Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận ô nhiễm môi trường biển việt nam dưới góc nhìn triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.57 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH
*************
TIỂU LUẬN:
Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Thành viên:
1. Nguyễn Việt Phong ( Nhóm trưởng)
2. Trần Ngọc Bích
3. Bùi Quý Thạch
4. Trần Thị Diễm Châu

TP.HCM, NĂM 2016


DANH SÁCH NHÓM
STT

Họ và tên

Mã số HV

Ghi chú

Công việc

1

Nguyễn Việt Phong


7701260904A

Nhóm trưởng

Lời mở đầu, hậu quả ô nhiễm
biển VN, tổng hợp.

2

Trần Ngọc Bích

7701260447A

Thành viên

Nguyên nhân ô nhiễm biển VN

3

Bùi Quý Thạch

7701260998A

Thành viên

Lý luận chung cặp phạm trù
nguyên nhân kết quả

4


Trần Thị Diễm Châu

7701260460A

Thành viên

Giải pháp khắc phục ô nhiễm
biển VN, kết luận.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

Giáo trình triết học ( TS.Bùi Văn Mưa )
Dantri.com.vn
Kttvntb.gov.vn
Sonla.gov.vn
Thanthienmoitruong.com
Tinquangbinh.net
Khpl.moj.gov.vn
Bvmt.ubdt.gov.vn


BIÊN BẢN SINH HOẠT NHÓM
Ngày 16/11/2016: Chọn đề tài cho nhóm. Giao nhiệm vụ mỗi người về nghiên cứu tìm
tài liệu có liên quan về đề tài đã chọn, lập đề cương chi tiết. Thời gian 1 tuần.


Ngày 23/11/2016: Tập hợp và thống nhất đề cương chi tiết. Sau đó phân chia đề cương
chi tiết, mỗi người làm một phần. Thời gian 2 tuần.
Ngày 10/12/2016: Tập hợp bài của các thành viên. Thảo luận từng phần, hoàn thiện về
mặt nội dung, bám sát theo yêu cầu về các phần và số trang từng phần theo đề cương
Thầy cho. Các thành viên về chỉnh sửa theo nội dung thảo luận. Thời gian 1 tuần.
Ngày 17/12/2016: Tập hợp bài các thành viên đã chỉnh sửa. Xem xét lại một lần nữa
và chốt về nội dung bài thảo luận. Giao cho nhóm trưởng về hoàn thiện. Thời gian 1
tuần.
Ngày 24/12/2016: Nhóm trưởng hoàn thiện bài, các thành viên xem và góp ý kiến về
mặt hình thức. Nhóm thống nhất toàn bộ về nội dung và hình thức bài. Nhóm trưởng
về sửa lại theo sự thống nhất và in bài nộp Thầy.



LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam nằm bên rìa Biển Đông với chiều dài bờ biển trên 3.260 km, có vùng
nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng lớn (trên 01 triệu km2,
gấp 03 lần diện tích đất liền), 02 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và gần 3.000 hòn đảo
lớn nhỏ. Vị trí địa lý này đã mang lại các tiềm năng về hải sản, dầu khí, nghiên cứu
khoa học, du lịch biển… và những lợi ích to lớn giúp Việt Nam xóa đói, giảm nghèo,
vững bước đi lên trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và hội nhập kinh tế, quốc
tế. Đối với Việt Nam, Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Với vị trí chiến lược thuận lợi về
biển do đất liền được bao bọc bởi bờ biển trải dài khoảng 3.260 km từ Bắc xuống
Nam. Biển Đông là cửa ngõ để Việt Nam phát triển các ngành kinh tế có quan hệ trực

tiếp với các miền của đất nước, giao thương với thị trường khu vực và quốc tế, là nơi
trao đổi và hội nhập của nhiều nền văn hóa, là tuyến phòng thủ quan trọng của Việt
Nam.
Tuy nhiên thực tế chính những nhu cầu lợi ích đó của con người đã và đang làm
cạn kiệt dần nguồn tài nguyên biển và làm cho môi trường biển ngày càng ô nhiễm
một cách trầm trọng.
Nhận thấy tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này, nhóm đã thực hiện
bài tiểu luận “Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam dưới góc nhìn triết học”. Hy vọng
bài tiểu luận đem lại một cái nhìn tổng quan về thực trạng của môi trường biển Việt
Nam hiện nay đồng thời tìm ra nguyên nhân và đưa ra những giải pháp nhằm giải
quyết vấn đề. Trong khi thực hiện còn nhiều sai sót, mong Thầy góp ý cho bài thảo
luận hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

6


Lý luận chung về cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả
1. Khái niệm nguyên nhân

I.

Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong
một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau thì gây nên một biến
đổi nhất định.
Tùy theo nức độ bao quát của khái niệm mà chúng ta có các khái niệm rộng hay
hẹp khác nhau. Trong đó phạm trù là khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những
thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ ản nhất của các sự vật hiện tượng trong một
lĩnh vực nhất định. Ví dụ: trong toán học có phạm trù “số”, “hình”, “điểm”; trong kinh

tế học có phạm trù “hàng hóa”, “giá cả”,…
Nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện. Nguyên cớ là cái không có mối
liên hệ bản chất với kết quả. Điều kiện là những yếu tố bên ngoài tác động tới hình
thành kết quả.
2. Khái niệm kết quả

Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác
động lẫn nhau của các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân – kết quả

Nguyên nhân và kết quả là một cặp phạm trù trong số 6 cặp phạm trù cơ bản
của phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lenin và là một trong những nội
dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng hai
phạm trù.
Theo Engels“Khoa học của tự nhiên xác nhận câu nói của Hegel cho rằng sự
tương tác là nguyên nhân cuối cùng (causa finalis) thật sự của các sự vật”
Nguyên nhân sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả
và ngược lại. Chỉ những mối liên hệ trước sau về mặt thời gian có quan hệ sản sinh
mới là mối liên hệ nhân quả. Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, bởi vì nó còn
phụ thuộc vào nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau. Một kết quả có thể do nhiều
nguyên nhân sinh ra. Mặt khác, một nguyên nhân trong những điều kiện khác nhau
cũng có thể sinh ranhững kết quả khác nhau. Ví dụ: Bão hay lũ lụt (nguyên nhân) xuất
hiện trước, sự thiệt hại cho mùa màng do bão hay lũ lụt gây ra xuất hiện sau. Tuy
7


nhiên không phải mối quan hệ nối tiếp nào cũng đề biểu hiện mối quan hệ nhân quả.
Ví dụ: Ngày không phải nguyên nhân của đêm. Mùa đông không phải là nguyên nhân
của mùa xuân.
Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp: một kết quả có

thể do nhiều nguyên nhân và một số nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả. Nếu các
nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn. Nếu cá
nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả chậm hơn.
Thâm chí triệt tiêu tác dụng của nhau. Ví dụ: gạo và nước đun sôi có thể thành cơm,
cháo,..tùy theo điều kiện nhiệt độ, mức nước,…
Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối, có sự chuyển hóa, tác động qua
lại tạo thành chuỗi liên hệ nhân – quả vô cùng vô tận.
Engels cho rằng: “Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa
là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định.
Nhưng một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung
của nó với toàn bộ thế giới, thì những khái niệm ấy lại gắn với nhau trong một khái
niệm về sự tác động qua lại một cách phổ biến, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn
thay đổi vị trí cho nhau. Chuỗi nhân quả là vô cùng không có bắt đầu và không có kết
thúc. Một hiện tượng nào đấy được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ cũng ở
trong một quan hệ xác định cụ thể”
Ông cũng khẳng định: “Nguyên nhân và kết quả là những biểu tượng có ý nghĩa là
nguyên nhân và kết quả khi nào được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt, nhưng
khi ta xét trường hợp riêng biệt ấy trọng mối liên hệ chung của nó với toàn bộ thế
giới, thì nguyên nhân hội tụ lại quyện vào nhau trong biểu tượng về sự tác động qua
lại phổ biến trong đó nguyên nhân và kết quả luôn đổi chỗ cho nhau: cái ở đây hay
bây giờ là nguyên nhân, thì ở chỗ khác hay lúc khác lại trở thành kết quả và ngược
lại”.
Trong những quan hệ xác định, kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi
xuất hiện, kết quả lại có ảnh hưởng trở lại đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có

8


thể diễn ra theo hai hướng. Hướng tích cực, tức là thúc đẩy sự hoạt động của nguyên
nhân. Hướng tiêu cực, tức là cản trở sự hoạt động của nguyên nhân.

Phép biện chứng duy vậy của triết học Marx-Lenin khẳng định mối liên hệ nhân
quả có tính khách quan, tính phổ biến, tính tất yếu:
Tính khách quan: mối quan hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ
thuộc vào ý thức của con người. Dù con người biết hay không biết, thì các sự vật vẫn
tác động lẫn nhau và sự tác động đó tất yếu gây nên biến đổi nhất định. Con người chỉ
phản ánh vào đầu óc mình những tác động và những biến đổi, tức là mối liên hệ nhân
quả của hiện thực, chứ không sáng tạo ra mối liên hệ nhân quả của hiện thực từ trong
đầu mình.
Tính phổ biển: mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đề có nguyên
nhân nhất định gây ra. Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là
nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn đề
nhận thức của con người về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó
trong hiện thực.
Tính tất yếu:cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau sẽ
gây ra kết quả như nhau. Tuy nhiên, trong thực tế không thể có sự vật nào tòn tại trong
những điều kiện hoàn cảnh hoàn toàn giống nhau. Do vậy tính tất yếu của mối liên hệ
nhân quả trên thực tế phải được hiểu là: Nguyên nhân tác động trong những điều kiện
và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do chúng gây ra càng giống nhau
bấy nhiêu.
II.

Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả để phân tích về nạn ô
nhiễm biển ở Việt Nam
1. Nguyên nhân ô nhiễm biển ở Việt Nam
1.1.
Nguyên nhân khách quan
Do các loại vi sinh vật biển, vi tảo biển gây hại ngày càng tăng về số lượng. Các

hiện tượng tự nhiên như núi lửa, bão động đất, sóng thần làm chết hàng loạt sinh vật
biển, xác của chúng không được xử lý gây ô nhiễm. Ngoài ra do sự đứt gãy của vỏ trái

đất làm rò rỉ mỏ dầu ở đáy đại dương cũng làm ô nhiễm biển.
1.2.

Nguyên nhân chủ quan
9


Những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường
và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng. Theo thống kê của Bộ Tư pháp,
hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường để điều chỉnh hành vi
của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy trình sử
dụng nguyên liệu trong sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn còn chưa
hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn bản
mới được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn
chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế...
trong việc bảo vệ môi trường.
Quyền hạn pháp lí của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực lượng
Cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động nắm
tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường. Các cở sở pháp lí, chế tài xử phạt đối với các loại hành vi gây ô nhiễm môi
trường và các loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn
chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành vi xâm hại môi trường.
Các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với
công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm trong việc
kiểm tra, giám sát về môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của các
cơ quan chức năng đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn mang tính hình thức,
hiện tượng “phạt để tồn tại” còn phổ biến. Công tác thẩm định và đánh giá tác động
môi trường đối với các dự án đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập và chưa được coi trọng
đúng mức, thậm chí chỉ được tiến hành một cách hình thức, qua loa đại khái cho đủ
thủ tục, dẫn đến chất lượng thẩm định và phê duyệt không cao.

Công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội còn hạn chế,
dẫn đến chưa phát huy được ý thức tự giác, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, cộng
đồng trong việc tham gia gìn giữ và bảo vệ môi trường.
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác bảo
vệ môi trường còn hạn chế; phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác kiểm tra chưa đáp
10


ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Do đó, trong nhiều trường hợp, đoàn kiểm tra không
thể phát hiện được những thủ đoạn tinh vi của doanh nghiệp thải các chất gây ô nhiễm
ra môi trường.
Do các hoạt động kinh tế gây ra:
Các chất thải từ sinh hoạt, y tế, rác thải từ các khu du dịch: Sự phát triển ngành
du lịch ngày càng gia tăng, nhiều khu du lịch mọc lên ven biển, du khách ngày càng
nhiều, nhu cầu ăn uống sinh hoạt tổ chức tiệc tùng bên bờ biển ngày càng tăng tương
ứng với sự gia tăng của rác thải ven biển.
Do sử dụng các hóa chất, thuốc trừ sâu trong nông nghiệp quá mức: Các hoạt
động chăn nuôi gia súc, thức ăn thừa không qua xử lý đưa vào môi trường và các hoạt
động sản xuất nông nghiệp khác: thuốc trừ sâu bị cấm như Aldrin, Thiodol, Monitor…,
phân bón, phun xịt thuốc,… gây ô nhiễm các dòng sông, mà các dòng sông đổ trực
tiếp ra biển.
Do các chất thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp: Tốc độc đô thị hóa, công
nghiệp ngày càng phát triển kéo theo các khu công nghiệp được thành lập. Do đó
lượng rác thải do các hoạt động công nghiệp ngày càng nhiều và chưa được xử lý triệt
để thải trực tiếp ra môi trường hay các con sông gây ảnh hưởng tới chất lượng nước.
Điển hình là vụ Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS), chi
nhánh của tập đoàn nhựa Formosa Đài Loan xây dựng hệ thống xả thải ngầm xả trực
tiếp ra biển gây ra hiện tượng các chết hàng hoạt khắp các tỉnh miền trung.
Hoạt động khai thác khoáng sản trên biển nhất là dầu khí, vấn nạn tràn dầu do sự cố
đắm tàu, rò rỉ tại các dàn khoan trên biển gây ô nhiễm trực tiếp tới môi trường biển ở

Việt Nam.
Các tỉnh từ Quảng Ninh đến Quảng Bình, trên 37.000 ha đã được khai thác để
đưa vào nuôi trồng thủy sản (chiếm 30-35% diện tích nước mặn lợ) phần lớn các cơ sở
đã đi vào nuôi trên quy mô công nghiệp, dẫn tới các nơi cưu trú sinh vật, bãi đẻ, bãi
giống bị hủy diệt, dịch bệnh tràn lan. Bình quân 1 ha nuôi tôm sẽ thải ra môt trường 5
tấn chất thải rắn và hàng chục nghìn m 3 nước thải trong một vụ nuôi. Việc khai thác
hải sản bằng mìn, sử dụng hóa chất độc hại làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn thủy sản,
gây hậu quả nặng nề cho vùng sinh thái biển.
11


2. Hậu quả ô nhiễm biển Việt Nam
2.1.
Làm suy giảm chất lượng nước biển

Ô nhiễm biển gây ra sự mất cân bằng nước. Các chất hữu cơ, các chất rắn lơ
lửng như Si, NO3, NH4, PO4…không được phân hủy, vẫn còn lưu lại trong nước với
hàm lượng lớn dẫn đến sự mất dần sự tinh khiết ban đầu làm chất lượng nguồn nước bị
suy giảm nghiêm trọng. Ở các cảng đều phải đối mặt với nước đục do liên quan đến
hoạt động của tàu thuyền ra vào cảng, nạo vét luồng lạch, đổ phế thải. Nổi cộm nhất là
ô nhiễm dầu. Mặt dầu loang ngăn chặn không khí hoà tan vào nước nên hàm lượng ô
xy trong nước thấp, trung bình 3,3-10,9mg/l vào mùa khô và 0,16-6,1mg/l vào mùa lũ,
trong khi đó nhu cầu ô xy rất cao, cần tới 13,6-31mg/l. Nước thải sinh hoạt và công
nghiệp đổ xuống biển chưa qua xử lý nên chỉ số vi trùng học luôn ở mức cao
2.2.

Ảnh hưởng tới sinh vật biển

Chất lượng môi trường biển thay đổi dẫn đến nơi cư trú tự nhiên của loài bị phá
hủy gây tổn thất lớn về đa dạng vùng bờ. Có khoảng 85 loài hải sản ở mức độ nguy

cấp khác nhau và trên 70 loài đã được đưa vào sách đỏ Việt Nam. Ô nhiễm làm cho
các loài sinh vật biển bị nhiễm độc.
Môi trường biển bị ô nhiễm đã dẫn tới suy thoái đa dạng sinh học biển, điển
hình là hệ sinh thái san hô. Vùng biển Việt Nam có khoảng 1.122 km2 rạn san hô, nếu
hệ sinh thái này bị mất, biển nước ta có nguy cơ sẽ trở thành "thủy mạc" không còn
tôm cá nữa.
2.3.

Ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống con người

Môi trường biển ỗ nhiễm không những ảnh hưởng trực tiếp tới sinh vật biển và
nước biển mà còn ảnh hưởng rất lớn tới đời sống kinh tế xã hội của người dân ở những
vùng biển bị ô nhiễm. Sự việc gần đây nhất là của công ty Formosa Hà Tĩnh xả thải
gây hiện tượng cá chết hàng loạt tại 4 tỉnh miền Trung là một minh chứng rõ rệt nhất .
Về kinh tế, riêng số hải sản chết dạt vào bờ được đánh giá khoảng 100 tấn. Sản lượng
khai thác ven bờ thiệt hại khoảng 1.600 tấn/tháng. Với hoạt động nuôi trồng thủy sản,
có 9 triệu tôm giống bị chết, hàng ngàn lồng nuôi cá cũng bị thiệt hại. Hoạt động du
lịch bị thiệt hại do khách hủy tour, công suất sử dụng phòng giảm mạnh.Về xã hội, sự
việc đã khiến giảm lòng tin của các tầng lớp nhân dân, đặt nghi vấn về quá trình thẩm
12


định, phê duyệt đầu tư; nghi ngờ về khả năng của các cơ quan chức năng trong ứng
phó các tình huống khẩn cấp về môi trường. Một bộ phận không còn tin vào sự an toàn
của cá biển và các sản phẩm liên quan như nước mắm, rong tảo…
Không chỉ ảnh hưởng trong ngắn hạn mà ô nhiễm môi trường còn ảnh hưởng
trong dài hạn tới con người qua các thế hệ. Con người thường là sinh vật cuối cùng
trong hệ tiêu thụ. Khi con người hấp thụ kim loại nặng, bộ phận tiêu hóa không thải ra
hiệu quả lắm cho nên kim loại nặng tích tụ trong người. Như vậy, các loại kim loại
nặng ảnh hưởng đến bộ máy tiêu hóa, phân chia tế bào, không những gây ung thư mà

còn có thể làm hư cả tế bào gốc, sinh dị tật, có thể gây ảnh hưởng đến nhiều thế hệ sau
nữa.
III.

Các giải pháp để tránh ô nhiễm dưới góc nhìn triết học.

Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng tình hình ô nhiễm biển ngày
càng trầm trọng hơn, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất cũng như
sức khỏe của con người. Việc khắc phục tình trạng này không phải là vấn đề một sớm
một chiều mà nó đòi hỏi cần phải có một chiến lược lâu dài và sự đóng góp công sức
của toàn xã hội.
Trước hết, nâng cao nhận thức của các đối tượng về việc giải quyết hài hòa các
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Tích cực tuyên truyền, phát huy giá trị
truyền thống của việc thích ứng, ứng xử, giao hòa tốt đẹp với thiên nhiên của con
người Việt Nam. Xây dựng, hoàn thiện và đầu tư các môn học về vấn đề môi trường
cho hệ thống các nhà trường với phương pháp dạy học thực hành, thực nghiệm qua
thực tế…phù hợp các lứa tuổi, bậc học của học sinh, sinh viên để coi “tự nhiên như
người mẹ”, môi trường sống là “thân thể vô cơ” của mình
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó những
chế tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lí hình sự) phải thực sự đủ mạnh để đủ
sức răn đe các đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, cần xây dựng đồng bộ hệ thống quản
lí môi trường trong các nhà máy, các khu công nghiệp theo các tiêu chuẩn quốc tế,
đồng thời tổ chức giám sát chặt chẽ nhằm hướng tới một môi trường tốt đẹp và thân
thiện hơn với con người.
13


Tăng cường công tác nắm tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường
(thường xuyên, định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn,
nhất là giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát môi trường các cấp,

nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lí kịp thời, triệt để những hành vi gây ô nhiễm môi
trường của các tổ chức, cá nhân. Đồng thời, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác môi trường; trang bị các phương tiện kỹ
thuật hiện đại để phục vụ có hiệu quả hoạt động của các lực lượng này. Theo đó, mọi
người phải được quán triệt, thông suốt trách nhiệm cộng đồng trong bảo vệ, gìn giữ
môi trường. Trong đó, cơ quan và đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên trách về môi
trường cần được đào tạo, bồi dưỡng để không ngừng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của thực tiễn bảo vệ, gìn giữ môi trường. Nâng cao ý thức trách nhiệm cho
từng cán bộ quản lý môi trường về công việc mà họ đang đảm nhận là cao cả, thiêng
liêng trong việc bảo vệ môi trường sống cho thế hệ hiện tại và tương lai.
Vận dụng một cách sâu rộng quan điểm phát triển bền vững. Bảo đảm sự lựa
chọn đúng đắn và phù hợp với quy luật khách quan về sự kết hợp hài hoà giữa mục
tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội, mục tiêu bảo vệ môi trường. Chú trọng công tác quy
hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo
tính khoa học cao, trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó
có chính sách phù hợp; tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo
như ở nhiều địa phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác quản lí nói
chung, quản lí môi trường nói riêng.
Cần chú trọng và tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thẩm định, đánh giá tác
động môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ quan chuyên môn tham
mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc cấp hay không cấp
giấy phép đầu tư. Việc quyết định các dự án đầu tư cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa
lợi ích đem lại trước mắt với những ảnh hưởng của nó đến môi trường về lâu dài. Thực
hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ
chức và công dân có thể tham gia phản biện xã hội về tác động môi trường của những
quy hoạch và dự án đó

14



KẾT LUẬN
Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự
vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Nhưng không
phải con người có thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận thức
khoa học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư
duy để giải thích được những hiện tượng đó.
Ph. Angghen nói “Hoạt động của con người là hòn đá thử vàng của tính nhân
quả” . Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện
tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện
tượng đó xuất hiện. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên
nhân này có vai trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động
thực tiễn chủ thể cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên
nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ quan,
nguyên nhân khách quan... Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động của các
nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác động
tích cực đến hoạt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực.
Ô nhiêm môi trường nói chung và ô nhiễm nguồn nước nói riêng là một minh
chứng cho sự tác động qua lại của cặp phạm trù nguyên nhân-kết quả. Từ những hành
động vô ý thức, vô trách nhiệm, xem thường pháp luật, vì lợi ích cá nhân bỏ qua lợi
ích cộng đồng, xã hội đã dần đến hậu quả là nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng,
lượng sản vật mà thiên nhiên ưu đãi bị thiệt hại, giảm sút mạnh.
Việc vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả trong triết học vào đời sống
thực tiễn là yếu tố quan trọng nhằm tìm hiểu, phân tích các nguyên nhân để từ đó có
thể tìm ra biện pháp tối ưu khắc phục các nguyên nhân tiêu cực đã dẫn đến hậu quả
không tốt nhằm đem lại đời sống – xã hội tốt đẹp hơn.

15


16




×