PHẦN MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế đã và đang mở ra nhiều cơ hội thúc
đẩy phát triển kinh tế-xã hội; khoa học-công nghệ; giáo dục;… ở nước ta. Song, bên
cạnh đó cũng có không ít những nguy cơ, thách thức làm sói mòn, băng hoại hệ thống
đạo đức, văn hóa, truyền thống dân tộc; an ninh, chính trị và trật tự, an toàn xã hội;…
Đứng trước những cơ hội và thách thức, Đảng, Nhà nước ta không ngừng hoàn thiện
hệ thống thể chế, cải cách tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ,
công chức,…nhằm đáp ứng và thích ứng với điều kiện phát triển kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế. Vấn đề đáng quan tâm không chỉ hiện nay, mà ngay từ khi Nhà
nước ta mới thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các bài phát biểu của mình, bài
nói chuyện và các tác phẩm đã khẳng định: “tham ô, lãng phí và quan liêu” là căn
bệnh, vấn nạn cần phải phòng, chống, ngăn chặn và đẩy lùi; trong những năm qua,
Đảng ta đã ban hành các Nghị quyết, Chỉ chị về học tập đạo đức Hồ Chí Minh về
“thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí và quan liêu”; Nhà nước đã thành đã
ban hành Luật chống tham nhũng năm 2005; thành lập Ban chỉ đạo phòng chống
tham nhũng từ Trung ương đến địa phương;… đã tạo ra những chuyển biến nhất định
về mặt nhận thức và hành động của cán bộ, công chức và nhân dân.
Thực tế, trong những năm qua nhiều vụ án tham nhũng lớn của cán bộ, công
chức trong bộ máy nhà nước được phát hiện và ngăn chặn như: Vụ án PMU 18; vụ án
chiếm dụng đất đai ở Đồ Sơn, Hải Phòng; vụ án Lã Thị Kim Oanh;… bước đầu đạt
được những kết quả nhất định. Nhưng, tình hình tham nhũng có chiều hướng diễn
biến phức tạp thể hiện ở nhiều phương diện cả về hình thức và thủ đoạn. Theo Báo
cáo của Chính phủ đã phát hiện 379 vụ việc tham nhũng, giảm 14% số vụ việc so với
cùng kỳ năm trước. Trong tổng số 357 bị cáo bị xét xử về tội tham ô tài sản, có 17
trường hợp toà án tuyên không phạm tội, 5 trường hợp miễn truy cứu trách nhiệm
hình sự và 139 bị cáo được hưởng án treo [1]. Công tác, điều tra, thanh tra, kiểm tra
phát hiện xử lý của các cấp, các cơ quan có thẩm quyền còn nhiều hạn chế.
1
Theo tinh thần, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X[2] về việc: kiên quyết đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Hội
nghị đã thảo luận và quyết định ra Nghị quyết “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí”; Tổng bí thư nhấn mạnh:
“Chống tham nhũng, lãng phí là một cuộc đấu tranh vừa cấp bách, vừa có trính lâu
dài, phức tạp. Nhìn xuyên suốt cả nhiệm
vụ đấu tranh thì phòng ngừa là chính.
Nhưng trước tình hính bức xúc hiện nay, phải hết sức coi trọng việc kiên quyết đấu
tranh, phát hiện, xử lý kịp thời; kiên quyết xử lý cũng là để răn đe, là một biện pháp
phòng ngừa. Tích cực phòng ngừa và kiên quyết phát hiện, xử lý có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, không vì phòng ngừa là chính mà không kiên quyết điều tra, xử lý
những vụ việc đã rõ, cũng như không chỉ kiên quyết xử lý mà coi nhẹ các biện pháp
cơ bản để phòng ngừa”. Với lý do trên, tiểu luận lựa chọn nội dung: “Đấu tranh
phòng, chống tham nhũng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai ở chính quyền
địa phương cơ sở” làm nội dung nghiên cứu và xác định phạm vi tiểu luận.
NỘI DUNG
I- XÁC ĐỊNH TÌNH HUỐNG
Công tác phòng, chống tham nhũng được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau
và có nội hàm rộng. Chẳng hạn như: Dưới góc độ quản lý nhà nước; tội phạm; cán
bộ, công chức;… Hay trong hoạt động quản lý nhà nước, phòng, chống tham nhũng
cũng được tiến hành trong nhiều lĩnh vực, nhiều mặt kể cả thực hiện chức năng quản
lý và cung cấp dịch vụ công,… Do vậy, tiểu luận xác định phạm vi tiếp cận về phòng,
chống tham nhũng trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai thông qua tình huống
được đăng trên báo Pháp luật và đời sống ngày 12 thág 11 năm 2008 về vụ án tham
ô, tham nhũng đất đai ở thị xã Sơn La: “Vụ án tham ô, tham nhũng đất đai lớn nhất ở
thị xã Sơn La (nay là Thành phố Sơn La) tiếp tục được dư luận đặc biệt quan tâm bởi
số diện tích đất bị chiếm lợi lên đến hàng chục nghìn m2 gây thất thoát cho Nhà nước
hàng tỷ đồng. Đã có thêm hàng loạt các đối tượng bị bắt, điều tra và truy tố trong giai
đoạn 2 của vụ án kéo dài nhất từ trước đến nay ở Sơn La (năm 2005 đến nay). Trong
tổng số 13 bị can của giai đoạn 2 vụ án, đáng chú ý có 02 nguyên Chủ tịch xã,
2
Trưởng phòng Tài nguyên-Môi trường thị xã Sơn La (cũ) cho đến cấp cao hơn là Chủ
tịch UBND thị xã Sơn la đều phạm tội. Kết thúc giai đoạn 1 điều tra và xét xử đã có 9
bị can phải lĩnh các mức án khác nhau, trong đó có nhiều bị can dù đang thi hành án
vẫn tiếp tục được đưa ra xét xử trong giai đoạn 2 của vụ án này. Cà Văn Ngọc nguyên
Chủ tịch UBND xã Chiềng Sinh (nay là phường Chiềng Sinh TP. Sơn la) từ năm
2000 đến 2004 đã ký xác nhận vào các hồ sơ chuyển nhượng đất, xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mà không từng kiểm tra từng hồ sơ theo chức trách, nhiệm
vụ của mình. Trong thời gian này, địa bàn xã Chiềng Sinh có tuyến đường quốc lộ 6
đi qua đang bắt đầu giai đoạn đền bù, giải phóng mặt bằng để nâng cấp, chỉnh sửa
(năm 2004), do đó việc chuyển nhượng đất, xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của người dân là rất lớn. Chỉ vì không kiểm tra từng hồ sơ mà ông Ngọc đã ký
xác nhận cho 17 trường hợp vi phạm quy hoạch, xác định không đúng với nguồn gốc,
thời điểm hiện trạng, vị trí và mục đích sử dụng đất trong xã. Trong tổng số 17 trường
hợp ông Ngọc ký xác nhận sai phạm trong hồ sơ, số diện tích đất sai phạm đã lên tới
8.738 m2, trong đó đất thổ cư 2.569 m2, gây thiệt hại cho nhà nước trên 1,3 tỷ đồng.
Cũng vậy, ông Lường Văn Thông, nguyên Chủ tịch UBND xã Hua La cùng thời điểm
trên do tin tưởng cấp dưới là Tòng Văn Dâm (cán bộ địa chính xã) không kiểm tra
các hồ sơ cụ thể mà ký xác nhận bừa vào các hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất sai đối tượng, tiêu chuẩn cấp đất theo Chỉ thị 10. Số hồ sơ xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất được ông Thông ký bừa này đều không đúng nguồn
gốc, thời điểm, hiện trạng và mục đích sử dụng đất do cấp dưới trình lên. Trong tổng
số 16 hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sai phạm này đã làm thoát
thoát của nhà nước trên 618 triệu đồng với tổng diện tích gần 20.000 m2 trong đó có
4.619 m2 đất thổ cư…”.
II- XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Qua tình huống trên, những cán bộ, công chức có chức vụ, thẩm quyền ở thị xã
Sơn La (cũ) sẽ bị trừng trị thích đáng theo pháp luật Việt Nam đặc biệt là Bộ luật
Hình sự. Song, vấn đề đáng quan tâm không phải là các cán bộ, công chức có thẩm
quyền trên bị xử lý như thế nào ? ... mà vấn đề quản lý nhà nước đối với quản lý cán
3
bộ, công chức có thẩm quyền, đặc biệt là cán bộ, công chức ở chính quyền cấp xã
(xã, phường, thị trấn) trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai nhằm tráng tình
trạng gây thất thoát lãng phí, tham ô của Nhà nước. Vấn đề đặt ra cần phải giải quyết:
- Nguyên nhân về thể chế pháp luật; năng lực và sự thoái hóa biến chất của cán
bộ, công chức có thẩm quyền dẫn đến tình trạng tham nhũng hoặc để cho cấp dưới
thao túng.
- Xây dựng phương án nhằm hoàn thiện cơ chế, thủ tục hoạt động quản lý nhà
nước về đất đai và làm trong sạch lành mạnh hóa đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
III- NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH HUỐNG
Tình trạng, cán bộ địa chính xã tự tung, tự tác; người đứng đầu cơ quan hành
chính ở cơ sở (Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã) làm ngơ, bỏ mặc, thiếu trách nhiệm,
…là những vấn đề cơ bản khẳng định nguyên nhân làm nảy sinh các vụ tiêu cực, vi
phạm pháp luật, tham nhũng,.. ở chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn) hiện nay
của nước ta. Thông qua tình huống trên có thể thấy các nguyên nhân khách quan và
chủ quan chủ yếu sau đây:
1- Những nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân khách quan là những yêu tố không phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của con người, trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng
trong lĩnh vực quản lý đất đai ở chính quyền cơ sở xã Chiềng Sinh (nay là phường
Chiềng Sinh) và Hua La (TP. Sơn La hiện nay). Biểu hiện thông qua các nguyên nhân
cơ bản như:
Thứ nhất, về mặt thể chế pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức cán bộ ở cấp xã.
- Vấn đề phân cấp chức năng, nhiệm vụ quyền hạn quản lý nhà nước về đất đai
hiện nay vẫn chỉ dừng lại ở “hình thức” phân cấp một số nhiệm vụ, thẩm quyền (phân
cấp theo chức năng) mà chưa có sự phân cấp theo lãnh thổ quản lý. Điều này được
thể hiện thông qua các văn bản luật hiện hành của nước ta như: Luật tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân nhân năm 2003 ngày 26 tháng 11 năm 2003 xác định
4
trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã, khoản 4, Điều 111: “Quản lý sử dụng hợp
lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục vụ các nhu cầu công ích ở địa phương;…”.
Như vậy, việc phân cấp theo lãnh thổ không xác định chính quyền cấp xã có chức
năng, nhiệm vụ và thẩm quyền quản lý về đất đai theo Luật đất đai năm 2003. Song,
việc phân cấp theo chức năng được thực hiện theo quy định của các văn bản như:
Nghị định của Chính phủ số 13/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2008 quy định tổ
chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; Nghị định của Chính phủ số 14/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm
2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh xác định: “Sở tài nguyên và Môi trường tham mưu giúp
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: tài nguyên đất;
tài nguyên khoáng sản;… (Điều 8 khoản 9 Nghị định số 13) và “Phòng tài nguyên và
Môi trường tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về: tài nguyên đất;… (Điều 7 khoản 4 Nghị định số 14). Theo quy định của
Thông tư liên tịch số 03/2008/TTLT-BTNMT-BNV ngày 15 tháng 7 năm 2008 hướng
dẫn chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về tài
nguyên và môi trường thuộc Ủy ban nhân dân các cấp xác định công chức chuyên
môn về tài nguyên và môi trường cấp xã (địa chính xã) có trách nhiệm tham mưu
giúp Ủy ban nhân cấp xã thực hiện quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
trên địa bàn; chịu sự hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Phòng tài
nguyên và Môi trường cấp huyện. Việc tham mưu của cán bộ địa chính xã về quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp xã, về giao đất cho thuê, đấu thầu, thu hồi đất,
chuyển quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đấy, cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật; triển khai, theo dõi, kiểm tra tình hình thực
hiện sau khi cấp có thẩm quyền quyết định. Thẩm định hồ sơ, trình Ủy ban nhân dân
cấp xã việc cho thuê đất, chuyển đổi sử dụng đất, đăng ký giao dịch,…Thực hiện việc
đăng ký, lập và quản lý hồ sơ địa chính; thống kê, kiểm kê đất đai,… (Phần III, mục I
và II Thông tư số 03). Như vậy, việc phân cấp theo chức năng đã làm cho công tác
quản lý ở địa phương không được xác định trách nhiệm, bởi lẽ cơ chế xác định: Cán
bộ địa chính chỉ là cán bộ tham mưu cho Ủy ban nhưng lại thực hiện chức năng khá
5
lớn về chuyên môn quản lý đất, trong khi đó người đứng đầu Ủy ban nhân dân chỉ
thực hiện ký theo thủ tục tham mưu, sự đệ trình của cán bộ này mà không có chuyên
môn đối với lĩnh vực quản lý. Cơ chế này đã tạo ra một nghịch lý ở xã Chiềng Sinh
khi cán bộ địa chính xã trình lên thì Chủ tịch chỉ việc ký mà không biết gì về việc
thẩm định chuyên môn, thẩm định hồ sơ. Như vậy, tính đan xen của các mối quan hệ
ngang (phân cấp theo lãnh thổ) và mối quan hệ dọc (phân cấp theo chuyên môn) đã
tạo ra một cơ chế thủ tục quá hình thức trong quản lý nói chung ở Nhà nước ta hiện
nay.
- Các văn bản xác định trách nhiệm về thủ trưởng, người đứng đầu khi để xảy
ra tham nhũng. Trên cơ sở Luật phòng chống tham nhũng ngày 29/11/2005 và sửa đổi
bổ sung ngày 4 tháng 8 năm 2007; Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 09
năm 2006 quy định xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để
xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình phụ trách, quản lý Điều 15
xác định thành lập Hội đồng xem xét xử lý gồm: 1 chủ tịch Hội đồng là cấp trưởng
hoặc cấp phó cơ quan; 1 ủy viên Đảng ủy xã và 1 ủy viên đại diện công đoàn; Điều 7
xác định các hình thức như: khiển trách; cảnh cáo; cách chức. Như vậy, việc thành lập
Hội đồng xem xét chưa đảm bảo tính khách quan, mặt khác chế tài quá nhẹ không đủ
sức răn đe và sự cố tình né tránh của thủ trưởng cơ quan khi mà các sai phạm chưa
đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự,…
Thứ hai, tính công khai minh bạch hóa hoạt động quản lý nhà nước ở cơ sở
không được tổ chức thực hiện tốt.
Theo quy định của Nghị định số 120/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng ngày 20/10/2006 xác
định trách nhiệm của chính quyền cấp cơ sở trong việc công khai hóa, minh bạch hoạt
động; chế độ thông tin, báo cáo về phòng, chống tham nhũng ở cơ quan, đơn vị,…
nhưng qua thực tiễn của tình huống trên cho thấy, mối dây liên hệ của “tham nhũng”
không chỉ dừng lại ở hành vi của cá nhân cán bộ, công chức mà có tính “dây truyền”
từ trên cho xuống dưới. Do vậy, chế độ minh bạch hóa hoạt động; thanh tra kiểm tra
và báo cáo tình hình chống tham nhũng chỉ là hình thức trong hoạt động công vụ hiện
6
nay. Do vậy, khi phát hiện ra tham nhũng của cán bộ địa chính xã, đã kéo theo hàng
loạt cán bộ từ cấp huyện lên cấp tỉnh,… nên quá trình điều tra, phát hiện và xét xử
phải kéo dài nhiều năm. Như vậy, việc xác định thủ tục chuyển quyền sử dụng đất,
chuyển đổi mục đích sử dụng đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất,.. do một số cán bộ có thẩm quyền thâu tóm, không công khai thông tin, thủ
tục và trình tự,… đã dẫn đến những việc làm tiêu cực gây thất thoát tiền của nhà nước
và quyền lợi của người dân.
Thứ ba, sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc xã còn nhiều bất cấp về cơ chế và
hình thức giám sát. Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật Mặt trận tổ quốc Việt
Nam ngày 12 tháng 6 năm 1999: “Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam được thực hiện bằng các hình thức sau đây: (a) Động viên nhân dân thực hiện
quyền giám sát; (b) Tham gia hoạt động giám sát với các cơ quan quyền lực nhà
nước; (c) Thông qua hoạt động của mình, tổng hợp ý kiến của nhân dân và các thành
viên… kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Như vậy, cả ba hình thức
này không đảm bảo cho Mặt trận thực hiện tốt vai trò cơ quan giám sát của mình đối
với chính quyền địa phương và cán bộ dân cử. Có chăng, chỉ có hình thức thu thập ý
kiến bỏ phiếu tín nhiệm chủ tịch xã là có tính khả thi.
Ngoài các nguyên nhân trên, thì các nguyên nhân khách quan khác như: kê
khai tài sản; chế độ thanh tra, kiểm tra định kỳ; điều kiện kinh tế-xã hội ở địa
phương;… có những tác động không nhỏ đến buông lỏng hoạt động quản lý của
chính quyền địa phương nói chung và chính quyền xã nói riêng.
2- Những nguyên nhân chủ quan
Những nhân tố thuộc về chủ quan trực tiếp tác động đến hành vi tham nhũng,
buông lỏng quản lý của cán bộ công chức;…lại phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
người cán bộ, công chức chính quyền cấp cơ sở. Có thể thấy, những nguyên nhân cơ
bản như:
- Năng lực, đạo đức phẩm chất của cán bộ, công chức cấp xã: Quy chế tuyển
dụng cán bộ, công chức nhất là cán bộ, công chức cấp xã làm công tác chuyên môn
7
còn phụ thuộc quá lớn vào cơ chế Đảng giới thiệu, cử, cấp trên bổ nhiệm hoặc dân
bầu… do vậy, năng lực, trình độ cán bộ còn có quá nhiều bất cập. Tình huống trên
cho thấy, Chủ tịch UBND xã không kiểm tra hồ sơ mà ký bừa vào các bộ hồ sơ xin
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã chứng minh khả năng về năng lực trong
quản lý của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã để cho cấp dưới (cán bộ địa chính) điều
khiển và thao túng mọi công việc dẫn đến tình trạng cấp trên để cấp dưới qua mặt
hoặc tham nhũng.
Đạo đức phẩm chất, đây là vấn đề lớn quan trọng có tác động lớn nhất vào
hành vi tham nhũng và buông lỏng quản lý hiện nay. Tình trạng cán bộ xuống cấp về
đạo đức, lối sống, tha hóa và coi lợi ích cá nhân, vật chất lên trên hết,… đầu xuất hiện
trong các vụ án tham nhũng, lớn nhỏ trong thời gian qua. Thực tiễn, tình huống trên
cũng cho chúng ta thấy biểu hiện của sự thoái hóa của các bộ, công chức, bị cám dỗ
trước “đồng tiền”,… dẫn đến hành vi bất chấp pháp luật, bất chấp đạo lý để tham
nhũng.
Thực tế, nếu Chủ tịch xã mà trong sạch, có năng lực thì cán bộ địa chính xã có
“ăn vụng” cũng chỉ ăn lén chứ không thể ngang nhiên vòi tiền các hồ sơ, các dự án
như tình huống trên.
- Sự thiếu hiểu biết pháp luật của người dân xã Chiềng Sinh cũng là nguyên
nhân tạo ra sự tham nhũng lớn ở địa bàn. Nếu sự tham gia phát huy dân chủ của
người dân ở Thôn để phát hiện và giám sát hoạt động của cán bộ, chính quyền xã; các
cá nhân, tổ chức được cấp giấy chứng nhận không đúng,… thì vấn đề tham nhũng có
thể được phát hiện, ngăn chặn và chỉnh đốn ngay từ đầu. Song, vấn đề sinh hoạt dân
chủ thông qua tổ chức tự quản Thôn và những nhận thức về pháp luật, các quy định
về quyền sử dụng đất ở đất nông nghiệp,… còn hạn chế nên việc giám sát, việc chính
quyền có công khai hay không công khai các trình tự thủ tục,… người dân cũng
không có phản ứng gì.
- Sự né tránh trong công tác phòng, chống tham nhũng. Về cơ bản hiện nay, các
hành vi và biểu hiện tham nhũng ở cơ quan đơn vị thường dễ phát hiện. Song, sự
8
“không liên quan trách nhiệm” đã tạo ra sự thờ ơ, bỏ mặc hay thậm trí còn “ngại”
đụng chạm vì mối dây liên hệ “tình cảm” hay “nể” vì quan hệ cấp trên, cấp dưới.
IV- HẬU QUẢ
Sự tác động và ảnh hưởng của tham nhũng đến tổ chức và hoạt động quản lý
nhà nước; đến đời sống chính trị; kinh tế-xã hội;… là rất lớn và có tính chất hệ lụy
cao. Trong tình huống trên có thể thấy những tác hại của nó đến các lĩnh vực như:
- Gây thiệt hại trực tiếp đến tài sản của của nhà nước, tài sản của nhân dân. Rõ
ràng, chỉ với thẩm quyền được phân cấp quản lý về đất đai như hiện nay của chính
quyền xã Chiềng Sinh mà có thể gây ra những hậu quả thiệt hại hàng tỷ đồng của nhà
nước; những thiệt hại có liên quan đến việc xác định sai nguồn gốc đất, chính sách
đền bù, hỗ trợ và tái định cư cho người dân có đất bị thu hồi nhằm thu lợi bất chính
của cán bộ địa chính và Chủ tịch UBND xã. Điều này chứng tỏ rằng, các vụ án tham
nhũng thường gây ra những thiệt hại lớn đối với tài sản của Nhà nước và nhân dân.
- Gây ảnh hưởng xấu đến uy tín và chất lượng tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước. Sự giảm sút uy tín thông qua các bộ, công chức xuống cấp về đạo đức
đã tạo ra những rào cản về sự hợp tác “thân thiện” giữa người dân và chính quyền
trong việc giải quyết những quyền lợi, nhu cầu chính đáng và tổ chức thực thi nhiệm
vụ của nhà nước. Điều này làm phát sinh sự độc đoán, chuyên quyền, sách nhiễu
trong hoạt động quản lý nhà nước; thiếu sự giám sát và tôn trọng của nhân dân đối
với các quyết định hành chính của chính quyền địa phương cơ sở. Tạo ra một hệ
thống bộ máy không có năng lực, hoạt động không có hiệu quả,…Hình thành bè phái,
cục bộ địa phương trong bố trí, sử dụng và tiến hành hoạt động quản lý ở chính quyền
cấp xã.
- Tạo ra những tiền lệ xấu trong tiến hành hoạt động quản lý nhà nước. Những
ảnh hưởng của hành vi tham nhũng trong ở chính quyền xã là cơ sở để tạo ra những
tiêu cực có tính chất “dây truyền”; những hệ lụy mang tính bắt trước “lớn ăn kiểu lớn,
bé ăn kiểu bé”. Sự mặc nhiên ảnh hưởng và liên quan cứ ngấm dần và tự bùng phát
trong hoạt động công vụ ở chính quyền cơ sở.
9
- Tác động đến sự phát triển kinh tế-xã hội ổn định và bền vững của địa
phương. Những tác động đến sự phát triển kinh tế đối với các dự án, các doanh
nghiệp trên địa bàn, hay tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội từ hậu quả
của việc “lãng phí” tiền tham nhũng có thể được tạo ra ở địa phương. Điều quan
trọng là nó làm xói mòn những chuẩn mực đạo đức, giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và của địa phương.
V- PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT
Để giải quyết vấn nạn tham nhũng trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai
ở chính quyền địa phương cơ sở, mà cụ thể là xây dựng các biện pháp phòng ngừa
tham nhũng qua thực tiễn ở xã Chiềng Sinh, tiểu luận xin nêu lên các phương án cụ
thể như sau:
* Phương án một, xây dựng cơ chế phản biện xã hội tốt ở địa phương nói
chung và địa phương cơ sở nói riêng
- Ưu điểm: Phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành và quy định về vị trí, vai
trò của Mặt trận Tổ quốc ở xã. Xây dựng cơ chế phản biện nhằm:
+ Thực hiện tốt cơ chế giám sát chất lượng hoạt động của chính quyền xã.
+ Bảo đảm đội ngũ cán bộ, xã phường có đủ uy tín, năng lực phẩm chất ở đáp
ứng các yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước ở địa phương và yêu cầu đòi hỏi của
người dân địa phương.
- Hạn chế:
+ Thay đổi quy chế tổ chức và hoạt động của Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
+ Thời gian lâu, vì cơ chế thủ tục và trình tự thay đổi quy chế và các văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan.
- Kế hoạch thực hiện phương án:
+ Tiến hành sửa đổi lại quy chế và các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan theo trình tự thủ tục Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi năm
2001 quy định
10
+ Tiến hành các hoạt động phản biện về Nghị quyết và kế hoạch, báo cáo hoạt
động của Hội đồng nhân dân xã; Ủy ban nhân dân xã; tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm
đối với các cán bộ lãnh đạo chính quyền xã
* Phương án hai, xây dựng cơ chế công khai, minh bạch trong thực hiện quản
lý nhà nước về đất đai. Từ minh bạch hóa vấn đề tuyển dụng cán bộ địa chính, chủ
tịch, phó chủ tịch UBND xã đến các trình tự, thủ tục thực hiện thủ tục hành chính về
đất đai và minh bạch hóa tài sản cá nhân cán bộ, công chức xã. Điều này đòi hỏi khả
năng giải trình của cán bộ, công chức có thẩm quyền trước nhân dân và các tổ chức
chính trị-xã hội về những hoạt động liên quan đến thủ tục lựa chọn nhà thầu; dự án và
các trình tự thủ tục liên quan đến xác định nguồn gốc đất, chính sách bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
- Ưu điểm:
+ Lựa chọn được nhân tài, có phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng với yêu cầu của
công việc, lành mạnh hóa đội ngũ cán bộ, công chức.
+ Thực hiện tốt pháp luật, dân chủ cơ sở nhằm phát huy vai trò giám sát của
người dân và tổ chức tham gia.
- Hạn chế:
+ Việc xây dựng các cơ chế đòi hỏi phải ban hành mới hoặc sửa đổi nhiều quy
phạm pháp luật
+ Có thể phải tổ chức thí điểm.
- Kế hoạch thực hiện phương án:
+ Tiến hành xây dựng đề án, tổ chức thí điểm.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật cần thiết.
+ Tổ chức mở rộng phạm vi áp dụng.
* Phương án ba, kết hợp cả hai phương án trên
- Ưu điểm:
11
+ Kết hợp được nhiều ưu điểm của cả hai phương án.
+ Khắc phục những hạn chế của mỗi phương án.
- Hạn chế:
+ Cơ chế tổ chức và thông qua hiện hành còn nhiều công đoạn, thủ tục ở nhiều
cấp.
+ Mất nhiều thời gian trong việc tổ chức thí điểm và xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật.
- Kế hoạch thực hiện phương án:
+ Tổ chức tốt cơ chế phản biện đối với hoạt động quản lý nhà nước về đất đai
và cán bộ, công chức thực thi công vụ.
+ Xây dựng đề án công khai hóa và minh bạch hóa.
+ Tổ chức thực hiện.
VI- KẾ HOẠCH XỬ LÝ PHƯƠNG ÁN TỐI ƯU
Để thực hiện được kế hoạch xử lý phương án ba (phương án tối ưu) cần phải
tiến hành một cách đồng bộ, kịp thời ở nhiều khâu, nhiều thủ tục và ở nhiều cơ quan
có liên quan. Song, tiểu luận xin nêu lên những giai đoạn chủ yếu để thực hiện
phương án tối ưu như:
- Giai đoạn 1: Tiến hành xây dựng đề án, quy trình phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc xã đối với chính quyền và cán bộ, công chức xã. Để thực hiện được
chức năng này cần:
- Tiến hành sửa đổi điều 12 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm bổ sung
hình thức phản biện xã hội của Mặt trận đối với hoạt động quản lý nhà nước và cán
bộ dân cử. Để có thể sửa đổi được điều này, cần phải thực hiện theo đúng trình tự, thủ
tục pháp luật quy định như: Thông qua kỳ họp của Quốc hội tại cuộc họp gần nhất để
đưa vào chương trình xây dựng, sửa đổi luật ở kỳ họp lần sau. Tiến hành thông qua
nội dung sửa đổi điều 12 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Như vậy, ít nhất phải
thông qua hai kỳ họp mới có thể được tiến hành sửa đổi. Song, để đảm bảo vừa hợp
12
pháp vừa kịp thời gian, thì đại biểu quốc hội hoặc Mặt trận Tổ quốc có thể báo cáo và
đề nghị Quốc hội ban hành và thông qua Nghị quyết sửa đổi Điều 12 tại kỳ họp gần
nhất; cũng có thể Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội
ban hành Nghị quyết trong kỳ họp gần nhất. Nghị quyết của Quốc hội là cơ sở để tiến
hành tổ chức thực hiện hình thức phản biện của Mặt trận.
- Tiến hành triển khai (khi có Nghị quyết hoặc Luật sửa đổi Luật Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam), Chính phủ ban hành Nghị định về việc tổ chức triển; Thủ tướng
Chính phủ ban hành Chỉ thị và Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư;
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh và UBND cấp huyện ban hành Chỉ thị;…cụ hóa ở Bộ
và địa phương. Phải tuân thủ quy trình này đảm bảo đúng trình tự, thủ tục mà Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định. Mặc dù, quy trình này còn rườm rà,
mất nhiều thời gian và có thể chậm được tổ chức thực hiện.
+ Đối với Mặt trận Tổ quốc xã, tiến hành nâng cao khả năng, kỹ năng phản
biện của các thành viên qua tập huấn nhằm thực hiện tốt phản biện xã hội đối với các
đề án, hoạt động quản lý, kế hoạch quản lý tài nguyên đất đai theo đúng quy hoạch,
quy định của pháp luật và điều kiện ở địa phương.
- Giai đoạn 2: Tiến hành xây dựng và thực hiện cơ chế minh bạch hóa quy trình
tuyển chọn cán bộ địa chính, cán bộ dân cử (chủ tịch xã); quy trình thủ tục liên quan đến
đất đai và kê khai tài sản xủa cán bộ, công chức xã; quy trình giải trình trách nhiệm
trước dân và tổ chức chính trị-xã hội ở cơ sở về mỗi hoạt động quản lý nhà nước về đất
đai.
- Tiến hành xây dựng và tổ chức thực hiện minh bạch hóa tuyển dụng. Đây là
giai đoạn khó với cơ chế hiện nay, nhưng dù sớm hay muộn vẫn phải được triển khai
nhằm thu hút nhân tài và lựa chọn cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức thực thi
hoạt động công vụ ở chính quyền xã. Mặt khác, việc đào tạo nhân tài phải gắn liền
với cơ chế sử dụng nhân tài. Song để tiến hành được kế hoạch này, Bộ tư pháp cần
xây dựng đề án thông qua Chính phủ và Quốc hội phê chuẩn có thể tổ chức thực hiện
ngay hoặc tổ chức thí điểm (phương pháp an toàn nhất mà Việt Nam vẫn áp dụng).
Đồng thời, chính quyền cấp tỉnh, cũng có thể đổi mới theo hướng trao quyền tự chủ
13
nhiều hơn cho chính quyền cấp xã (thông qua phân cấp lãnh thổ). Chẳng hạn như, để
tránh sự chồng chéo hoạt động, ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng cấp tỉnh chỉ
nên chỉ đạo, giám sát tổ chức thực hiện mà không nên can thiệp trực tiếp công việc
của các cơ quan chức năng địa phương.
- Tiến hành minh công khai hóa và tính giải trình của cán bộ, công chức cấp xã
về trình tự thủ tục liên quan đến quản lý nhà nước về đất đai. Đây là những thủ tục
cần thiết và phù hợp với các quy định hiện hành về quản lý đất đai ở địa phương. Do
vậy, cần xác định các vấn đề liên quan đến dự án sử dụng đất, quy hoạch quỹ đất, xác
định nguồn gốc đất, loại đất…phải được xây dựng và tiến hành công khai dưới nhiều
hình thức phù hợp và có hiệu quả nhằm đảm bảo mọi trình tự đều được người dân
nắm, hiểu và giám sát quá trình tổ chức thực hiện. Chẳng hạn, việc đưa xuống các
thôn sinh hoạt dân chủ, công khai về những vấn đề liên quan đến việc xác định loại
đất, nguồn gốc đất, … của các hộ gia đình, tổ chức có đất ở thôn. Đồng thời, việc giải
trình về kế hoạch và biện pháp tổ chức thực hiện là vừa là cơ sở để dân cư giám sát
trực tiếp, vừa là cơ sở để khẳng định năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công
chức chuyên môn cấp xã. Hai vấn đề này cần phải được tổ chức thực hiện thống nhất
trong quá trình tạo cơ chế giám sát của dân cư và tổ chức chính trị-xã hội đối với hoạt
động quản lý nhà nước ở cơ sở nói chung, trong đó có quản lý nhà nước về đất đai.
Để thực hiện được giải pháp này, cần phải kết hợp giữa quy định của Luật đất đai
(mạnh dạn phân cấp cụ thể cho chính quyền cấp xã) và xây dựng thành các quy định
trong hương ước làng xã, tổ dân phố, thôn, làng, ấp, bản.
- Tiến hành minh bạch hóa tài sản: Hiện nay vấn đề trả lương qua tài khoản vẫn
chưa làm minh bạch hóa thu nhập của cán bộ, công chức. Việc sử dụng tiền mặt là
một trong những cản trở cho việc xác định tài sản và kê khai tài sản của cán bộ, công
chức hiện nay. Do vậy, để minh bạch hóa tài sản, Ủy ban pháp chế của Bộ Tư pháp
cần chủ động xây dựng đề án kiểm soát nhằm xác định và minh bạch hóa về tài sản
của cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức xã nói riêng theo những điều
kiện nhất định.
KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
14
I- KIẾN NGHỊ
Vấn đề tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng là một vấn đề nóng, liên
quan đến cán bộ, công chức có thẩm quyền. Do vậy, việc tổ chức xây dựng các đề án
cần phải được tiến hành nhằm góp phần ngăn chặn những biểu hiện, hành vi tham
nhũng trong cơ quan nhà nước nói chung và chính quyền xã nói riêng. Song để, chính
quyền xã có thể thực hiện tốt chức năng quản lý của mình và nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của quản lý nhà nước, đẩy lùi tình trạng tham nhũng tiểu luận xin nêu lên một số
kiến nghị cơ bản như:
Một là, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng ủy xã trong việc lãnh đạo, thực
hiện tốt nguyên tắc phê bình và tự phê bình nhằm làm trong sạch đội ngũ cán bộ,
đảng viên ở xã.
Hai là, vận động sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị-xã hội và nhân
dân địa phương, nhất là Mặt trận tổ quốc trong việc tiến hành các hình thức giám sát
hoạt động quản lý nhà nước ở cơ sở và cán bộ dân cử nhằm phát hiện, báo cáo cơ
quan cấp trên có thẩm quyền kịp thời ngăn chặn và làm lành mạnh hóa mọi hoạt động
của chính quyền và cán bộ dân cử.
Ba là, thực hiện tốt quy chế công vụ đối với cá nhân Chủ tịch xã và chính
quyền xã; cá nhân cán bộ địa chính xã với Chủ tịch xã (UBND xã) và Phòng Tài
nguyên và Môi trường cấp huyện, nhằm xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm và tính
chịu trách nhiệm cá nhân và tập thể trong hoạt động quản lý đất đai ở địa phương.
II- KẾT LUẬN
Tóm lại, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng là công việc lâu dài, bền
bỉ và có nhiều phức tạp. Do vậy, trong quá trình tổ chức thực hiện cần phải đảm bảo
tốt các nguyên tắc và yêu cầu của pháp luật về tính công khai, dân chủ, công bằng và
hợp pháp đối với các hành vi của cán bộ, công chức xã. Thực hiện tốt vấn đề này
nhằm góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức; thực hiện tốt quy chế dân
chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X họp từ
ngày 24/7 đến29/7/2008 tại Thủ đô Hà Nội.
2- Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân nhân năm 2003 ngày 26
tháng 11 năm 2003.
3- Luật phòng chống tham nhũng ngày 29/11/2005 và sửa đổi bổ sung ngày 4
tháng 8 năm 2007.
4- Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam ngày 12 tháng 6 năm 1999
5- Nghị định của Chính phủ số 13/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2008
quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
6- Nghị định của Chính phủ số 14/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 02 năm 2008
quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh.
7- Nghị định số 120/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật phòng, chống tham nhũng ngày 20/10/2006 xác định trách nhiệm
của chính quyền cấp cơ sở trong việc công khai hóa, minh bạch hoạt động; chế độ
thông tin, báo cáo về phòng, chống tham nhũng ở cơ quan, đơn vị
8- Thông tư liên tịch số 03/2008/TTLT-BTNMT-BNV ngày 15 tháng 7 năm
2008 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan
chuyên môn về tài nguyên và môi trường thuộc Ủy ban nhân dân các cấp.
9- Nghị định số 107/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 09 năm 2006 quy định xử lý
trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong
cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình phụ trách, quản lý.
16
10- Báo cáo của Chính phủ tại phiên họp thứ 13 của Ủy ban thường vụ Quốc hội sáng
8/10/2008 về đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng.
11- Báo điện tử Pháp luật và đời sống.
17