIẾN THUẬT
Đònh nghóa: chiến dòch là một hệ thống các trận chiến đấu liên quan với nhau theo

một kế hoạch và sự chỉ huy thống nhất, diễn ra trong một không gian nhất đònh và trong
một thời gian nhất đònh nhằm đạt được nhiệm vụ đã đònh –Văn Tiến Dũng, Mấy vấn đề
về nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, yêu cầu của chiến tranh cần thiết phải
có những chiến dòch. Giai đoạn đầu, đòch chủ động tiến công ta theo nhiều hướng, giai
đoạn phản công, chúng vẫn mạnh hơn ta. Nên chúng ta không bao giờ có thể bằng một
trận đánh mà đạt mục đích. Vài trường hợp đánh nhanh gọn như Ngô Quyền, Lê Hoàn
rất hãn hữu nhưng phải chuẩn bò lâu dài.
Trận Bạch Đằng, Chi Lăng trong kháng chiến chống Tống năm 981 là hai trận trong
một chiến dòch. Lý Thường Kiệt đánh thành Ung Châu kiên cố nên mặt dù ở thế chủ
động nhưng vì ở trên đất đòch nên ta phải có sự chuẩn bò chu đáo để phá tan thành Ung
Châu.
Kháng chiến chống Nguyên, ta chuẩn bò nhiều trận cho Bạch Đằng vừa kìm hãm
vừa tiêu hao sinh lực đòch để đảm bảo đúng ngày nước triều lên là ngày 9 tháng 4 âm
lòch. Chống Minh là những trận Tốt Động, Chúc Động hay Chi Lăng, Xương Giang nằm

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 100 –

trong hệ thống chiến dòch dưới sự chỉ đạo chung, kế hoạch chung. Muốn thực hiện được
chiến dòch phải có quân mạnh, thông tin liên lạc tốt, bảo đảm chỉ huy nhanh nhạy, thống
nhất tốt. Nghệ thuật chỉ đạo chiến thuật là các hình thức tác chiến của tổ tiên xưa. Tổ
tiên ta thường sử dụng 3 hình thức tác chiến: đánh du kích, đánh vận động và đánh trận
đòa. Đánh du kích được sử dụng rất nhiều. Trong lòch sử đấu tranh chống ngoại xâm là

các hình thức như đánh lén, đánh nhỏ, đánh bất ngờ, mai phục là chiến tranh của người
yếu chống lại kẻ mạnh. Lê Lợi nói:“giặc đông ta ít, lấy ít đánh đông, chỉ ở chỗ hiểm
mới lập được công. Vả lại binh pháp có nói: nhử người đến chứ không để người nhử ta
đến ”- Lam Sơn Thực Lục.
Do đó tổ tiên ta sử dụng các biện pháp rất nhanh nhẹn. Kháng chiến chống Tần, ban
ngày ta bỏ trốn vào rừng, ban đêm ra đánh quân Tần. Phò mã Thân Cảnh Phúc lẩn vào
bụi rậm rồi ra đánh quân Tống khiến cho người Tống sợ như thiên thần.
Quân đội nhà Trần tổ chức đánh rất bất ngờ, đánh du kích. Những bãi cọc ở dưới
lòng sông Bạch Đằng, những hố bẫy ngựa trong kháng chiến chống Nguyên, những mũi
tên trên rừng rậm trong khởi nghóa Lam Sơn … đánh du kích kết hợp với chiến tranh
nhân dân là chiến tranh đánh lâu dài thích hợp với mọi lớp người. Chiến tranh du kích
trong lòch sử đấu tranh chống ngoại xâm có tác dụng rất lớn.
Đánh vận động: tiến hành chiến tranh trên nhiều hình thức trong đó có hình thức lưu
động. Truy kích đòch trong kháng chiến chống Nguyên, Thanh, Minh … Đánh vận động
là hình thức lưu động thích hợp khi tiến hành chiến tranh trong điều kiện ta ít, đòch
nhiều, giải quyết được vấn đề thiếu quân “tốc độ nhanh chóng của vận động có thể bù
đắp được sự thiếu quân vì chúng cung cấp được khả năng tấn công quân đòch trước khi
chúng tập hợp sinh lực. Thương nghiệp có câu “thì giờ là vàng bạc” thì trong chiến tranh
“thì giờ là bộ đội”. F. Ăngghen – Luận văn quân sự. Chúng ta thường phát huy ưu thế
thủy binh của ta.
Đánh trận đòa: công thành hay đánh dã chiến ngoài đồng nội so với đánh du kích và
vận động thì hình thức này có yêu cầu cao hơn về các mặt. Mỗi lần đánh trận đòa yêu
cầu cao về số lượng, chất lượng quân đội, kỹ thuật chiến đấu, vũ khí, tinh thần. Do đó
đây là hình thức tác chiến cao. Trong cuộc chiến tranh lấy ít đòch nhiều ta ít sử dụng
nhưng cũng có dùng. Lý Thường Kiệt đánh Ung Châu, Lê Lợi bao vây và hạ thành
Xương Giang, Chúc Động, Tốt Động, Nguyễn Huệ đánh đồn Ngọc Hồi, Hà Hồi, v.v..
Tóm lại kết hợp 3 hình thức để đạt kết quả cao nhất: Trần Hưng Đạo - Bạch Đằng:
du kích là nhiều chiến đòa cọc, thuyền chiến nhỏ, quân só nấp trong rừng, trên núi đá vôi
... Dòng sông Bạch Đằng là trận đòa lưu động trên sông để tiêu diệt hoàn toàn sinh lực
đòch. Chi Lăng- Xương Giang: du kích ở Chi Lăng bất ngờ tấn công giết chết Liễu


ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 101 –

Thăng. Truy kích đòch dồn chúng vào Xương Giang tiêu diệt chúng. Trận Ngọc Hồi Đầm Mực trong kháng chiến chống Thanh.
Những nguyên tắc chỉ đạo tác chiến: có 3 nguyên tắc:
- Tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu, chỗ sơ hở “yếu chống mạnh, ít đòch nhiều phải
dùng quân mai phục”- Nguyễn Trãi. Lê Lợi: “bỏ chỗ thực đánh chỗ trống, bỏ chỗ vững,
đánh chỗ hở thì sức dùng một nửa đã thành công gấp bội”.
- Hết sức linh hoạt, chủ động và cơ động Nguyễn Trãi: “thời, thời thuộc không nên
bỏ lỡ, việc binh giúp ở mau chóng. Mấy then đóng mở như xe chuyển mây bay, chỉ
trong chóc lát chợt nóng, chợt lạnh”. Trần Hưng Đạo: “ quyền biến như người đánh cờ”,
Lý Thường Kiệt đánh Ung Châu bất ngờ và lui về ngay.
- Tiến công mãnh liệt tiêu diệt ý chí xâm lược của kẻ thu,ø phục vụ việc lấy ít đánh
nhiều làm cho đòch phải từ bỏ ý chí xâm lược “bêu đầu Hốt Tất Liệt ở của Khuyết, rưã
thòt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai” hoặc “đánh trận đầu sạch không kình ngạc, đánh trận
nữa tan tác chim muông” - Nguyễn Trãi.

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam


- 102 –

KẾT LUẬN
1. Những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm là chiến tranh nhân dân độc đáo. Vào
những năm 60, Võ Nguyên Giáp đã cho rằng chiến tranh nhân dân phải do toàn dân
tiến hành là nhân dân chiến đấu dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân -Tạp chí
Quân đội Nhân dân 4.64.
Qua phân tích, các nhà lý luận và kinh điển cho rằng chiến tranh nhân dân
phải đạt 2 điều kiện: mục đích là bảo vệ khôi phục quyền lợi của nhân dân. Động
lực là toàn thể nhân dân tham gia vào cuộc chiến tranh. Từ đó ta có thể coi các cuộc
chiến tranh thời cổ trung đại là chiến tranh nhân dân nhằm gạt bỏ ách thống trò của
phong kiến ngoại tộc với sự tham gia đông đảo của giai cấp nông dân, nhưng về mặt
mức độ không cao vì giai cáp thống trò cần nông dân vì quyền lợi dân tộc và giai cấp
nhưng hạn chế không rõ ràng vì giai cấp thống trò nhân nhượng và đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc đó là đông đảo.
2. Nghệ thuật quân sự của tổ tiên ta độc đáo do kinh nghiệm của tổ tiên ta liên tục
phải đấu tranh “nhiều tai nạn chính là gốc để dựng nước mà sự băn khoăn lo lắng là
nền mở ra nghiệp thánh, trải biến cố nhiều thì tư lự sâu, lo lắng việc xa thì thành
công kỹ”-Nguyễn Trãi- Phú Núi Chí Linh.
Tổ tiên ta coi trọng sức mạnh tinh thần là yếu tố quan trọng nhất. Chiến tranh là sự
đối chọi giữa người với người nên cần phát huy tính năng động, chủ quan của con
người, do đó phải coi trọng sức mạnh của tinh thần. Tổ tiên ta biết nhìn nhận sự việc
một cách biện chứng nên thấy được đòch mạnh có thể chuyển thành yếu và ta yếu
thì có thể chuyển thành mạnh nên dám đứng lên chống giặc, nên chỉ đạo một cách
biện chứng tìm mọi cách để làm chuyển biến lực lượng rút ngắn thời gian chiến
tranh.
Nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh có tính dân tộc và sáng tạo, những người chỉ đạo
chiến tranh thông hiểu binh pháp nhưng không vận dụng máy móc, luôn nhớ đến
kinh nghiệm của tổ tiên.

Có tính nhân dân sâu sắc, những người lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện thuộc tầng
lớp trên và giai cấp phong kiến nó là sản phẩm của giai cấp phong kiến và cả nhân
dân. Do tinh thần yêu nước sâu sắc, ý chí kiên cường nên nhân dân ta liên tục nổi
dậy đánh giặc và đánh giặc rất anh dũng. Những người lãnh đạo chiến tranh đã nhận
thấy được thực tế đó nên đã lãnh đạo nhân dân một cách cụ thể. Nhân dân là người
thực hiện đường lối chiến tranh, họ cũng chính là người xây dựng đường lối quân sự
và thực hiện đường lối quân sự trong thời cổ trung đại.

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


Truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam

- 103 –

Một cuộc chiến tranh muốn thắng lợi cần hai yếu tố quan trọng “ có dám đánh hay
không và biết đánh hay không”, tổ quốc ta, dân tộc ta đã dám đánh và đã thắng.

ThS. Bùi Văn Hùng

Khoa Lòch Sử


×