Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

tieu luan kinh te vi mo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.86 KB, 34 trang )

Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

LỜI MỞ ĐẦU
Trong các tổ chức thương mại trên thế giới hiện nay, thì tổ chức thương mại
WTO là một trong những tổ chức giúp các nước đang phát triển có thể trơ
thành các nước phát triển, giúp giao lưu thương mại một cách dẽ dàng hơn
và đạt hiệu quả cao trong nền kinh tế. Ngoài ra WTO còn làm cho các nước
đang phát triển có thể phát trển hơn nữa về mọi mặt của một đất nước như:
phát triển về nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Thấy được những điều
đó Việt Nam đã gia nhập vào WTO, với mục đích phát triển nền kinh tế
nước nhà, giúp chi việc giao thương ngày càng dễ dàng hơn. Mặc dù gia
nhập WTO sẽ làm cho một phần đất nước được phát triển nhưng cũng gặp
khá nhiều khó khăn, thách thức. Để biết được phần nào về những khó khăn
cũng như những phát trển mà Việt Nam có được khi gia nhập WTO, chúng
ta sẽ hiểu rõ hơn qua bài tiểu luận này. Bài tiều luận cung cấp những thông
tin về:
 WTO là gì? Vai trò và ý nghĩa của WTO
 Những phát triển mà WTO đem lại cho Việt Nam
 Hướng phát triển của Việt Nam khi gia nhập WTO
Tất cả những điều đó sẽ được thể hiện rõ hơn qua bài tiểu luận với đề tài “
Việt Nam gia nhập WTO”.

3


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

MỤC LỤC
Trang


I. WTO LÀ GÌ? VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA WTO:.......................................................4
1. WTO là gì?...................................................................................................................4
2. Nhiệm vụ của WTO:....................................................................................................5
3. Các nước gia nhập WTO:............................................................................................5
4. Các nguyên tắc cơ bản của WTO:................................................................................5
II. WTO ĐEM LẠI NHỮNG PHÁT TRIỂN GÌ CHO VIỆT NAM:...................................6
1. Việt Nam gia nhập WTO để làm gì?............................................................................6
2. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO:..................................................10
2.1 Cơ hội:..................................................................................................................10
- Gia nhập WTO chúng ta có một số cơ hội lớn :..............................................................10
2.2. Thách thức:.........................................................................................................13
3. Những phát triển của Việt Nam khi gia nhập WTO:..................................................18
3.1. Phát triển về nông nghiệp:..................................................................................18
3.2. Phát triển về công nghiệp:...................................................................................25
3.3. Phát triển về dịch vụ:..........................................................................................29
III. HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO:..........................30
1. Hướng phát triển trong nước:.....................................................................................30
2. Hướng phát triển ngoài nước:....................................................................................33

I. WTO LÀ GÌ? VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA WTO:
1. WTO là gì?
- WTO có tên đầy đủ là Tổ chức Thương
mại Thế giới (World Trade Organization).
Tổ chức này được thành lập và hoạt động
từ 1/1/1995 với mục tiêu thiết lập và duy
trì một nền thương mại toàn cầu tự do,
thuận lợi và minh bạch.
4



Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

- Tổ chức này kế thừa và phát triển các quy định và thực tiễn thực thi Hiệp
định chung về Thương mại và Thuế quan - GATT 1947 (chỉ giới hạn ơ
thương mại hàng hoá) và là kết quả trực tiếp của Vòng đàm phán Uruguay
(bao trùm các lĩnh vực thương mại hàng hoá, dịch vụ, sơ hữu trí tuệ và đầu
tư).

2. Nhiệm vụ của WTO:
- WTO được thành lập với 04 nhiệm vụ chủ yếu:
+ Thúc đẩy việc thực hiện các Hiệp định và cam kết đã đạt được trong
khuôn khổ WTO (và cả những cam kết trong tương lai, nếu có);
+ Tạo diễn đàn để các thành viên tiếp tục đàm phán, ký kết những Hiệp
định, cam kết mới về tự do hoá và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại;
+ Giải quyết các tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên
WTO; và
+ Rà soát định kỳ các chính sách thương mại của các thành viên.

3. Các nước gia nhập WTO:
- Tính đến ngày 11/1/2007 (thời điểm Việt Nam chính thức là thành viên
WTO), tổ chức này có 150 thành viên. Thành viên của WTO là các quốc
gia (ví dụ Hoa Kỳ, Việt Nam…) hoặc các vùng lãnh thổ tự trị về quan hệ
ngoại thương (ví dụ EU, Đài Loan, Hồng Kông…).

4. Các nguyên tắc cơ bản của WTO:
- Mặc dù khá dài và phức tạp, các Hiệp định trong WTO xoay quanh một số
nguyên tắc chủ đạo, trong đó có những nguyên tắc có thể tác động trực tiếp
đến quyền và lợi ích của các doanh nghiệp:
+ Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN): theo nguyên tắc này, mỗi nước thành

viên phải dành sự đối xử không phân biệt cho hàng hoá và dịch vụ đến từ
các nước thành viên WTO khác nhau.
Như vậy doanh nghiệp xuất khẩu vào một thị trường sẽ được cạnh tranh
công bằng với doanh nghiệp xuất khẩu đến từ các nước khác.
+ Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT): nguyên tắc này đòi hỏi mỗi nước
thành viên phải đối xử với hàng hoá, dịch vụ đến từ các nước thành viên
khác (sau khi đã hoàn tất các nghĩa vụ thuế quan) không kém thuận lợi
hơn hàng hoá, dịch vụ nội địa của mình.
Với nguyên tắc này doanh nghiệp xuất khẩu vào một thị trường nhập khẩu
về cơ bản sẽ được cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp nội địa nước
nhập khẩu đó.
+ Nguyên tắc cắt giảm thuế quan và không sử dụng các biện pháp phi
thuế quan: theo nguyên tắc này, các thành viên WTO phải cam kết cắt
5


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

giảm dần thuế quan và chỉ sử dụng hệ thống thuế quan này để bảo vệ sản
xuất trong nước - phải bãi bỏ các biện pháp bảo hộ phi thuế quan (hạn
ngạch, cấp phép nhập khẩu…) trừ một số trường hợp hãn hữu được phép.
Với nguyên tắc này, việc nhập khẩu hàng hoá sẽ trơ nên rõ ràng và dễ dự
đoán hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu và nhập
khẩu.
+ Nguyên tắc minh bạch: nguyên tắc này đòi hỏi các thành viên WTO
phải công khai, rõ ràng, dễ dự đoán trong các thủ tục, quy trình hay quy
định liên quan đến thương mại.
Với nguyên tắc này, doanh nghiệp sẽ dễ dàng tìm kiếm thông tin cần thiết
cho hoạt động kinh doanh của mình mà không phải mất quá nhiều chi phí.

Ngoài ra, minh bạch hoá cũng giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc
nhận biết và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình.

II. WTO ĐEM LẠI NHỮNG PHÁT TRIỂN GÌ CHO
VIỆT NAM:
1. Việt Nam gia nhập WTO để làm gì?
- Tại Việt Nam, dư luận đã tỏ ra phấn khơi về tin Việt Nam cuối cùng đã
được chấp thuận để gia nhập WTO, tức Tổ Chức Thương Mại Thế Giới. Thủ
Tướng Nguyễn Tấn Dũng là một trong những nhân vật đã nhanh chóng lên
tiếng ca ngợi những quyền lợi mà tư cách thành viên WTO có thể mang lại
cho Việt Nam. Nói ngắn gọn, đó là quyền được tiếp cận toàn bộ các thị
trường nước ngoài, là những thị trường có thể mang về nhiều lợi lộc.
Nhằm tìm cách đưa nhân dân Việt Nam ra khỏi tình cảnh nghèo khó, từ năm
1990 trơ đi, Việt Nam đã đeo đuổi nỗ lực gia nhập WTO, một nỗ lực mà Việt
Nam cần đạt được để có thể cạnh tranh với các nền kinh tế nghiêng về lĩnh
vực xuất khẩu như Việt Nam, trên một sân chơi bình đẳng.
- Theo luật WTO, Việt Nam phải loại trừ một loạt những biện pháp bao cấp
công nghiệp, thuế đánh trên hàng nhập khẩu, và những hạn chế đối với các
công ty nước ngoài. Để đổi lại, Việt Nam sẽ được tiếp cận toàn bộ các thị
trường Hoa Kỳ, Liên Hiệp Châu Âu và các thị trường rộng lớn khác ơ nước
ngoài.
- Lợi ích lớn nhất của việc gia nhập WTO là thị trường xuất nhập khẩu hàng
hoá của Việt Nam được mơ rộng. Hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sẽ được
cạnh tranh bình đẳng với các đối thủ khác, không còn bị vướng nhiều rào
cản về thuế quan và hạn ngạch như hiện nay.

6


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô

Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

- Tuy thế, điều mà các doanh nghiệp lo ngại nhất là khi Việt Nam gia nhập
WTO phải xoá bỏ các biện pháp bảo hộ và các doanh nghiệp phải chịu áp
lực cạnh tranh mạnh hơn từ bên ngoài ngay trên “sân nhà”.ví dụ:
+ Để phát triển ngành bò sữa nhằm giúp nông
dân xóa đói giảm nghèo, Việt Nam phải duy
trì thuế nhập khẩu sản phẩm sữa ơ mức cao.
Muốn gia nhập WTO, Việt Nam phải có lộ
trình giảm mức thuế này mà theo yêu cầu của
các nước thành viên phải xuống đến mức 0%.
Trong thương thảo, các nhà đàm phán không
chỉ chịu hai áp lực một bên là chính sách hỗ
trợ nông dân, bên kia là các nước xuất khẩu
sữa. Đó còn là sức cạnh tranh của các doanh nghiệp vì các doanh nghiệp
cũng muốn giảm thuế nguyên liệu sữa để tăng lợi nhuận. Đó còn là nhu cầu
tiếp cận nguồn dinh dưỡng giá rẻ cho người dân nếu thuế hạ.
+ Một ví dụ khác, ngành dệt may rất muốn thấy Việt Nam gia nhập WTO
trước năm 2005 vì sau đó các nước thành viên WTO sẽ không còn áp dụng
chế độ hạn ngạch cho sản phẩm dệt may. Nếu còn đứng ơ ngoài, Việt Nam
sẽ thấy hàng Trung Quốc thoải mái vào châu Âu còn mình vẫn phải chịu
nhiều ràng buộc. Thế nhưng vào WTO rồi liệu doanh nghiệp Việt Nam có
cạnh tranh nổi ngay trên thị trường nội địa khi thuế nhập khẩu sản phẩm
may mặc chỉ còn 5-10%?
- Nhưng, theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, chính áp lực cạnh
tranh lại là lợi ích mà xét trên tổng thể toàn bộ nền kinh tế Việt Nam sẽ được
thụ hương nhiều hơn. Cạnh tranh sẽ sàng lọc những doanh nghiệp làm ăn
kém hiệu quả và buộc các doanh nghiệp khác phải nỗ lực tự vươn lên. Đồng
thời, nó cũng sẽ tạo cơ hội cho người tiêu dùng tiếp cận, sử dụng hàng hoá,
dịch vụ với giá rẻ hơn, qua đó sẽ kích “cầu” trong nước, làm cho nền kinh tế

phát triển.
- Một ví dụ dễ thấy nhất là vấn đề cải tổ khu vực kinh tế quốc doanh. Gia
nhập WTO, doanh nghiệp quốc doanh sẽ mất nhiều đặc quyền, kể cả chuyện
độc quyền. Nếu tận dụng áp lực này để thúc đẩy việc cải cách sẽ cùng lúc
làm được cả hai chuyện. Người tiêu dùng trong nước dù không quan tâm gì
đến những đòi hỏi của WTO về chuyện mơ cửa thị trường dịch vụ cũng đã
than phiền quá nhiều tệ độc quyền, giá cao
7


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

- Một trong những điểm bất lợi với Việt Nam là việc cắt giảm thuế nhập
khẩu sẽ làm giảm nguồn thu cho ngân sách .Tuy Thuế nhập khẩu có thể
giảm, nhưng tổng thu ngân sách của Nhà nước chưa chắc sẽ giảm tương
ứng. Thuế nhập khẩu giảm dẫn đến giá hàng hoá giảm, làm cho nhu cầu
tăng, sản xuất phát triển nên Nhà nước sẽ thu được nhiều thuế trong nước
hơn. Đó là chưa kể những lợi ích về gia tăng việc làm cho xã hội do hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp được mơ rộng và phát triển.
- Về vấn đề bình đẳng thương mại, tuy Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp
định thương mại khu vực và song phương, nhưng hàng hoá Việt Nam vẫn có
những biểu hiện bị đối xử không công bằng. Việc Mỹ áp dụng biện pháp
trừng phạt về vấn đề cá da trơn và tôm của Việt Nam trên thị trường Mỹ; EC
áp thuế bán phá giá đối với sản phẩm giày mũ da của Việt Nam; và mới nhất,
đó là Pê ru cũng đang điều tra bán phá giá đối với sản phẩm giày mũ da của
Việt Nam… là những ví dụ điển hình. Việt Nam đặc biệt lo ngại rằng nếu
không được luật lệ của WTO bảo vệ thì Mỹ và các quốc gia khác có thể lại
kiện Việt Nam về các mặt hàng xuất khẩu đang mang lại nhiều lợi ích cho
Việt Nam như hàng dệt may.

- Nếu là thành viên của WTO, Việt Nam có thể đưa các vụ kiện trên ra trước
Uỷ ban WTO, chứ không phải là tại Bộ Thương mại Mỹ; EC… nơi khó có
thể đạt được sự phân xử công bằng như Việt Nam mong đợi. Như vậy, Việt
Nam cần phải đạt mục đích vào WTO để sử dụng cơ chế hoạt động của tổ
chức này nhằm bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng nói chung và của các
doanh nghiệp Việt Nam nói riêng.
- Nếu không sớm gia nhập WTO, Việt Nam bỏ lỡ cơ hội quan trọng để sớm
gia nhập tổ chức này vì việc tham gia WTO sẽ ngày càng khó. Vì việc gia
nhập WTO sẽ trơ nên phức tạp hơn, các cuộc đàm phán sẽ khó khăn hơn do
các quy định và điều kiện gia nhập WTO ngày càng chặt chẽ, yêu cầu ngày
càng cao.Nguy cơ rõ nhất có thể thấy khi vòng đàm phán Doha kết thúc, các
nước sẽ ký kết thêm một số thoả thuận mơ cửa thị trường, khi đó nghĩa vụ
mà Việt Nam phải chịu là buộc phải chấp nhận (không được đàm phán) sẽ
lớn hơn rất nhiều. Người ta gọi đó là “WTO +”. Thực tế, Việt Nam thì đang
đàm phán trên cơ sơ “WTO +”. Nếu Việt Nam không gia nhập WTO sớm,
thương mại Việt Nam trên thị trường thế giới sẽ chịu nhiều thua thiệt, nhất là
khi các nước đã mơ rộng cửa cho nhau.
- Sản phẩm ngành dệt may là một ví dụ, chế độ hạn ngạch đã được bãi bỏ
cho các nước thành viên, trong khi Việt Nam vẫn bị áp dụng. Về thuế quan,
8


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

các nước thành viên dành cho nhau mức thuế theo Qui chế Tối huệ quốc
(khoảng 5%), trong khi Việt Nam phải chịu mức cao hơn gấp nhiều lần. Thị
phần của Việt Nam trên thị trường quốc tế do đó sẽ nhỏ lại. Khả năng cạnh
tranh, cơ hội làm ăn của doanh nghiệp Việt Nam cũng ngày càng bị thu hẹp.
- Về mặt uy tín thương mại quốc tế, việc Việt Nam không gia nhập WTO

sớm đồng nghĩa với việc Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu cơ bản của
hội nhập theo con đường của cộng đồng quốc tế. Nó gây cho cộng đồng thế
giới có cách nhìn về Việt Nam chưa đủ năng lực và các điều kiện tham gia
sân chơi chung trong xu thế toàn cầu hoá. Lòng tin của cộng đồng quốc tế
đối với môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam sẽ bị giảm sút, kéo theo
sự suy giảm về đầu tư nước ngoài, các nguồn viện trợ, giảm động lực phát
triển của các doanh nghiệp Việt Nam và kéo theo tình trạng vẫn “lạc hậu”
của đất nước.
Tuy nhiên, cũng cần nói thêm, không phải bất kỳ một quốc gia nào trên thế
giới cũng mong muốn sớm gia nhập WTO. Việc gia nhập WTO vào thời
điểm nào ơ mỗi quốc gia phụ thuộc rất lớn vào điều kiện của nước đó.
Nhưng với Việt Nam, xét trên bình diện tổng thể toàn bộ nền kinh tế thì gia
nhập WTO là cơ hội lớn và là sự lựa chọn đúng đắn đối với Việt Nam, bơi vì
nó mang lại nhiều lợi ích to lớn hơn so với những khó khăn có thể có, và suy
cho cùng biết tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức cũng chính là đã vươn
lên được tầm cao mới. Chính sách của nhà nước chúng ta là :Mơ rộng quan
hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh hoạt
động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh
tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục
tiêu cao nhất.
- Nhấn mạnh ý nghĩa của sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, nguyên Phó Thủ
tướng Vũ Khoan đánh giá: “Nếu không hội nhập thì chúng ta sẽ chịu những
rào cản lớn hơn,.... .Nổi bật nhất là thể chế của chúng ta đã đổi mới đáng kể,
trước và sau khi ra nhập WTO, đặc biệt nghị định 30 của chính phủ về vấn
đề giảm bớt 30% thủ tục, cũng là biểu hiện mới từ sức ép của quá trình hội
nhập, sức ép của quá trình khủng hoảng đưa tới những cải cách đó. Chúng ta
đã dần nhận biết rõ hơn cái đỏng đảnh của thể chế thị trường và nền kinh tế
thế giới và từ đó tìm cách ứng phó cơ động linh hoạt. Kết quả là chúng ta
ứng phó tương đối thành công, qua đó nó bộc lộ rõ những cơ hội, thách thức
của quá trình hội nhập đồng thời bộc lộ rất rõ điểm mạnh điểm yếu của nền

kinh tế Việt Nam”.

9


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

2. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO:
2.1 Cơ hội:
- Về cơ hội, “Mối lợi lớn nhất là các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ
không còn bị phân biệt đối xử. Bình đẳng bước vào thị trường với 149 nước
thành viên khác, sẽ được quyền sử dụng các cơ chế giải quyết của WTO khi
có sự tranh chấp thương mại với các quốc gia thành viên khác. Hàng xuất
khẩu của Việt Nam sẽ được bảo vệ trong các cuộc tranh chấp.
- Việt Nam có thể cùng với các quốc gia đang phát triển khác gây áp lực để
được giúp đỡ hay cứu xét đặc biệt trong việc áp dụng luật lệ của WTO. Điều
này sẽ giúp Việt Nam thêm sức mạnh và điều kiện tốt để cạnh tranh với thế
giới. Qui chế thành viên WTO sẽ khiến thị trường Việt Nam được nhìn ơ
một góc độ khác.
- Thị trường Việt Nam sẽ hấp dẫn hơn với giới đầu tư nước ngoài đã quen
thuộc với cung cách làm việc của WTO. Họ sẽ đem đến những công nghệ
tiên tiến, những thói quen kinh doanh tốt hơn. Những điều này sẽ giúp gia
tăng mức sản xuất tại Việt Nam, phát triển thị trường nội địa, tạo công ăn
việc làm cho dân chúng. Thị trường nội địa phát triển sẽ cho người tiêu dùng
có nhiều chọn lựa hơn về chất lượng sản phẩm và dịch vụ không có được
trước đó”.
- Gia nhập WTO chúng ta có một số cơ hội lớn :
+ Ðây là sân chơi lớn toàn cầu. Việt Nam gia nhập sẽ
tăng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

+ Chúng ta cần thị trường toàn cầu để phát triển kinh
tế, thương mại và thu hút đầu tư. Hiện nay, xuất khẩu
của chúng ta tăng tương đối nhanh, có năm 23%, có
năm 19%, năm 2005 kim ngạch của chúng ta đạt 32,5
tỷ USD. So với các nước trong khu vực thì như vậy là rất nhỏ. Thí dụ: so với
Thái-lan, 63 triệu dân, kim ngạch đạt hơn 100 tỷ USD. Chúng ta chỉ bằng
1/3 trong khi dân số là 83 triệu người; nếu so với Philippines, chúng ta bằng
2/3.
Muốn thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh thì kim ngạch xuất khẩu của chúng ta phải đạt 100 tỷ USD trơ
lên, nhập khẩu phải ơ mức tương đương. Hàng hóa và dịch vụ Việt Nam còn
10


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

bị phân biệt đối xử, khi gia nhập WTO những phân biệt đối xử đó mới được
dỡ bỏ. Thí dụ, xuất khẩu các mặt hàng dệt may, giày dép sang châu Âu; vẫn
không được hương ưu đãi thuế quan đối với nông sản, nên không bán gạo
vào châu Âu được. Hàn Quốc bảo hộ gạo, có hạn ngạch, gia nhập WTO
chúng ta mới được chia hạn ngạch. Với Hoa Kỳ, không gia nhập WTO
chúng ta vẫn bị hạn ngạch dệt may. Nếu gia nhập WTO, chúng ta được dỡ
bỏ hạn ngạch dệt may. Gia nhập WTO chúng ta mới dỡ bỏ được rào cản,
phân biệt đối xử mà chỉ dành riêng cho các thành viên WTO.
+ Gia nhập WTO chúng ta có hệ thống luật pháp minh bạch, rõ ràng, dễ dự
đoán thu hút các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài. Vì trong đàm phán
WTO chúng ta có hai loại: đa phương và song phương. Với đa phương yêu
cầu đầu tiên là phải minh bạch hóa chính sách. Chúng ta đã trả lời hơn 3.000
câu hỏi liên quan chính sách kinh tế, đầu tư, tài chính, ngân hàng. Chính vì

vậy mà trong đoàn đàm phán chính phủ của chúng ta đã phải bao gồm tất cả
các bộ, ngành tham gia để đảm đương được khối lượng công việc lớn, trả lời
nhiều vấn đề liên quan kinh tế, thương mại. Chúng ta phải có chương trình
xây dựng pháp luật.
Gia nhập WTO chúng ta phải có các văn bản pháp luật liên quan các hiệp
định, các quy định của WTO. Vì vậy, chúng ta có một kế hoạch sửa và xây
mới 25 luật và pháp lệnh. Chúng ta sẽ quyết tâm làm bằng được. Quốc hội
sẽ dành ưu tiên để trong các phiên họp dành thời gian xây dựng các luật, coi
đây là việc trọng tâm của Quốc hội (năm 2005 sửa và xây mới 29 luật, năm
2006 sửa và xây mới 10 luật). Trong toàn bộ các luật và pháp lệnh mà chúng
ta cam kết đa phương sẽ sửa và xây mới là 25 luật và pháp lệnh, thì chúng ta
đã làm xong 24 luật và pháp lệnh. Còn một văn bản luật, chúng ta đang
trong quá trình soạn thảo, dự kiến phiên tháng 10-2006 sẽ hoàn thành. Vậy,
Việt Nam là nước đầu tiên có hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh để gia
nhập WTO.
* Ðể đổi mới kinh tế, cải cách hành chính Việt Nam phải xây mới và sửa
đổi 100 luật. Như vậy, số văn bản phục vụ đàm phán, gia nhập WTO chỉ
bằng 1/4 số văn bản luật pháp phục vụ cải cách hành chính, và đổi mới kinh
tế. Ðiều đó thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ, Quốc hội Việt Nam tích
11


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Ông Chủ tịch Ban công tác, các
thành viên Ban công tác, kể cả đoàn Hoa Kỳ cũng đánh giá rất cao quyết tâm
của Việt Nam trong việc sửa đổi hệ thống pháp luật trong thời gian vừa qua.
* Chúng ta thấy các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến tiến trình gia
nhập WTO của Việt Nam. Vì họ cho rằng, nếu Việt Nam gia nhập WTO thì

hệ thống pháp luật sẽ phù hợp sân chơi của thế giới và nó sẽ ổn định. Chính
vì điều đó mà đầu tư nước ngoài năm 2005 tăng hơn rất nhiều so với 2004,
sáu tháng đầu năm 2006 tiếp tục tăng. Các dự án đầu tư nước ngoài của Hoa
Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore,... nhất là dự án lớn bắt đầu vào Việt
Nam, kể cả công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia có vai trò rất quan
trọng đối với nền kinh tế và thương mại toàn cầu. Theo thống kê của WTO,
trên thế giới có khoảng 70 nghìn công ty đa quốc gia, chiếm 1/3 thương mại
toàn cầu. Các nước đều muốn các công ty đa quốc gia đầu tư vào nước mình,
vì họ có công nghệ, vốn, thị trường toàn cầu. Không phải họ đầu tư vào một
nước là họ vào thị trường nội địa của nước đó, mà họ còn tính cả thị trường
khu vực, toàn cầu. Nơi nào có lợi thế hơn sẽ đầu tư vào và xuất khẩu đi các
nước khác ơ khu vực.
- Gia nhập WTO, chúng ta sẽ có điều kiện chủ động tham gia chính sách
thương mại toàn cầu. Xu hướng trong WTO, lần đầu trong hội nghị Hồng
Kông vừa qua đã đề cập công tác bình đẳng và cân bằng thương mại giữa
các thành viên của WTO. Yêu cầu các nước phát triển mơ cửa thị trường
hàng nông sản, bỏ trợ cấp xuất khẩu để tạo cho thương mại toàn cầu phát
triển bền vững và tạo điều kiện cho thương mại phát triển công bằng và
không bị bóp méo.
- Gia nhập WTO, những tranh chấp được giải quyết tốt hơn: Xu hướng các
nước là dùng WTO để giải quyết tranh chấp. Giải quyết tranh chấp trong
WTO là dễ thực thi hơn. Thí dụ, một nước A áp thuế chống bán phá giá với
một nước thành viên WTO mà tổng thuế đó tương đương với 100 triệu USD,
khi WTO giải quyết tranh chấp, đi đến quyết định là kiện chống bán phá giá
không đúng, yêu cầu nước kiện kia bỏ đi. Nếu không bỏ, thì nước bị kiện có
quyền nâng thuế nhập khẩu các mặt hàng của nước kia lên tương đương mức
100 triệu USD. Do vậy, cơ chế đó thực thi trong cuộc sống nhiều hơn, dễ
12



Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

thực hiện hơn là cơ chế giải quyết tranh chấp qua trọng tài quốc tế và tòa án.
Gia nhập WTO không có nghĩa các vụ kiện chống bán phá giá sẽ giảm đi.
Chúng ta càng tăng xuất khẩu, thì tranh chấp thương mại sẽ càng tăng. Chỉ
có điều mức độ chúng ta sẽ được giải quyết công bằng hơn. Nếu trước đây,
năm 1990 chúng ta đạt kim ngạch xuất khẩu 2,4 tỷ USD, nay chỉ trong một
tháng, chúng ta đã đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 3 tỷ USD. Khi vào WTO, để
đẩy mạnh tăng trương kinh tế, tăng xuất khẩu, lúc đó chúng ta sẽ đạt đến
mức xuất khẩu 100 tỷ USD. Mỗi tháng chúng ta đạt kim ngạch xuất khẩu
gần 10 tỷ USD. Như thế, mức độ chúng ta tham gia thị trường thế giới càng
tăng, thì các tranh chấp quốc tế về thương mại cũng tăng. Gia nhập WTO
không có nghĩa là hết tranh chấp quốc tế về thương mại. Chỉ có điều chúng
ta không bị phân biệt đối xử nữa.
- Gia nhập WTO chúng ta phải tiến hành đàm phán đa phương và song
phương. Ða phương là để chúng ta minh bạch hóa các chính sách và đi đến
cam kết các chính sách kinh tế vĩ mô. Ði đến cam kết các chính sách kinh tế
vĩ mô về đa phương, cho đến nay, cơ bản chúng ta chấp nhận các hiệp định
của WTO khi chúng ta gia nhập. Chúng ta bỏ các biện pháp trợ cấp không
đúng với quy định của WTO: trợ cấp liên quan tỷ lệ xuất khẩu; tỷ lệ nội địa
hóa,... Các trợ cấp mà WTO cho phép chúng ta vẫn thực hiện: trợ cấp liên
quan xúc tiến thương mại; đầu tư, du lịch, nâng cao chất lượng hàng hóa,
cước phí vận tải,... Một vấn đề quan trọng của vòng đàm phán Doha đó là
vấn đề trợ cấp hàng nông sản. Việt Nam là nước rất đặc biệt, đất chật, người
đông. Khi đàm phán với Australia thì thấy một hộ của họ có đến 200 ha. Còn
bình quân đất canh tác Việt Nam chỉ có 0,3 ha/hộ. Nhưng, Việt Nam lại có
nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu được xếp hạng trên thế giới. Ðây là một
sự thật: gạo (có lúc xếp thứ 2, có lúc thứ 3 thế giới); cà phê (đứng thứ 2 thế
giới), tiêu (số 1 thế giới), điều (số 2 thế giới), chè chúng ta có sản lượng

đứng thứ 8 thế giới, hải sản, thủy sản cũng được xếp thứ 8, 9 thế giới. Ðây là
trường hợp rất đặc biệt của thế giới. Cho nên, trong đàm phán song phương,
nhiều nước Mỹ la-tinh yêu cầu đàm phán là vì thế.
2.2. Thách thức:
- Chúng ta kết thúc đàm phán song phương về gia nhập WTO, chúng ta cũng
gặp rất nhiều thách thức. Thứ nhất, chúng ta muốn có thị trường toàn cầu thì
chúng ta phải mơ cửa thị trường cho các nước. Ðây là thách thức lớn nhất.
Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam tuy bây giờ có số lượng rất đông 230 nghìn
13


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

doanh nghiệp nhưng phần lớn là nhỏ và vừa, cho nên năng lực cạnh tranh
kém. Ðó cũng là thách thức. Nhưng cũng có điều các doanh nghiệp Việt
Nam năng động và cũng chuyển động rất nhanh khi môi trường kinh doanh
thay đổi, nhưng lại bị hạn chế bơi vốn, công nghệ và năng lực. Từ đó dẫn tới
năng lực cạnh tranh thị trường các mặt hàng của Việt Nam bị hạn chế. Tất
nhiên, từng ngành có khác, năng lực cạnh tranh chỉ là tương đối, nay khác,
mai khác. Thí dụ, đóng tàu chẳng hạn, trước đây có bao giờ Việt Nam nghĩ
là sẽ đóng nhiều tàu biển đâu, nhưng sau khi lợi thế về đóng tàu thay đổi,
chuyển từ châu Âu sang Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, lương công nhân rất
cao, thì Việt Nam lại trơ thành nơi hấp dẫn đối với ngành đóng tàu trên thế
giới. Chúng ta có ưu điểm: công nhân nhiều, nhiều vũng, vịnh kín có thể
đóng tàu quanh năm. Ngành may mặc thì lương công nhân ơ các nước
ASEAN cao, họ sẽ chuyển sang Việt Nam; Thái Lan, Malaysia đang rất
thiếu lao động. Malaysia mỗi năm phải nhập khẩu đến ba triệu lao động,
Singapore nhập khẩu 0,5 triệu lao động. Các nước khác phải chuyển sang
Việt Nam. Ở nước ta, Singapore có hai khu công nghiệp. Họ chuyển các lĩnh

vực ít khả năng cạnh tranh sang ta. Ðây là một lợi thế. Chúng ta thấy rằng
các doanh nghiệp Việt Nam lại phải chấp nhận sự cạnh tranh như thế. Thứ ba
là, rất nhiều chính sách liên quan kinh tế thương mại sẽ thay đổi. Thí dụ
phần liên quan trợ cấp cũ mà không phù hợp, WTO sẽ bỏ hạn ngạch, cấp
phép, rồi cũng sẽ bỏ hết. Như thế tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp của
chúng ta. Nhưng đồng thời làm cho các doanh nghiệp lâu nay dựa vào đó
sống và phát triển phải chuyển sang hình thức kinh doanh không được bảo
hộ hoặc mức bảo hộ thấp.
- Thuế cũng như vậy, Nhà nước giảm thuế cũng tác động một phần đến ngân
sách. Phần đóng góp ngân sách từ thuế nhập khẩu mỗi ngày một giảm.
Trước kia, thuế nhập khẩu có lúc đến 30% GDP, bây giờ chỉ còn 15%,
nhưng kim ngạch buôn bán tăng thì nó tăng. Chúng ta tăng kim ngạch buôn
bán để tăng thuế. Hoặc có những cam kết chúng ta đã thực hiện rồi, như trị
giá hải quan, chúng ta bỏ thuế mà áp dụng mức thuế tuyệt đối... Các doanh
nghiệp nhập khẩu, giá theo giá hợp đồng. Có một số doanh nghiệp ảnh
hương, nhưng kiểm tra, kiểm soát thì nó đi vào trật tự. Thế giới cũng phải
trải qua giai đoạn đó không riêng quốc gia nào. Qua hậu kiểm để bảo đảm
14


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

thu thuế. Vấn đề an sinh xã hội, sẽ phải giải quyết tình trạng một số doanh
nghiệp nhỏ và vừa hoặc không có năng lực cạnh tranh sẽ gặp khó khăn, phá
sản. Vậy giải quyết vấn đề trợ cấp, việc làm như thế nào cho lao động các
doanh nghiệp này, đào tạo lại để họ tìm việc làm mới. Ðấy là những việc
chúng ta phải làm.
- Vấn đề nguồn lực, cái quyết định nhất là con người, khi chúng ta mơ cửa
vấn đề cạnh tranh giành nguồn lực này rất khốc liệt. Chúng tôi hỏi Singapore

khi mơ cửa sợ nhất cái gì, phía bạn trả lời quan trọng là làm sao giữ được
người tài để phục vụ đất nước. Khi các doanh nghiệp nước ngoài vào, các
cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra, các doanh nghiệp sẽ dùng lương để thu hút người
lao động giỏi, cho nên chúng ta, một mặt, cũng phải có chiến lược đào tạo,
giữ những người có năng lực làm cho mình, giữ như thế nào tùy vào từng
doanh nghiệp, không có bài toán chung cho tất cả. Có nhiều cách khác nhau
để giữ người, cổ phần nhất định, lương cao, đối xử, tình cảm,... Muốn hay
không Nhà nước phải có chính sách để đào tạo, đào tạo lại người lao động.
Hiện nay, tuy Việt Nam có lao động đông, nhưng lao động của chúng ta
cũng có một số hạn chế: yếu ngoại ngữ, tác phong công nghiệp. Không chỉ
trong lĩnh vực các doanh nghiệp mà cả ơ các cơ quan quản lý nhà nước. Thí
dụ, Trung Quốc, có hẳn một chỉ thị, đối với cán bộ lãnh đạo quận, huyện,
các tỉnh biên giới gần Việt Nam phải biết tiếng Việt. Cho nên, khi chúng ta
sang đó họ nói tiếng Việt rất thạo. Vấn đề là cán bộ quản lý Việt Nam phải
biết ngoại ngữ. Mặt khác, phải chuyển cách quản lý theo phong cách mới.
Ngày xưa quản bằng các lệnh, chỉ thị, can thiệp trực tiếp vào các doanh
nghiệp, thì nay không còn, còn rất ít, chỉ còn những doanh nghiệp có vốn lớn
của Nhà nước, quản lý thông qua biện pháp gián tiếp như xây dựng pháp
luật, chính sách và kiểm tra đôn đốc việc thực hiện đó. Việc nắm từng
ngành, hàng, không giống như trước, nhưng vẫn phải nắm. Khi chúng ta bỏ
quản lý xuất khẩu gạo, lúc đầu mọi người rất ngại, sợ có thể xuất vượt, đến
khi quyết định làm thì làm rất tốt. Mọi thành phần có thể xuất khẩu gạo
được, nhưng chúng ta vẫn quản lý được vì mọi công việc giao cho hiệp hội.
Hiệp hội đóng vai trò chính. Hiện nay, Nhà nước chuyển những vai trò mà
Nhà nước không làm sang hiệp hội ngành hàng để bảo vệ ngành hàng, hợp
tác liên kết để phát triển. Các cách làm cũ giành khách hàng bằng hạ giá
15


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô

Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

không còn giá trị, làm ta yếu đi. Vai trò của hiệp hội, ngành hàng rất quan
trọng. Liên kết để phát triển để xây dựng hệ thống phân phối trong nước.
Các doanh nghiệp liên kết để ra thị trường thế giới, liên kết doanh nghiệp
Việt Nam với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Chúng ta cần liên kết với nhau để tạo sức mạnh cho nhau và phát triển. Hiện
nay, thị trường trong nước còn rất nhiều điều kiện phát triển. Có nhiều sinh
viên Việt Nam sang học thạc sĩ ơ Hoa Kỳ rất giỏi, có những trường Hoa Kỳ
giữ lại, số đó vẫn về Việt Nam vì họ thấy cơ hội làm ăn ơ Việt Nam nhiều
hơn ơ Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã phát triển tới mức độ rất cao. Muốn làm ăn ơ Hoa
Kỳ phải có vốn, mạng lưới mới sống được, nhưng về Việt Nam có rất nhiều
cơ hội.
- Ðấy cũng là những thách thức, nhưng nếu chúng ta biết vượt lên chúng ta
sẽ phát triển. Khi làm việc với hãng Nokia, thấy chiến lược nhờ đó mà họ trơ
thành công ty điện thoại di động số 1 thế giới, họ coi tất cả những thách thức
là cơ hội mới, cuộc sống không có thử thách thì không có cuộc sống. Họ coi
thách thức là một cơ hội, khi họ vượt qua được thì họ trơ thành số 1. Chúng
tôi cho rằng gia nhập WTO chúng ta có rất nhiều thời cơ, cũng có rất nhiều
thách thức. Cơ hội đó có hay không phải do chính sách, do các doanh
nghiệp. Nói mơ thị trường hay không thì toàn bộ doanh nghiệp không sản
xuất hàng xuất khẩu thì cũng vô nghĩa. Bây giờ nói mơ ra để thu hút đầu tư
nhưng toàn bộ doanh nghiệp, các địa phương, không thu hút đầu tư thì
chúng ta cũng không đạt. Gia nhập WTO để chúng ta phát triển, nhưng
không có nghĩa bản thân việc gia nhập WTO là chúng ta giàu có lên, hay
chúng ta nghèo đi, mà đó là một cơ hội. Chúng ta tranh thủ được cơ hội đó,
thì chúng ta giàu có. Chúng ta vượt qua được thách thức thì chúng ta tạo
được cơ hội mới. Ðó là một thực tế. Nếu tranh thủ được thời cơ này, và chấp
nhận để vượt qua thách thức này, chúng ta sẽ đưa nền kinh tế phát triển lên
trình độ cao hơn, nhưng cũng đòi hỏi sự cố gắng của tất cả các bộ, ngành,

nhất là sự lao động sáng tạo, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt
Nam để chúng ta mạnh lên và phát triển nhanh hơn.
- Về những thách thức, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh bốn vấn đề
lớn.
16


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

+ Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, trên
bình diện rộng hơn, sâu hơn.
+ Hai là: Trên thế giới sự "phân phối" lợi ích của toàn cầu hoá là không
đồng đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hương lợi ít hơn.
Ở mỗi quốc gia, sự "phân phối" lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận
dân cư được hương lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu
hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ
tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính
sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt
chủ trương của Đảng: "Tăng trương kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển".
+ Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ
thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước
có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh
tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ.
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ
môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
- Thủ tướng nêu rõ: Gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, hội nhập kinh tế
quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ

hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc
vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực
tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của
chúng ta. Cơ hội và thách thức không phải "nhất thành bất biến" mà luôn
vận động, chuyển hoá và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho
ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt
qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận
dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ
chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ở đây, nhân tố chủ
quan, nội lực của đất nước, tinh thần tự lực tự cường của toàn dân tộc là
quyết định nhất.
- Thủ tướng cũng bảy tỏ tin tương: "Với thành tựu to lớn sau 20 năm Đổi
mới, quá trình chuyển biến tích cực trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế
những năm vừa qua, cùng với kinh nghiệm và kết quả của nhiều nước đã gia
nhập WTO, cho chúng ta niềm tin vững chắc rằng: Chúng ta hoàn toàn có
17


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

thể tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức. Có thể có một số doanh nghiệp khó
khăn, thậm chí lâm vào cảnh phá sản nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ
trụ vững và vươn lên, nhiều doanh nghiệp mới sẽ tham gia thị trường và toàn
bộ nền kinh tế sẽ phát triển theo mục tiêu và định hướng của chúng ta".

3. Những phát triển của Việt Nam khi gia nhập WTO:
3.1. Phát triển về nông nghiệp:
- Hơn 20 năm đổi mới, thành tựu rõ rệt nhất của nông nghiệp Việt Nam là
tạo ra và duy trì một quá trình sản xuất tăng trương với tốc độ nhanh, ổn

định trong một thời gian dài. Tuy nhiên, hiện nay, áp lực dân số tăng mỗi
năm 1 triệu người, diện tích đất trồng lúa hằng năm giảm từ 40 đến 50 nghìn
héc-ta, cộng với sự biến đổi khí hậu toàn cầu làm nước biển sẽ dâng cao ơ
đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, đang đặt nông nghiệp
nước ta trước những thách thức mới, nếu không sớm giải quyết tốt, đồng bộ
những bất cập trong nông nghiệp.
- Bước chuyển của nông nghiệp Việt Nam:
Trong thời kỳ đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã đạt những thành tựu nổi
bật, duy trì tốc độ tăng trương đều và ổn định, thể hiện được lợi thế so sánh
của Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nông nghiệp
đã thực sự trơ thành chỗ dựa nền tảng cho công nghiệp và dịch vụ, góp phần
quan trọng vào việc bảo đảm ổn định xã hội ơ nước ta.
Trong giai đoạn từ năm 1986 đến 2003, năng
suất các loại nông sản đã có mức tăng đáng
kể. Cụ thể là: năng suất lúa tăng từ 2,81 tấn/ha
lên 5,20 tấn/ha (gấp 1,85 lần); ngô từ 1,42
tấn/ha tăng lên 3,97 tấn/ha (gấp 2,79 lần); sắn
từ 9,16 tấn/ha tăng lên 14,53 tấn/ha (gấp 1,8
lần), lạc từ 0,94 tấn/ha tăng đến 1,74 tấn/ha
(gấp 2,2 lần). Đặc biệt, có một số cây trồng
cho năng suất bình quân tăng trên 2 lần trong
thời gian gần 20 năm như hồ tiêu, cao su, cà phê, bông. Riêng năng suất cây
điều tăng hơn 2 lần trong vòng 4 năm (2001 - 2004). So với năm 1986, năng
suất nông sản năm 2008 đã tăng gấp nhiều lần. Việt Nam là nước xuất khẩu
hồ tiêu, hạt điều thứ nhất thế giới, xuất khẩu gạo, cà phê đứng thứ nhì thế
giới; chiếm lĩnh và khẳng định vị trí trên thị trường thế giới về thanh long,
hạt điều; có thứ hạng cao trong xuất khẩu cá ba sa, cá tra, tôm, cao su, chè.
18



Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

Không chỉ tăng về sản lượng, chất lượng các mặt hàng nông sản cũng đang
được nâng lên. Nhiều năm qua, chúng ta đã tạo ra được bộ giống cây trồng
phong phú, về cơ bản đáp ứng được nhu cầu của sản xuất ơ các vùng sinh
thái, góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp, nâng cao tính cạnh tranh của
nông sản Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước. Nhiều giống cây
trồng được bắt đầu nghiên cứu một cách hệ thống, tính xã hội hóa của ngành
giống cây trồng được phát huy tốt. Chính những nông dân sản xuất giỏi đã
tham gia tích cực để có được bộ địa chỉ sưu tập cây đầu dòng, cùng với cán
bộ khoa học tâm huyết đã tạo ra những giống cây ghép có chất lượng không
thua kém các nước trong khu vực như: nhãn Hưng Yên, Sơn La, Yên Bái với
các dòng PH-M99-1-1, PH-M99-2-1, HC4, nhãn xuồng cơm vàng
VT20NXCV; xoài cát Hòa Lộc CT1, C6; xoài cát Chu CD2; sầu riêng Chín
Hóa S1BL, sầu riêng Ri 6 S2VL; bươi Năm Roi BN25; măng cụt BDMC2,
BTMC3, BTMC4, BTMC6. Riêng cây điều, nhờ giống mới cải tiến (31%
diện tích), năng suất bình quân cả nước tăng từ 0,3 tấn hạt/ha lên 1,1 tấn
hạt/ha. Hạt giống ngô lai đã tự lực được 60% từ giống ngô lai trong nước là
sự cố gắng rất lớn của ngành. Chúng ta đã xuất khẩu được hạt giống ngô lai.
Đối với gạo - một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, với
phương châm “muốn đẩy mạnh xuất khẩu
gạo trước hết phải có giống tốt”, trong
những năm gần đây, công nghệ hạt giống
được quan tâm nghiên cứu và đã có nhiều
tiến bộ. Sản lượng và chất lượng gạo của
Việt Nam, vì thế, đã có những bước cải tiến
đáng kể. Mặc dù diện tích gieo trồng lúa
trong những năm gần đây mỗi năm một
giảm (trung bình mỗi năm giảm khoảng 40

ngàn - 50 ngàn ha) do chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp và đất nông
nghiệp được thu hồi để làm đường, làm nhà... phục vụ công nghiệp, nhưng
sản lượng lúa của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng đều qua từng năm, mỗi năm
sản lượng lúa tăng trung bình 600 ngàn - 700 ngàn tấn. Việc nghiên cứu tạo
nhiều giống lúa lai ngắn ngày, phù hợp với điều kiện đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL) đã mang lại năng suất, chất lượng cao. Chiến lược thành
công nhất của ĐBSCL trong 20 năm qua là tạo được giống lúa cực sớm nên
đã “bội thu” nhờ diện tích lúa vụ hè - thu tăng lên 1,4 triệu - 1,5 triệu ha và
năng suất tăng từ 2 tấn lên 10 tấn. Nông nghiệp ĐBSCL đã đóng góp 50%
sản lượng cho an ninh lương thực quốc gia và chiếm tới 80% sản lượng gạo
phục vụ xuất khẩu.
19


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

Tiêu chí chất lượng gạo cũng ngày càng được
chú trọng. Đây là một thành công trong xuất
khẩu gạo của năm 2007. Trước đây, mỗi tấn
gạo xuất khẩu cùng cấp hạng của Việt Nam
thấp hơn Thái Lan 20 USD - 40 USD, làm
thiệt cho chúng ta khoảng 80 triệu USD,
nhưng nay, nhờ áp dụng tiến bộ khoa học vào
chọn tạo giống, Viện Lúa đồng bằng sông
Cửu Long đã tạo ra được những giống lúa
chất lượng cao, giảm sự chênh lệch này xuống còn 2 USD - 5 USD, thậm chí
có thời điểm bằng 0. Điều này thể hiện những bước tiến vượt bậc trong công
nghệ hạt giống.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công nghệ giống cây trồng, việc

ứng dụng khoa học - công nghệ, thực hiện tốt công tác thủy lợi làm tiền đề
để các giống lúa thích nghi phát triển, tạo ra đột phá thật sự to lớn về sản
lượng lúa ơ những vùng mục tiêu cũng là những yếu tố quan trọng dẫn đến
những kết quả khả quan trong phát triển nông nghiệp ơ nước ta.
- Những thách thức đối với nông nghiệp nước ta:
+ Trước hết, nhận thức về vai trò của nông nghiệp chưa tương xứng với sự
đóng góp quan trọng của lĩnh vực này đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Dường như công nghiệp và dịch vụ chưa coi thị trường
nông thôn nói chung, và ĐBSCL nói riêng là địa bàn ưu tiên phục vụ, chưa
trơ thành “đầu máy kéo” nông nghiệp đi lên như quy luật chung của một nền
kinh tế phát triển lành mạnh, dẫn đến khoảng cách kinh tế giữa nông thôn và
thành thị ngày một giãn ra.
+ Thứ hai, diện tích lúa canh tác mỗi năm mỗi giảm, trong khi năng suất lao
động nông nghiệp rất thấp, cơ cấu kinh tế nông thôn ít thay đổi. Nông
nghiệp chiếm 68% tỷ trọng kinh tế nông thôn, đóng góp 79% cơ cấu kinh tế
hộ nông dân, trong đó trồng trọt chiếm 50%. Quá trình chuyển lao động ra
khỏi nông nghiệp, nông thôn ơ Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng
diễn ra rất chậm. Mức đầu tư cho nông nghiệp hằng năm đạt chưa tới 10%
ngân sách nhà nước.
+ Thứ ba, các ngành dịch vụ phục vụ nông nghiệp chưa phát triển, tỷ lệ thất
thoát sau thu hoạch còn cao. Nông nghiệp thiếu máy móc thiết bị, phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y... Dịch vụ hỗ trợ như tín dụng, vận tải,
20


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

kho bãi, viễn thông tăng trương chậm, giao thông nông thôn chỉ được phân
bổ 5% kinh phí. Tổng Công ty máy động lực và máy nông nghiệp chỉ đáp
ứng nhu cầu 25% thị trường trong nước. Công nghệ sau thu hoạch chưa phát

triển, tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch của lúa từ 12% đến 14%, rau quả: 30% là
rất lớn. Sản xuất phân đạm trong nước chỉ đáp ứng 30% - 40% nhu cầu, còn
lại phải nhập khẩu. Trong năm 1998 - 2003, tỷ trọng của ngành dịch vụ tài
chính tín dụng hầu như không thay đổi, các hoạt động phục vụ thiết yếu cho
sản xuất nông nghiệp như vận tải, kho bãi, viễn thông... tăng trương chậm
2% về tỷ trọng và 6% về tốc độ.
+ Thứ tư, tính tự phát trong sản xuất nông nghiệp của người nông dân còn
lớn, trong khi sự định hướng, hỗ trợ, tư vấn rõ ràng của Nhà nước, chính
quyền địa phương thiếu. Đó thật sự là những mối lo ngại khi để “người nông
dân tư duy trên mảnh đất của mình”. Thói quen “phường hội”, nặng về lợi
trước mắt dẫn đến chỗ người dân phá lúa chuyển sang làm thủy sản tràn lan,
khiến tương lai ruộng lúa bấp bênh hơn bao giờ hết. Hiện nay, số nông dân
đạt trình độ sản xuất giỏi ơ nước ta chỉ chiếm khoảng 10%, trung bình 20%,
còn lại là yếu kém. Điều đáng ngại nhất là nguồn lao động nông nghiệp qua
đào tạo chỉ chiếm 24%, ơ khu vực nông thôn - nơi trực tiếp sản xuất lại chỉ
có 13%.
+ Thứ năm, việc đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ chưa
tương xứng với yêu cầu của sự nghiệp phát triển nông nghiệp. Theo kết quả
nghiên cứu của Viện Nghiên cứu chính sách lương thực quốc tế (IFPRI),
trong giai đoạn 1985 - 1990 tác động của khoa học - công nghệ đóng góp
63% mức tăng sản lượng lúa Việt Nam, giai đoạn 1991-1995 phần đóng góp
này còn 29,2%, và đến năm 2000 là 22,8%. Phân tích hàm sản xuất với các
yếu tố có liên quan cho thấy, trong giai đoạn 1985 - 1989, yếu tố công nghệ
đóng góp đến 55,5% phần tăng sản lượng nông nghiệp; giai đoạn 1990 1999, tuy có rất nhiều chính sách cơi mơ nhưng công nghệ chỉ đóng góp
thêm 5,4% vào phần tăng sản lượng nông nghiệp. Mức đầu tư vốn ngân sách
nhà nước cho nông nghiệp chỉ ơ mức khiêm tốn từ 5% đến 6%/năm, đạt
khoảng 5% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp, 1,5% tổng sản phẩm quốc nội
trong giai đoạn 1992 - 2002. Trong khi đó, tại các quốc gia như Trung Quốc,
Ấn Độ, Thái Lan, mức đầu tư vốn ngân sách nhà nước cho nông nghiệp là
16%, các nước khác ơ Đông - Nam Á khoảng 8% - 9%

+ Thứ sáu, sự hạn chế trong nghiên cứu giống cây trồng dẫn đến khả năng
cạnh tranh về phẩm chất nông sản của một số
giống cây trồng còn kém; công nghệ hạt giống
21


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

chưa tiếp cận đầy đủ với trình độ cao của thế giới; một vài loài cây trồng
chưa được chủ động lai tạo giống trong nước, phải nhập hạt giống rất tốn
kém (thí dụ cà chua, cải bắp). Một số chương trình lai tạo giống thiếu các
bước nghiên cứu cơ bản, thiếu định hướng và chưa tiếp cận với trình độ của
thế giới.
Đối với gạo xuất khẩu, vấn đề tối quan trọng là chất lượng phải đáp ứng nhu
cầu “2 trong 1” - vừa “cao sản” lại vừa “đặc sản”, làm sao cho cây lúa
ĐBSCL “hội nhập” mà vẫn giữ “bản sắc” riêng, “cao sản” nhưng vẫn phải
giữ chất “đặc sản”, ra thế giới song vẫn còn “hương đồng, gió nội” của Việt
Nam.
Với cây ăn quả, theo tổng hợp chung, trồng cây ăn quả sẽ mang lại hiệu quả
gấp 2 đến 6 lần so với trồng lúa. Những nhà vườn biết áp dụng tiến bộ kỹ
thuật có thể đạt doanh thu cao hơn, thậm chí gấp 10 lần so với trồng lúa. Tuy
nhiên, trồng cây ăn quả cần nhiều kỹ năng trong thâm canh. Hiện nay, cây ăn
quả đã bắt đầu tiếp cận với nội dung xây dựng thực hành nông nghiệp tốt
(GAP) ơ quy mô VietGAP và GlobalGAP như xoài cát Hòa Lộc, bươi da
xanh, bươi Năm Roi, vú sữa Lò Rèn, thanh long Bình Thuận. Do kinh tế hợp
tác chưa phát triển khiến các nông hộ nhỏ bé không nắm bắt được thông tin
thị trường, khả năng cạnh tranh yếu, tiếp cận thị trường khoa học - công
nghệ thấp, chịu nhiều thua thiệt trong kinh tế thị trường (hiện cả nước có
khoảng 8.000 hợp tác xã nông nghiệp). Thực tế, những nhà vườn nhờ áp

dụng kỹ thuật đã tạo ra quả trái mùa mang lại hiệu quả vườn rất cao, những
cây trồng mới như mít cao sản, mận Thái do số lượng vườn ít, giống mới,
người trồng không nhiều, cung thấp hơn cầu càng làm cho nhà vườn đạt lợi
nhuận cao.
+ Thứ bảy, đời sống của người nông dân tuy được cải thiện nhưng vẫn còn
nghèo. Dù chúng ta đã đạt được nhiều thành quả về xuất khẩu lúa gạo,
nhưng nông dân trồng lúa vẫn là những người nghèo cả về đời sống vật chất
lẫn đời sống tinh thần. Mặc dù sản lượng lương thực mỗi năm lại tăng hơn
một triệu tấn, nhưng thu nhập của người trồng lúa thì vẫn chưa được cải
thiện bao nhiêu. Năm 2005, mức tiêu dùng của người phi nông nghiệp so với
của nông dân cách nhau 2,6 lần.
+ Thứ tám, công tác bảo vệ thực vật và
thú y, công tác khuyến nông, đặc biệt đối
với khuyến nông cơ sơ chưa được đầu tư
đúng mức. Trung bình một cán bộ khuyến
22


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

nông Việt Nam phải phụ trách khoảng 3.650 nông hộ, trong khi đó, ơ Philip-pin, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, tỷ lệ này là 1/500 hoặc 1/700 chi phí
khuyến nông cho một nông hộ ơ nước ta chỉ vào khoảng 8.500 đồng, còn ơ
Thái Lan: từ 40 USD đến 60 USD
Tình trạng sử dụng hóa chất tràn lan hiện nay cũng rất đáng báo động, là
nguy cơ dẫn đến đất bị thoái hóa, bạc màu. Trong khi đó, các công ty tư
nhân của Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực chế phẩm sinh học lại rất yếu,
nhiều sản phẩm nhập từ nước ngoài đã quá thời hạn sử dụng hoặc đã bị cấm
sử dụng trên thế giới.
Nhiều loại dịch bệnh như dịch rầy nâu, đạo ôn trên lúa, bệnh lơ mồm long

móng, heo tai xanh, cúm gia cầm đang đặt nông nghiệp Việt Nam trước
những thách thức vô cùng to lớn. Theo khuyến cáo của các chuyên gia nông
nghiệp, nếu 10% diện tích vụ sản xuất chính bị nhiễm bệnh thì Việt Nam sẽ
phải ngưng xuất khẩu gạo để bảo đảm an ninh lương thực và nếu tỷ lệ đó
vượt quá 30% thì chúng ta sẽ phải nhập khẩu gạo.
+ Thứ chín, khan hiếm nước tưới phục vụ cho nông nghiệp. Sự thay đổi khí
quyển với hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ địa cầu ấm dần lên làm băng tan ơ hai
cực sẽ tạo ngập lụt ơ các vùng đất thấp (như đồng bằng sông Cửu Long). Lũ
lụt và xâm nhập mặn sẽ trơ thành vấn đề lớn trong nhiều năm sau. Với tầm
quan trọng như vậy, người ta đã hoạch định thứ tự ưu tiên trong đầu tư
nghiên cứu tính chống chịu khô hạn, mặn trên toàn thế giới trong lĩnh vực
cải tiến giống cây trồng, sau đó là tính chống chịu lạnh, chống chịu ngập
úng, chống chịu đất có vấn đề (a-xít, thiếu lân, độ độc sắt, độ độc nhôm,
thiếu kẽm, ma-nhê, măng-gan và một số chất vi lượng khác như đồng,...).
Nước phục vụ nông nghiệp chiếm 70% nguồn nước phục vụ dân sinh. Hiện
nay, mức bảo đảm nước trung bình cho một người trong một năm sẽ giảm từ
12.800 m3 vào năm 1990 xuống còn 8.500 m3 vào năm 2020. Theo Hội Nước
quốc tế (IWRA), tiêu chuẩn công nhận quốc gia có mức bảo đảm nước cho
một người thấp hơn 4.000 m3/năm được xem như thiếu nước và dưới 2.000
m3/năm thuộc loại hiếm nước. Tổng lượng nước phục vụ tưới trong nông
nghiệp của Việt Nam 41 km3 năm 1985, tăng lên 46,9 km3 năm 1999 và 60
km3 năm 2000. Lượng nước cần dùng cho mùa khô sẽ tăng lên 90 km 3 vào
năm 2010, chiếm 54% tổng lượng nước có thể cung cấp. Các dự án quốc tế
về nông nghiệp thuộc hệ thống Tổ chức Tư vấn về nghiên cứu nông nghiệp
quốc tế (CGIAR) đã nhấn mạnh đến giống cây trồng chống chịu khô hạn,
nước sạch cho nông thôn, đô thị, phải xem những nội dung này là một ưu
tiên đặc biệt. Sự thoái hóa đất, hiện tượng sa mạc hóa sẽ là mối quan tâm đặc
23



Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

biệt cho khu vực duyên hải Trung Bộ, Đông Nam Bộ và một phần Tây
Nguyên.
- Để nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển
Mục tiêu mà nông nghiệp của nước ta cần hướng đến là một nền nông
nghiệp chất lượng cao với các loại nông sản thỏa mãn yêu cầu hội nhập,
phục vụ nội tiêu, xuất khẩu, có sức cạnh tranh tốt. Muốn vậy, chúng ta cần
chú trọng một số vấn đề sau:
+ Nông nghiệp chuyển hướng phát triển theo chiều sâu, trên cơ sơ phát triển
khoa học nông nghiệp, những tiến bộ kỹ thuật mới, nhất là lĩnh vực ứng
dụng công nghệ sinh học, công nghệ thông tin trong lựa chọn và tạo giống;
bảo vệ cây trồng, vật nuôi; bảo vệ môi trường sinh thái. Việc thực hiện Pháp
lệnh Bảo vệ thực vật, Pháp lệnh Thú y cần được triển khai sâu rộng để sản
xuất nông nghiệp tiếp cận với mục tiêu phát triển bền vững.
+ Nhà nước sớm quy hoạch và xác định rõ, quy định cụ thể tỉnh nào tập
trung làm nông nghiệp, tỉnh nào phát triển công nghiệp. ĐBSCL đã được xác
định là một trong 7 vùng kinh tế quan trọng; nên cần có sự phân bổ đầu tư
hợp lý, để phát huy tối đa lợi thế về sản xuất nông nghiệp của Việt Nam
trong chặng đường sắp tới. Khu vực này cần phải bảo đảm an toàn lương
thực và tăng khả năng cạnh tranh về chất lượng nông sản để gia tăng thu
nhập cho người trồng lúa. Mục tiêu cụ thể của vùng là phát triển giống lúa
có năng suất cao và giống có phẩm chất gạo ngon nhằm đáp ứng thị hiếu cho
thị trường nội địa và xuất khẩu. Tại khu vực này, việc sản xuất cần được tổ
chức lại, xây dựng một phương thức quản lý tổng hợp, đa ngành, xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp, cho phép tập trung ruộng đất theo hướng sản xuất
nông nghiệp quy mô lớn đáp ứng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.
Hiện tại, một số tỉnh, thành trong khu vực ĐBSCL đã xây dựng định hướng
phát triển công nghệ cao (CNC). CNC đã và đang được ứng dụng trong

nghiên cứu, sản xuất rau, hoa, quả ơ nhiều địa phương, đơn vị vùng ĐBSCL.
Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam
ứng dụng CNC trong chọn giống cây ăn
quả chất lượng cao.
+ Thực hiện trí thức hóa nông dân qua
chương trình giáo dục và khuyến nông.
Nông dân trồng lúa bằng tri thức chứ
không chỉ bằng kinh nghiệm. Với mục
24


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

đích tiến tới xây dựng một nền nông nghiệp CNC đúng nghĩa, phù hợp với
tình hình thực tiễn, mang lại hiệu quả kinh tế cao, cần có những công nhân
nông nghiệp lành nghề. Công tác giáo dục ơ nông thôn cần được cải tiến,
công nghệ thông tin cần đến được với nông dân, nhất là In-tơ-nét để nông
dân được thụ hương nhiều hơn lợi ích của hiện tượng “bùng nổ” thông tin
toàn cầu; Nhà nước hỗ trợ chính sách và giúp đỡ đào tạo để nông dân có tri
thức, từ đó có những quyết định đúng đắn và sẽ được hương lợi trên chính
thửa ruộng của mình...
+ Xây dựng thương hiệu cho ngành gạo Việt Nam. Muốn nâng cao sức cạnh
tranh của gạo nước ta tại các thị trường (thế giới) cao cấp, chúng ta phải
nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo giá trị cao cho hạt gạo xuất khẩu, qua đó
nâng cao thu nhập, đời sống cho bà con nông dân; xem xét lại diện tích gieo
trồng và điều chỉnh sao cho phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng; cải
tiến kỹ thuật sản xuất gạo phù hợp hơn khi hội nhập quốc tế, đáp ứng nhu
cầu của các siêu thị trong quá trình công nghiệp hóa; phát triển thủy lợi nông
thôn mạnh hơn nữa, nhất là cơ giới hóa khâu sản xuất và đẩy nhanh tốc độ

thu hoạch.
+ Đổi mới tổ chức hợp tác xã (HTX), xem HTX là tổ chức kinh tế phục vụ
lợi ích, quyền lợi của nông dân, bên cạnh đó, phải xây dựng khu nông
nghiệp CNC với các tiểu khu có chức năng rõ ràng; phát triển theo hướng xã
hội hóa từ thấp đến cao, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia, Nhà
nước chỉ điều tiết bằng chính sách, pháp luật.
Tóm lại, nhiệm vụ chính của ngành nông nghiệp trong quá trình thực hiện
chính sách nông nghiệp, nông dân, nông thôn là đáp ứng nhu cầu sản xuất
nông nghiệp để phát triển bền vững, bảo đảm an ninh lương thực. Cần chú
trọng khai thác tối đa lợi thế so sánh, khắc phục, vượt qua điều kiện bất lợi
của tự nhiên, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, kết hợp giữa
phương pháp sản xuất truyền thống với công nghệ sinh học, tăng cường hợp
tác giữa các nhà khoa học với nhiều chuyên ngành khác nhau, phát huy sức
mạnh xã hội hóa, hoàn thiện không ngừng pháp lý để nông nghiệp thực sự
phát triển phục vụ yêu cầu của đất nước trong xu thế hội nhập kinh tế quốc
tế.
3.2. Phát triển về công nghiệp:
Với hàng nghìn doanh nghiệp( DN ) ngành
Dệt may VN nói chung và gần 60 doanh
25


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

nghiệp Dệt may HP nói riêng, sự kiện VN chính thức gia nhập tổ chức
thương mại thế giới (WTO) là một mốc son đánh dấu bước hội nhập mới với
nhiều triển vọng tươi sáng. Đó là sự thuận lợi khi hàng rào thuế quan được
xoá bỏ dần dần, sự hạn chế hạn ngạch được cơi bỏ tạo cho những tên tuổi
mạnh sự bứt phá ngoạn mục. Thế nhưng, đi kèm với đó chính là những cơn

sóng lớn của cuộc cạnh tranh khốc liệt mà một khi doanh nghiệp không
vững tay chèo thì có thể bị nhấn chìm. Như thế, hội nhập đồng nghĩa với
việc mỗi doanh nghiệp phải có chiến lược phát triển lâu dài, bền vững.
- Niềm vui khi hội nhập...
HP hiện có 57 DN ngành Dệt may, với tổng số trên 25.000 lao động, mỗi
năm sản xuất trên trên 20 triệu sản phẩm, 25% trong số đó nội địa hoá. Giá
trị sản xuất công nghiệp tăng trương bình quân hàng năm là 22,35 %. Xét về
tổng thể, đây được coi là ngành kinh tế mũi nhọn của TP bơi vừa giải quyết
được vấn đề lao động xã hội, vừa kéo theo sự phát triển của các ngành khác
như sản xuất bao bì, nguyên phụ liệu, điện ,nước. Thu nhập bình quân đầu
ngưòi lao động của khối từ 800-1 triệu đ/ tháng, tăng sức mua cho xã hội rất
lớn, kích cầu sự phát triển của thị trường. Trong những năm gần đây, được
đầu tư tập trung thiết bị đồng bộ, tay nghề công nhân nâng cao, Dệt may HP
có bước phát triển lớn.
Việc VN gia nhập WTO đã tiếp tục tạo cho ngành Dệt may những lợi thế
nhìn thấy rõ. Trước hết, đó là việc giảm thuế, xoá bỏ hạn ngạch. Đây sẽ là cơ
hội để VN thu hút các đơn hàng lớn, tăng giá trị sản xuất CN, hạn chế những
áp lực cho DN, tăng khả năng cạnh tranh một cách lành mạnh. Ông Hoàng
Văn Khánh- Giám đốc Cty CP Dệt may XK HP cho biết: Trước khi VN gia
nhập WTO , khi có vấn đề về tranh chấp trong làm ăn, Nhà nước thường
phải “nhảy” vào điều tiết giúp DN. Khi hội nhập, đã có luật chung áp dụng
cho toàn cầu nên vấn đề phát sinh sẽ được giải quyết theo thông lệ quốc tế,
hạn chế sự thiệt thòi cho DN VN khi có tranh chấp. Hơn nữa, nhiều giám
đốc DN cũng thừa nhận, vị thế của DN khi đi đàm phán cũng được nâng lên.
Đặc biệt, khi gia nhập WTO, việc các ngân hàng nước ngoài được đầu tư
vào VN sẽ tạo cơ hội cho DN có nhiều khả năng vay vốn để sản xuất kinh
doanh với qui mô lớn.
- Chưa thắng được nỗi lo:
Thuận lợi có thể nhìn thấy trứơc mắt là như thế, tuy nhiên, các DN đều đứng
trước những thách thức không nhỏ. Trước hết, khi tham gia vào quá trình hội

26


Tiểu luận Kinh tế vĩ mô
Đề tài: Việt Nam gia nhập WTO

nhập chính là lúc các DN nước ngoài tràn vào VN với các tên tuổi mạnh. Thị
trường xuất khẩu truyền thống của ngành Dệt may là EU và Mỹ sẽ ít có cạnh
tranh do vốn rộng lớn, thế nhưng với thị trường trong nước, các DN VN sẽ
phải đương đầu với cuộc cạnh tranh khốc liệt giành thị phần nội địa. Hàng
hoá của nước ngoài sẽ phong phú, đa dạng và chất liệu chắc chắn sẽ đẹp
hơn. DN VN chỉ hơn họ về việc am hiểu thị hiếu và thói quen người tiêu
dùng, nhưng những tên tuổi nổi tiếng nước ngoài không phải là không nhanh
chóng nắm bắt thị trường khi họ có đội ngũ marketing rất giỏi. Trong khi đó,
DN VN chưa chú ý chiếm lĩnh thị trường nội địa, còn bỏ ngỏ một lãnh địa
có hơn 100 triệu dân. Nếu không chủ động lường trước khó khăn này, DN
VN sẽ mất phần thị trường ngay trên đất nhà mình.
Thứ hai, các DN sản xuất hàng dệt may của ta hiện nay chỉ có phương thức
chủ yếu là gia công. Thế nhưng, so với các DN của láng giềng Trung Quốc
thì ta không thể lợi thế bằng họ. Giám đốc của một Cty có kinh nghiệm làm
hàng dệt may xuất khẩu phân tích: “Trung Quốc có đông nhân công, lại chủ
động sản xuất được cả nguyên liệu, thiết bị, hoá chất chuyên dụng. Như vậy,
họ sẽ hạ được giá nhân công và đương nhiên là thu hút được nhiều đơn
hàng”. Đó là còn chưa nói đến các nước khác như Malaysia, Inđonêsia...Vì
thế, nếu chỉ bám vào phương thức gia công thì e rằng không thể tồn tại chứ
chưa nói gì đến chuyện phát triển bền vững.
Thứ ba, như mục tiêu đặt ra, đến năm 2010, Dệt may phải phấn đấu để thực
sự là ngành có sản phẩm chủ lực, có lợi thế, tạo nên đặc trưng cho TP với tỷ
lệ nội địa hoá đạt 45%. Với đà gia công chủ yếu này, chỉ có nguồn nhân lực
và chỉ khâu, các DN sẽ làm thế nào để nâng cao tỷ lệ nội địa hoá đó? Đây là

câu hỏi vẫn đang bỏ ngỏ.
- Chiến lược vượt sóng lớn:
Đến năm 2010, mục tiêu của ngành Dệt may đặt ra là đạt 30-32 triệu sản
phẩm may mặc, sản phẩm chủ lực là quần áo may sẵn. Con số cụ thể đó cho
DN một cái đích cụ thể. Thế nhưng vấn đề cơ bản, mấu chốt chính là DN
phải vươn lên để có thể cạnh tranh ngang ngửa với DN nước ngoài khi họ
vào VN mà không bị nhấn chìm. Theo ông Đỗ Quang Thịnh- Giám đốc sơ
CN thì “định hướng chung chính là DN phải đầu tư nâng cao năng lực sản
xuất, mơ rộng thị trường xuất khẩu, chiếm lĩnh thị trường nội địa, thực hiện
chuyển đổi phương thức để hạn chế và thoát thế gia công”. Cụ thể, để thoát
thế gia công, DN cần đầu tư vào đổi mới thiết bị sao cho hiện đại và đồng
bộ, kèm theo đó là đội ngũ quản lý có trình độ chuyên môn cao, công nhân
27


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×