Tải bản đầy đủ (.doc) (155 trang)

đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước của thanh tra tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.79 KB, 155 trang )

1

Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh

Trịnh Quang Bắc

đấu tranh phòng, chống tham nhũng
trong lĩnh vực đầu t xây dựng bằng nguồn vốn
nhà nớc của thanh tra tỉnh hải dơng
Chuyên ngành
MÃ số

: Lý luận và lịch sử nhà nớc và pháp luật
: 60 38 01

luận văn thạc sĩ luật HọC

Ngời hớng dẫn khoa học: PGS, TS Nguyễn Văn Mạnh

Hà Nội - 2009


2

LI CAM OAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự
nghiên cứu; các số liệu trong Luận văn có cơ sở rõ
ràng và trung thực. Kết luận của Luận văn cha từng đợc công bố trong các công trình khác.

Trịnh Quang Bắc



3
MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
BẰNG NGUỒN VỐN NHÀ NƯỚC CỦA CƠ QUAN
THANH TRA

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
của thanh tra
1.2. Khái niệm đầu tư xây dựng và tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư
xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước
1.3. Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước và thanh tra nhà nước
cấp tỉnh trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng
1.4. Đặc điểm và các điều kiện bảo đảm đấu tranh phòng, chống tham
nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước
của cơ quan thanh tra cấp tỉnh

6
6
23
35
39

Chương 2: THỰC TRẠNG THAM NHŨNG VÀ ĐẤU TRANH PHÒNG,

CHỐNG THAM NHŨNG TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ
XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN NHÀ NƯỚC CỦA
THANH TRA TỈNH HẢI DƯƠNG

2.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội và đầu tư xây dựng bằng
nguồn vốn nhà nước ở tỉnh Hải Dương
2.2. Thực trạng tham nhũng và tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây
dựng bằng nguồn vốn nhà nước ở tỉnh Hải Dương
2.3. Thực trạng đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực
đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước của Thanh tra tỉnh
Hải Dương

43
43
55
73

Chương 3: YÊU CẦU CẤP THIẾT VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG
LĨNH VỰC ĐẦU TƯ XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN
NHÀ NƯỚC Ở TỈNH HẢI DƯƠNG

98

3.1. Yêu cầu cấp thiết của việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng
trong lĩnh vực đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước ở tỉnh
Hải Dương
3.2. Các giải pháp tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong
lĩnh vực đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước ở tỉnh Hải Dương


111

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

131
134

98


4
PHỤ LỤC

137

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã đạt được được nhiều thành tựu quan
trọng trong đời sống kinh tế - xã hội và tạo nên những thay đổi sâu sắc trong
lĩnh vực đầu tư xây dựng. Ngành xây dựng đã thực sự góp phần tạo nên vóc
dáng mới của đất nước với nhiều cơng trình hiện đại, góp phần tích cực và sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu to lớn đó, trong lĩnh vực này đang tồn tại nhiều vấn đề bức xúc.
Một trong những vấn đề đó là nạn tham nhũng, tiêu cực, lãng phí diễn ra phổ
biến và phức tạp ở hầu hết các cơng trình xây dựng, gây ra những hậu quả
nghiêm trọng về nhiều mặt, gây bất bình trong dư luận xã hội. Theo Ban
Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, riêng trong xây dựng cơ bản khơng có
cơng trình nào thất thốt dưới 20%. Nếu theo tỷ lệ đó mà nhân lên lên, sẽ thất
thốt khoảng 30 nghìn tỷ đồng, số tiền này đủ để trả lương cho khu vực hành

chính sự nghiệp của cả nước. Chỉ cần giảm 10% số thất thoát trong xây dựng
cơ bản là có thể đủ nguồn để thực hiện cải cách tiền lương. Điều đó đặt ra yêu
cầu cho các cơ quan bảo vệ pháp luật cần tập trung mọi nỗ lực để đấu tranh
ngăn chặn tình trạng này, đây là vấn đề rất cấp thiết và là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Trong những năm qua, thanh tra tỉnh Hải Dương đã có nhiều cố gắng
trong cơng tác phịng ngừa, đấu tranh với nạn tham nhũng trong lĩnh đầu tư
xây dựng từ nguồn vốn ngân sách, thu hồi số lượng tài sản lớn cho Nhà nước.
Tuy nhiên, so với tình hình mà dư luận xã hội đã phản ánh thì kết quả đó chưa
đáp ứng được u cầu.
Do tính đặc thù của hoạt động xây dựng cơ bản nên việc phòng ngừa,
phát hiện xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này thường gặp


5
nhiều khó khăn. Đối tượng vi phạm trong xây dựng cơ bản thường là những
người có chức vụ, quyền hạn trong quản lý tài sản, có mối quan hệ với những
người có chức quyền trong bộ máy nhà nước cùng thơng đồng, móc ngoặc với
những thủ đoạn tinh vi để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
Trong khi đó hoạt động phát hiện, xử lý của lực lượng thanh tra cịn
gặp nhiều khó khăn, bất cập. Các biện pháp phịng ngừa cũng như các biện
pháp phát hiện, xử lý chưa phát huy hết vai trò, tác dụng. Mặt khác, trong quá
trình phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ thường rất khó khăn và phức tạp vì
phải qua cơng tác giám định cơng trình xây dựng.
Về phương diện lý luận, hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tham
nhũng trong đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn nhà nước chưa được
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống nên đã tác động tiêu cực
đến hoạt động thực tiễn của lực lượng thanh tra trong phòng ngừa, đấu tranh
chống tham nhũng ở lĩnh vực này. Do vậy, đây là một vấn đề cần quan tâm
nghiên cứu.

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn: "Đấu tranh phòng, chống
tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước của
thanh tra tỉnh Hải Dương” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Đấu tranh phịng, chống tham nhũng trong đầu tư xây dựng hiện nay
đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội, là đề tài được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, dưới nhiều góc độ khác nhau các đề tài mới
chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề có liên quan đến cơng tác đấu tranh
phịng, chống tội phạm kinh tế nói chung và một số loại tội phạm cụ thể nói
riêng trong lĩnh vực đấu tranh xây dựng và đưa ra được một số giải pháp cho
công tác đấu tranh phịng, chống. Đã có một số cơng trình nghiên cứu về cơng
tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng ở các khía cạnh khác nhau, trong đó
đáng lưu ý là các cơng trình: Tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng


6
(Viện Khoa học Công an, Hà Nội, năm 1997); Thực trạng tham nhũng trong
lĩnh vực đầu tư xây dựng và giải pháp phòng ngừa đấu tranh, Cục Cảnh sát
kinh tế (CSKT), 1998; Cục Cảnh sát kinh tế (1999), Thực trạng tham nhũng
trong lĩnh vực đầu tư - xây dựng và giải pháp phịng ngừa, đấu tranh, Nxb
Cơng an nhân dân, Hà Nội. Phạm Ngọc Đản (2006), Những bài học kinh
nghiệm rút ra từ thực trạng sai phạm, thất thoát, lãng phí được phát hiện qua
cơng tác thanh tra, kiểm tra nhằm góp phần ngăn ngừa tham nhũng trong đầu
tư xây dựng ở nước ta, Đề tài nghiên cứu khoa học, Văn phịng Chính phủ, Hà
Nội. Nguyễn Phong Hịa (2003. Bùi Minh Thanh (2006). Lê Thế Tiệm và
đồng nghiệp (2006), Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng trong xây
dựng cơ bản, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy các cơng trình đó đã giải quyết
được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cơng tác đấu tranh phịng, chống
tham nhũng trong đầu tư xây dựng ở những khía cạnh khác nhau. Cụ thể là,

có cơng trình nghiên cứu đề cập dưới góc độ của lực lượng CSKT trước đây
(lực lượng trinh sát), có cơng trình nghiên cứu dưới góc độ của CSĐT (điều
tra theo tố tụng) nhưng đến nay chưa có cơng trình nào đề cập một cách sâu
sắc, có hệ thống và tồn diện về hoạt động phịng ngừa, đấu tranh chống tham
nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước theo chức năng của
thanh tra tỉnh Hải Dương.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất các giải pháp nhằm đấu
tranh phòng, chống tham nhũng trong đầu tư xây dựng của cơ quan thanh tra
tỉnh Hải Dương.
- Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ của đề tài là:
+ Làm rõ khái niệm về thanh tra và vai trò của thanh tra trong phòng,
chống tham nhũng lĩnh vực đầu tư xây dựng.
+ Khái quát những vấn đề lý luận để làm rõ nhận thức về tham nhũng trong
đầu tư xây dựng và hoạt động phòng ngừa, đấu tranh của cơ quan thanh tra.


7
+ Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tình hình tham nhũng trong lĩnh vực
đầu tư xây dựng bằng vốn nhà nước và thực trạng hoạt động phòng ngừa, đấu
tranh của thanh tra tỉnh Hải Dương , xác định những khó khăn, vướng mắc và
hạn chế của cơ quan thanh tra trong tổ chức thực hiện các hoạt động đó;
+ Đề xuất các giải pháp phát huy vai trò đấu tranh phòng, chống tham
nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng của cơ quan thanh tra tỉnh Hải Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lý luận về vai trò của thanh tra
trong hoạt động phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tham nhũng về lĩnh vực
đầu tư xây dựng; thực trạng tình hình tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây
dựng bằng nguồn vốn nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng tình hình tham

nhũng trong đầu tư xây dựng và hoạt động phòng ngừa, đấu tranh của thanh tra
tỉnh Hải Dương. Nghiên cứu khảo sát lấy số liệu từ năm 2004 đến năm 2009.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cùng với hệ thống những quan điểm của Đảng, Nhà nước và ngành thanh tra về
nhà nước và pháp luật, về đấu tranh phịng chống tham nhũng.
Q trình nghiên cứu đề tài tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng trong cả ba chương
nhằm khái quát cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải phap
tăng cường đấu tranh phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây
dựng bằng nguồn vốn nhà nước.
- Phương pháp thống kê: Phương pháp tổng kết thực tiễn, nghiên cứu
điển hình; phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp so sánh được sử
dụng chủ yếu trong chương 2 nhằm đánh giá thực trạng tham nhũng và đấu


8
tranh phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng bằng nguồn
vốn nhà nước của Thanh tra tỉnh Hải Dương.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Về lý luận, luận văn sẽ làm rõ thêm và bổ sung nhận thức lý luận về
tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước; lý luận về hoạt
động phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng trong lĩnh vực này.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng trong đầu tư xây dựng bằng
nguồn vốn nhà nước của thanh tra trong tình hình hiện nay. Đề tài có thể được
sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập trong
các trường đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ thanh tra.
7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được cấu trúc thành 3 chương, 7 tiết.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
TRONG LĨNH VỰC ĐẦU TƯ XÂY DỰNG BẰNG NGUỒN VỐN
NHÀ NƯỚC CỦA CƠ QUAN THANH TRA
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
CỦA THANH TRA

1.1.1. Khái niệm thanh tra
Thuật ngữ thanh tra xuất hiện từ nguồn gốc La tinh (Inspectare) có
nghĩa là “nhìn vào bên trong” (tiếng Anh là Inspect) là chỉ một sự kiểm tra,
xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một đối tượng nhất định. Theo Từ
điển pháp luật Anh - Việt, thì thanh tra “là sự kiểm sốt đối với đối tượng bị
thanh tra” [33, tr.203]. Theo Từ điển tiếng Việt “thanh tra là kiểm soát, xem
xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Với nghĩa này,
thanh tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm: “ xem xét, phát hiện, ngăn chặn
những gì trái với quy định” [34, tr.504]. Thanh tra thường đi kèm với một chủ
thể nhất định: người làm nhiệm vụ thanh tra, đoàn thanh tra và được đặt trong
phạm vi quyền của một chủ thể nhất định, là sự tác động của chủ thể đến đối
tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao nhằm đạt được mục đích
nhất định.
Để hiểu rõ hơn khái niệm về thanh tra theo tôi cần phải tìm hiểu về
khái niệm kiểm tra. Bởi vì, trong hoạt động quản lý nhà nước, hay trong sách
báo chính trị và các văn bản pháp luật thường sử dụng cụm từ “thanh tra,
kiểm tra” để chỉ một giai đoạn cần thiết của quá trình quản lý, một chức năng
của quản lý nhà nước.

Kiểm tra (tiếng Anh - control) là “xem xét tình hình thực tế để đánh
giá, nhận xét” [33, tr.882], để chỉ hoạt động của chủ thể tác động vào đối
tượng kiểm tra (có thể trực thuộc hoặc khơng trực thuộc). Kiểm tra được hiểu
theo nghĩa thứ nhất, để chỉ hoạt động của các tổ chức xã hội, các đoàn thể và


10
của công dân kiểm tra hoạt động bộ máy của nhà nước. Theo nghĩa này, tính
quyền lực nhà nước trong kiểm tra bị hạn chế. Tuy nhiên, các chủ thể thực
hiện kiểm tra khơng có quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Thứ hai, kiểm tra là hoạt động của chủ thể nhằm tiến hành xem xét, xác minh
một việc gì đó của đối tượng bị quản lý có phù hợp hay khơng phù hợp với
quy định, ví dụ: kiểm tra mang tính nội bộ của người đứng đầu cơ quan, kiểm
tra phương tiện giao thông. Theo nghĩa này, chủ thể kiểm tra có thể áp dụng
một chế tài pháp lý nhất định như áp dụng các hình thức kỷ luật, xử phạt vi
phạm hành chính. Ở đây, khái niệm kiểm tra nằm trong khái niệm thanh tra
của Luật Thanh tra năm 2004 “Thanh tra nhà nước là việc xem xét, đánh giá,
xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền,
trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này và các quy định khác của pháp
luật”(Điều 4).
Thanh tra, kiểm tra là chức năng chung của quản lý nhà nước, là hoạt
động mang tính chức năng của quản lý nhà nước, là hoạt động mang tính
phản hồi đối với q trình quản lý nhằm phân tích, đánh giá, theo dõi những
mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đã đề ra.
Với tư cách là một chức năng quản lý, là một giai đoạn của quá trình
quản lý, khái niệm thanh tra và kiểm tra có những nét tương đồng như đã nêu
trên, cho nên trong hoạt động chúng giống nhau về bản chất và đều có mục
đích, yêu cầu chung là xem xét, đánh giá đối tượng của kiểm tra và thanh tra,
từ đó rút ra kết luật đúng, sai để có biện pháp phát huy hoặc chấn chỉnh. Như

vậy, xét theo bản chất và mục đích của quản lý nhà nước thì hoạt động thanh
tra và kiểm tra gần như khơng có sự phân biệt, thanh tra và kiểm tra giống
nhau về bản chất, nhưng theo cách hiểu khác nhau thì chúng khác nhau về
phạm vi. Thanh tra bao hàm kiểm tra nếu hiểu kiểm tra theo nghĩa hẹp,
nhưng ngược lại, kiểm tra lại bao hàm thanh tra nếu hiểu theo nghĩa rộng.


11
Nhưng thanh tra ln mang tính nhà nước, cịn kiểm tra có thể mang tính nhà
nước hoặc phi nhà nước. V.I Lênin nhiều lần nhấn mạnh rằng, mục đích của
kiểm tra và thanh tra là nhằm xây dựng “khả năng biết làm, biết thành thạo
trong quản lý”. Khi bàn đến sự thống nhất của hai loại hoạt động, V.I Lênin
nói: “…phải cải tổ bộ dân uỷ thanh tra công nông… để tăng cường sự kiểm
tra từ phía quần chúng nhằm tiêu diệt cái thứ cỏ dại - chủ nghĩa quan liêu”
[16, tr.157]. Tuy nhiên, giữa chúng cũng có những điểm không giống nhau.
- Thanh tra là hoạt động xem xét, kiểm tra của cơ quan nhà nước cấp
trên hoặc theo sự uỷ quyền của cơ quan nhà nước cấp trên đối với cơ quan
nhà nước cấp dưới và là một bộ phận của hoạt động hành pháp.
- Kiểm tra là hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội đối với
mục đích, nhiệm vụ đã đặt ra.
Đồng thời, xét theo thuật ngữ, kiểm tra (control), thanh tra (inspect) thì
hai thuật ngữ này được phân biệt theo nguồn gốc về mặt lịch sử. Theo chúng
tôi, thuật ngữ kiểm tra tồn tại trước thanh tra. Khi con người biết lao động, tức
là tham gia vào quá trình sản xuất, quan hệ giữa con người với nhau trong quá
trình sản xuất, phân phối của cải vật chất xã hội đòi hỏi phải quản lý, nghĩa là
đòi hỏi họ phải xem xét, đánh giá kết quả hoạt động của mình. Chính trong
hoạt động sản xuất, phân phối của cải vật chất xã hội quyết định sự cần thiết
phải có kiểm tra. Mặt khác, như Ăng-ghen đã nói “mỗi hoạt động có ý thức,
có tổ chức của con người đều chứa đựng trong nó những yếu tố của kiểm tra”
và “đối với mỗi con người tự nhiên, mỗi cộng đồng nguyên thuỷ, kiểm tra

được xem như là phương thức hành động để thực hiện mục đích” [17, tr.348].
Trong q trình phát triển của xã hội từ khi chưa có nhà nước đến khi
xuất hiện nhà nước thì tác động của chúng đối với xã hội có khác nhau về
mức độ thực hiện quyền năng: “thanh tra và kiểm tra là những chức năng,
những mặt của quản lý nói chung, chúng liên hệ, tác động lẫn nhau theo mức
độ quyền năng và trong mối tương quan với quản lý nhà nước thì thanh tra


12
giữ vai trị trực tiếp, bởi chính trong q trình thanh tra, ưu thế về tính quyền
lực nhà nước được thể hiện rõ hơn so với kiểm tra” [14, tr.321].
Sự ra đời của nhà nước - tổ chức quyền lực công cộng đặc biệt của giai
cấp thống trị về kinh tế đối với giai cấp bị trị đòi hỏi phải có những cơng cụ
mang tính quyền lực để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Từ đó, quản
lý mang tính quyền lực nhà nước xuất hiện và là một trong những đặc trưng
phân biệt nhà nước với các bộ lạc, thị tộc xưa kia và các tổ chức xã hội hiện
nay. Để thực hiện quản lý nhà nước, giai cấp thống trị sử dụng các chức năng
khác nhau, trong đó chức năng thanh tra nhằm tác động tới khách thể quản lý,
lập lại trật tự và nâng cao hiệu quả quản lý.
Như vậy, xét về mặt lịch sử, kiểm tra tồn tại từ rất xa xưa, khi chưa có
nhà nước cịn thanh tra xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước. Đương
nhiên, cùng với sự xuất hiện, tồn tại và tiêu vong của nhà nước, thì thanh tra
cũng sẽ không tồn tại, nhưng kiểm tra (mang tính xã hội) vẫn tồn tại cùng với
sự tồn tại của xã hội lồi người.
Việc tìm hiểu khái niệm thanh tra còn đòi hỏi phải nghiên cứu một số
quan niệm trong thực tiễn pháp lý hiện hành, cũng như trong lịch sử nước ta
thơng qua mơ hình tổ chức các cơ quan nhà nước và các quy định của Hiến
pháp và pháp luật.
Ở Việt Nam, thời kỳ phong kiến, khái niệm thanh tra chưa được sử
dụng, nhưng các triều đại Lý, Trần, Lê có cơ quan với chức năng gần giống

như cơ quan thanh tra hiện nay gọi là “Ngự sử đài” và có chức “Quan ngự sử”
đứng đầu Ngự sử đài. Ngự sử đài có nhiệm vụ giúp vua trong việc theo dõi,
xem xét các công việc hệ trọng của triều đình. Quan ngự sử đời nhà Trần có
quyền tiền trảm hậu tấu và là chức quan duy nhất có quyền can gián vua. Thời
Lê có hàm “Gián nghị đại phu” phong tặng cho bất cứ bề tôi nào dám nói
thẳng, nói đúng sự thật, Gián nghị đại phu có quyền can gián nhà vua những
việc nên làm và những việc không nên làm.


13
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta chưa sử
dụng thuật ngữ thanh tra, hoạt động thanh tra, kiểm tra chưa được giao cho
một cơ quan chun trách nào, quyền kiểm sốt đối với Chính phủ được giao
cho Ban Thường vụ Nghị viện: “khi Nghị viện khơng họp, Ban Thường vụ có
quyền kiểm sốt, phê bình Chính phủ”.
Ngày 23/11/1945, chỉ sau ba tháng từ khi Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hoà ra đời, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban Thanh tra
đặc biệt. Sắc lệnh nêu rõ: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt,
có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của Uỷ ban
nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”, từ đây thuật ngữ “thanh tra” xuất
hiện, quyền thanh tra được xác định và chính thức giao cho Chính phủ.
Hiến pháp năm 1959 cũng đề cập đến một số nội dung về kiểm tra việc
thi hành các quyết định quản lý nhà nước: “Các Bộ trưởng và thủ trưởng các
cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ ra đời những thông tư, chỉ thị và kiểm tra
việc thi hành các thông tư và chỉ thị ấy” và “Uỷ ban hành chính các cấp chiếu
theo quyền hạn do luật định mà ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành
những quyết định chỉ thị ấy”. Như vậy, thanh tra, kiểm tra ở đây ngoài việc
xem xét vi phạm của các cơ quan, nhân viên hành chính hay Chính phủ cịn
mở rộng ra giám sát, kiểm tra các hoạt động xây dựng, ban hành, thực hiện
các văn bản pháp quy.

Hiến pháp năm 1980 đã sử dụng thuật ngữ “thanh tra” với nội dung là
một chức năng của cơ quan quản lý nhà nước. Khoản 15 Điều 107 của Hiến
pháp quy định Hội đồng Bộ trưởng có nhiệm vụ: “tổ chức và lãnh đạo công
tác thanh tra và kiểm tra của Nhà nước”, Điều 110 quy định: “Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng lãnh đạo công tác của Hội đồng Bộ trưởng, đôn đốc, kiểm tra
việc thi hành những quyết định của Quốc hội, Hội đồng nhà nước, Hội đồng
Bộ trưởng”. Về Uỷ ban nhân dân, Điều 124 quy định: “Uỷ ban nhân dân các
cấp chiểu theo quyền hạn do luật định, ra những quyết định, chỉ thị và kiểm
tra việc thi hành những văn bản đó”.


14
Đến Hiến pháp năm 1992, khái niệm thanh tra, kiểm tra được thể hiện
rõ hơn qua các Điều 112, 115, 116 và 124. Khoản 7 Điều 112 quy định Chính
phủ có nhiệm vụ “tổ chức và lãnh đạo cơng tác kiểm kê, thống kê của Nhà
nước, công tác thanh tra, kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng
trong bộ máy nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơng dân”.
Điều 115 quy định: “… Chính phủ ra nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính
phủ ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó …”. Đối
với Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, thủ trưởng các cơ quan
thuộc Chính phủ “ra quyết định, chỉ thị, thông tư và kiểm tra việc thi hành các
văn bản đó…” (Điều 116). Đối với Uỷ ban nhân dân, Điều 124 Hiến pháp
năm 1992 cũng quy định “Uỷ ban nhân dân… ra quyết định, chỉ thị và kiểm
tra việc thi hành những văn bản đó”.
Trong sách báo pháp lý của ngành thanh tra thì “thanh tra được hiểu là
sự xem xét, kiểm soát, kiểm tra thường xuyên, định kỳ nhằm rút ra những
nhận xét, kết luận cần thiết để kiến nghị với các cơ quan nhà nước khắc phục
những nhược điểm, phát huy ưu điểm, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước” [15, tr.18]. Cơ quan thanh tra nhà nước tiến hành thanh tra việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc

thẩm quyền quản lý của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp (Điều 2) Luật
Thanh tra 2004.
Từ những phân tích nêu trên có thể khái quát khái niệm thanh tra như
sau: Thanh tra là một chức năng của quản lý nhà nước được thực hiện bởi chủ
thể quản lý có thẩm quyền, nhân danh quyền lực nhà nước nhằm tác động đến
đối tượng quản lý theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định trên cơ sở
xem xét, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phịng
ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần hồn thiện cơ chế quản lý, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.


15
1.1.2. Đặc điểm của thanh tra
1.1.2.1. Thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước
Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của quá trình quản lý
nhà nước, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước, “quản lý đồng thời phải có
thanh tra, quản lý và thanh tra là một chứ không phải là hai”.
Thanh tra là một phạm trù lịch sử, thanh tra gắn liền với q trình lao
động xã hội. Chính bản chất của q trình lao động xã hội địi hỏi tính tất yếu
phải có quản lý để điều chỉnh những hoạt động của tổ chức và cá nhân và thực
hiện những chức năng chung phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động của
cả cơ chế sản xuất với sự vận động của các yếu tố khách quan, độc lập hợp
thành cơ chế sản xuất đó.
Như vậy, việc xem xét, định hướng, đánh giá kết quả quản lý là một
phương diện của quản lý xã hội. Quản lý nhà nước là một bộ phận quản lý xã
hội và ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó có thanh tra.
Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra thì quản lý nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (đề ra đường lối, chủ trương,
quy định thẩm quyền của các cơ quan thanh tra, sử dụng các kết quả, các

thơng tin từ phía các cơ quan thanh tra). Mặt khác, hoạt động chấp hành của
quản lý nhà nước thường bao hàm cả sự điều hành, cho nên trong quá trình
thực hiện các văn bản pháp luật địi hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của
các cơ quan có thẩm quyền.
Quản lý nhà nước và thanh tra có cái chung là nhân danh quyền lực nhà
nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý. Song xem xét theo
cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là những công cụ, phương tiện
để quản lý nhà nước.
Là một khâu trong quá trình quản lý, thanh tra bị ràng buộc, chế ước
bởi quản lý, nhưng đồng thời tác động trở lại, góp phần điều chỉnh cách thức,
phương pháp quản lý của chủ thể quản lý nhà nước. Trong quá trình trình đó,


16
thanh tra phản ánh và bảo vệ mục đích của quản lý. Một thể chế hành chính
và cơ chế quản lý nhà nước sẽ không đầy đủ nếu thiếu thanh tra. Trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, hoạt động có tính hiệu quả của
thanh tra sẽ ngăn chặn được nguy cơ biến dạng, tuỳ tiện, thiếu kỷ cương trong
hoạt động quản lý nhà nước. Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh: Nhà nước xã hội
chủ nghĩa sẽ hạn chế được nguy cơ tham nhũng, tệ quan liêu, tăng cường
được kỷ cương xã hội khi những người cộng sản thực hiện tốt cơng tác thanh
tra, kiểm sốt.
1.1.2.2. Tính quyền lực nhà nước của thanh tra
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ chặt
chẽ với tính quyền uy - phục tùng của quản lý nhà nước. Là một chức năng
của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm
thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Khơng thể
khơng có quyền lực mà khơng gắn với một tổ chức. Nói về quyền lực nhà
nước trong quá trình thanh tra cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính
chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Vì vậy, thanh tra phải được nhà nước sử

dụng như một công cụ có hiệu quả trong q trình quản lý. Khi nói đến tính
quyền lực của các tổ chức thanh tra, Lênin nhấn mạnh: Thanh tra thiếu quyền
lực là thanh tra sng.
Có thể nói, thanh tra là một hoạt động ln ln mang tính quyền lực
nhà nước, chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan nhà nước. Thanh
tra luôn luôn áp dụng quyền năng của nhà nước trong quá trình tiến hành hoạt
động của mình và nó nhân danh nhà nước khi thực hiện quyền năng đó. Nói
cách khác, thanh tra là sản phẩm của nhà nước. Thanh tra chỉ xuất hiện từ khi
nhà nước ra đời và nó cũng sẽ tiêu vong cùng với sự tiêu vong của nhà nước.
Theo Mác, đến một giai đoạn nào đó, nhà nước sẽ tự tiêu vong và khi đó,
chức năng thanh tra sẽ cùng với Nhà nước được: xếp bên cạnh chiếc sa kéo
sợi và chiếc rìu đồng cổ.


17
Nói tóm lại, chủ thể duy nhất tiến hành thanh tra là nhà nước, thanh tra
xuất hiện, tồn tại và tiêu vong cùng với nhà nước. Ở các nước trên thế giới, dù
mơ hình tổ chức, hoạt động thanh tra có khác nhau nhưng đều có chung đặc
điểm này. Thậm chí, kể cả ở những nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ
vốn có xu hướng “khế ước hố” các mối quan hệ, kể cả quan hệ giữa nhà
nước với cơng dân cũng hồn tồn khơng có một loại hình thanh tra nào ngồi
những tổ chức thanh tra của nhà nước, mang uy danh nhà nước.
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ các cơ
quan thanh tra nhà nước đều có quyền hạn được xác định và khả năng thực
hiện những quyền hạn đó:
- Ra các quyết định bắt buộc thi hành đối với các đối tượng bị thanh tra
trong việc sửa chữa những thiếu sót đã bị thanh tra phát hiện.
- Yêu cầu có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra, yêu cầu truy
cứu trách nhiệm đối với những người có lỗi gây ra những vi phạm được phát
hiện, kể cả việc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để truy tố trước pháp luật.

- Trong một số trường hợp, trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế
nhà nước.
Không nên cho rằng, hoạt động thanh tra là hoạt động mang tính cưỡng
chế, vì như thế là đồng nhất quyền lực với cưỡng chế. Cưỡng chế chỉ là một
yếu tố đặc biệt và chỉ trong những trường hợp cần thiết khi sử dụng quyền lực
nhà nước mà thôi. Thanh tra là hoạt động thường xun, thiết thực, có tính
sáng tạo, ngày càng được mở rộng và trở nên rộng khắp, mang tính dân chủ sâu
sắc. Do đó, nói đến tính quyền lực nhà nước trong hoạt động thanh tra khơng
có nghĩa là trong hoạt động thanh tra chỉ sử dụng các biện pháp cưỡng chế.
Tính quyền lực nhà nước trong q trình thanh tra phải được cụ thể hố
trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống thanh tra, phương thức tiến
hành thanh tra, xử lý kết quả thanh tra, quan hệ giữa cơ quan thanh tra với đối
tượng bị thanh tra, sự phối hợp giữa các tổ chức thanh tra nhà nước và thanh tra
nhà nước chuyên ngành, thanh tra nhân dân. Nếu cụ thể hoá một mặt nào đó mà


18
khơng thực hiện đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực đều dẫn đến
hạ thấp vai trò và hiệu quả của hoạt động thanh tra, hạn chế hiệu lực thanh tra.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
lao động, nhân dân sử dụng quyền lực của mình thơng qua các cơ quan nhà
nước do mình bầu ra (trực tiếp hoặc gián tiếp). Do đó, nói tính chất nhân dân
của thanh tra là xác định vai trò to lớn của quần chúng tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp vào quá trình thanh tra. Đây cũng là điều kiện đảm bảo thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sự tham gia của quần chúng vào q trình thanh
tra, nói như Lênin: khơng chỉ là những phong trào, những tín hiệu dân chủ mà
phải quy định bằng pháp luật và thông qua bộ máy của Nhà nước.
1.1.2.3. Tính độc lập tương đối của thanh tra
Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Đặc điểm
này phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan chức năng khác của bộ máy

quản lý nhà nước. Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ
quan quản lý nhà nước tiến hành, hoạt động thanh tra thường được tiến hành
bởi một cơ quan chuyên trách. Ngoài những nhiệm vụ như những cơ quan
quản lý nhà nước khác, các cơ quan thanh tra có nhiệm vụ chủ yếu là xem xét,
đánh giá một cách khách quan việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ,
kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Tính độc lập tương đối trong quá trình thanh tra được thể hiện trên các
điểm sau:
- Chỉ tuân theo pháp luật
- Tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội
theo thẩm quyền được pháp luật quy định.
- Ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo các quy định của
pháp luật về thanh tra; chịu trách nhiệm về quyết định thanh tra của mình.
Ở đây, tính độc lập của hoạt động thanh tra chỉ là tương đối, bởi vì
trong hoạt động thanh tra, các cơ quan thanh tra phải căn cứ vào pháp luật và
chính sách hiện hành, đồng thời phải xuất phát từ thực tế cuộc sống, đặt sự
vật, hiện tượng, việc làm đang xem xét trong sự phát triển biện chứng với


19
quan điểm khoa học, lịch sử cụ thể. Ở nước ta, tính độc lập tương đối của các
cơ quan thanh tra trong quá trình thanh tra được quy định trong các văn bản
pháp luật từ khi Ban Thanh tra đặc biệt ra đời (23/11/1945) đến nay thể hiện
thông qua thẩm quyền của các cơ quan thanh tra. Điều 5, Luật Thanh tra
quy định: Hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác,
khách quan, trung thực, cơng khai, dân chủ, kịp thời; không làm cản trở hoạt
động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra. Mặt
khác, Luật cũng quy định cơ quan thanh tra tiến hành thanh tra theo yêu cầu,
nhiệm vụ mà thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước giao. Nếu thủ trưởng
không sử dụng kết quả thanh tra, khơng đồng ý với kết luận thanh tra thì cơ

quan thanh tra có quyền bảo lưu ý kiến và chuyển kết luận thanh tra lên cơ
quan thanh tra cấp trên cho đến Tổng Thanh tra Chính phủ.
Mọi hoạt động tài phán đều mất tính cơng minh nếu xa rời cơ sở pháp
luật, nếu chịu ảnh hưởng của những quyền lực khác, kể cả quyền lực về phía
cơ quan nhà nước cấp trên không chịu trách nhiệm trực tiếp về kết quả thanh
tra. Tuy nhiên, tính độc lập của thanh tra ở đây cần được hiểu là tính độc lập
của hoạt động thanh tra nói chung và độc lập về nguyên tắc nói riêng. Nó
khác với tính độc lập trong xét xử ở Tồ án, bởi vì:
Một là, thanh tra xem xét mọi việc khơng chỉ căn cứ vào tính hợp pháp
mà cả tính hợp lý;
Hai là, khơng phải mọi hoạt động thanh tra đều mang tính chất tài phán;
Ba là, trong hoạt động về thanh tra, về nguyên tắc người có trách
nhiệm, người quyết định cuối cùng trong việc xử lý kết quả thanh tra vẫn là
thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước;
1.1.3. Vai trị và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức
thanh tra
1.1.3.1. Vai trò của thanh tra
Thanh tra là nội dung không thể thiếu của quản lý nhà nước, là giai
đoạn cuối cùng trong chu trình quản lý, có vai trị kiểm định, đánh giá hiệu


20
quả của quản lý nhà nước. Qua thanh tra để có các kiến nghị khắc phục những
sơ hở, yếu kém, đề xuất những biện pháp đổi mới và nâng cao hiệu quả quản
lý, sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm quản lý tốt hơn, hiệu quả hơn. Chính vì
vậy, trong hoạt động quản lý nhà nước phải có thanh tra và thanh tra phải
phục vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước. Ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó
phải tổ chức cơng tác thanh tra, có hoạt động thanh tra. Quản lý nhà nước mà
khơng có thanh tra là quản lý suông, dễ quan liêu và xa rời thực tiễn.
Thanh tra làm cho quá trình quản lý nhà nước được khép kín, các hoạt

động ban hành và tổ chức thực hiện quyết định quản lý được gắn bó chặt chẽ
hơn, từ việc xem xét, đánh giá, kiểm chứng việc thực hiện các chủ trương,
chính sách của đối tượng bị quản lý, đến việc đề xuất các biện pháp hồn
thiện chủ trương, chính sách, nâng cao hiệu quả quản lý của chủ thể. Đó là
quy trình, là quy luật tất yếu trong bất cứ hoạt động quản lý của nhà nước nào.
Ngày nay, khi bước vào thời kỳ đổi mới mà trọng tâm là đổi mới kinh tế thì
vai trị của cơng tác thanh tra ngày càng cần thiết và quan trọng để quản lý
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thanh tra là phương thức bảo đảm trật tự, kỷ cương trong quản lý, góp
phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với chức năng giám sát hoạt
động của các đối tượng bị quản lý, bao gồm giám sát việc chấp hành chính
sách, pháp luật, chức trách, nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước và
cơng chức nhà nước; việc chấp hành chính sách, pháp luật của các tổ chức, cá
nhân và các đối tượng khác chịu sự quản lý của Nhà nước; thanh tra kịp thời
phát hiện những sai phạm và có biện pháp xử lý. Với chức năng, nhiệm vụ
xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định hoặc hành vi hành
chính của cán bộ, cơng chức nhà nước trong việc thực hiện chính sách, pháp
luật, chức trách, nhiệm vụ được giao; kết luận và xử lý kịp thời những việc
làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, thanh
tra góp phần bảo đảm trật tự kỷ cương trong quản lý, làm trong sạch bộ máy
nhà nước.


21
Hoạt động thanh tra ở đây còn được hiểu là việc chính chủ thể quản lý
tự kiểm tra, đánh giá chủ trương, chính sách của mình, đồng thời xem xét,
kiểm tra việc triển khai thực hiện của các cơ quan, cá nhân có trách nhiệm
trong hệ thống cơ quan quản lý.
Việc phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi sai phạm của
cá nhân, cơ quan có trách nhiệm, của các cá nhân, tổ chức là đối tượng bị

quản lý sẽ bảo đảm trật tự, kỷ cương pháp luật trong hoạt động quản lý. Mặt
khác, việc tìm ra những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý, phát hiện
những nội dung chưa phù hợp với yêu cầu thực tế khách quan, từ đó có các
biện pháp sửa đổi, bổ sung, khắc phục kịp thời có ý nghĩa tích cực trong việc
củng cố trật tự, kỷ cương, hồn thiện cơ chế quản lý. Tuy nhiên, cũng phải
hiểu rằng chỉ phát hiện, tìm kiếm sai phạm, sở hở, yếu kém trong quản lý thì
chưa đủ, mà thanh tra cịn phải phát hiện và khẳng định, đồng thời tạo điều
kiện cho những cơ chế mới nẩy sinh phát triển. Có như vậy thì hiệu quả cơng
tác quản lý mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của thực tiễn.
Hoạt động thanh tra góp phần bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân. Ở
nước ta, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là cội nguồn của
quyền lực nhà nước. Nhà nước có nghĩa vụ chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nhân dân, tạo mọi điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm
chủ của mình, tham gia quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Ngoài ra, nhân
dân là người giám sát các hoạt động của nhà nước. Trong Hiến pháp và các
văn bản pháp luật, Nhà nước ta không chỉ ghi nhận mà cịn có các cơ chế đảm
bảo thực hiện các quyền, nghĩa vụ của cơng dân thơng qua hình thức dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện.
Việc kiểm tra, giám sát đối với cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức
nhà nước là phương thức thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân.
Nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát thông qua hoạt động của các cơ
quan nhà nước do mình bầu ra, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề


22
nghiệp mà mình là thành viên và các Ban Thanh tra nhân dân; thông qua việc
khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật; xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
Với việc tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, hướng
dẫn, giúp đỡ Ban Thanh tra nhân dân hoạt động, tổ chức thanh tra nhà nước

tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình. Qua việc xem
xét, kết luận và kiến nghị giải quyết khiếu nại, tố cáo, các tổ chức thanh tra
nhà nước giúp Đảng và Nhà nước phát hiện kịp thời những vi phạm của cán
bộ, công chức, loại trừ những biểu hiện quan liêu, cửa quyền, mất dân chủ,
thiếu cơng bằng, xa rời lợi ích của nhân dân, từ đó có các biện pháp xử lý,
khắc phục, góp phần xây dựng và hồn thiện bộ máy nhà nước. Với ý nghĩa
này, thanh tra không chỉ là chức năng thiết yếu của bộ máy nhà nước mà còn
là nhu cầu khách quan của nhân dân, của xã hội.
1.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của của thanh tra
a. Về chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức thanh tra
Chức năng, nhiệm vụ chung của các tổ chức đựơc pháp luật hiện hành
quy định là: thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch
trong phạm vi thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước; giải quyết hoặc
kiến nghị cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo; quản lý nhà nước về
công tác thanh tra, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tổng hợp kết quả đấu
tranh chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước.
Pháp luật quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn cho từng tổ chức thanh tra;
phân biệt nhiệm vụ, quyền hạn của thanh tra nhà nước theo cấp hành chính và
thanh tra nhà nước theo ngành, lĩnh vực. Nhưng thực tế cho thấy, hiện nay có
sự chồng chéo về phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, đối tượng thanh tra giữa
thanh tra Chính phủ ở cấp trung ương với thanh tra bộ, ngành và thanh tra cấp
tỉnh, cấp huyện; giữa thanh tra nhà nước ở bộ ngành với thanh tra chuyên
ngành và thanh tra sở, ngành.


23
- Thanh tra nhà nước ở cấp tỉnh, cấp huyện có quyền thanh tra các lĩnh
vực, các đối tượng do Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý.
Chức năng của thanh tra là những mặt, những phương diện hoạt động
cơ bản nhằm thực hiện nhiệm vụ của bộ máy nhà nước. Thanh tra việc thực

hiện chính sách, pháp luật của các cơ quan nhà nước cần chú ý đến hai mặt:
- Tính hợp pháp của hoạt động quản lý, bao gồm từ việc ban hành
quyết định quản lý theo thẩm quyền, đến những hành vi hành chính của các
cơ quan quản lý và tính phù hợp theo luật định của các hoạt động trên. Mọi
hành vi lạm quyền, vượt thẩm quyền đều phải được cơ quan thanh tra với tư
cách là chủ thể nhân danh quyền hành pháp xem xét, kết luận.
- Tính hợp lý của các hoạt động quản lý thơng tin qua hành vi hành
chính (ban hành quyết định quản lý, hành động hay không hành động của các
chủ thể quản lý). Tính hợp lý của hoạt động quản lý thể hiện ở chỗ xem xét
các quyết định quản lý có tính khả thi hay khơng. Trong hoạt động quản lý,
tính hợp lý khơng gây ra những tác hại lớn, do đó khơng thể áp dụng các biện
pháp cưỡng chế mạnh.
Hoạt động thanh tra phải làm cho bộ máy hành chính nhà nước hoạt
động tốt hơn, hiệu quả hơn. Như vậy, hoạt động thanh tra phải hướng vào các
nội dung chủ yếu sau:
- Thanh tra việc chấp hành chính sách, pháp luật, việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ và trách nhiệm thi hành công vụ của cơ quan nhà nước và
viên chức nhà nước. Thông qua hoạt động này, thanh tra góp phần quan trọng
vào việc làm trong sạch bộ máy nhà nước, phát hiện và ngăn ngừa hành vi vi
phạm pháp luật của quan chức nhà nước.
- Thanh tra trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, tố cáo (tổ chức Thanh tra không phải là một cấp giải quyết khiếu
nại, tố cáo). Thơng qua hoạt động này, thanh tra góp phần tăng cường kỷ luật
trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân.


24
- Thanh tra các hoạt động quản lý kinh tế, quản lý xã hội của cơ quan
nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang, hoạt

động của các doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn sản xuất, các doanh
nghiệp liên doanh, liên kết với nước ngồi có sử dụng vốn và tài sản của Nhà
nước. Thơng qua hoạt động này, thanh tra góp phần rất quan trọng trong việc
chống tệ tham nhũng, cũng như các hành vi tiêu cực khác trong hoạt động
kinh tế, xã hội.
b. Về quyền hạn của các tổ chức thanh tra
Quyền hạn của các tổ chức thanh tra được xác định trên cơ sở tính
quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra, nó có mối quan hệ chặt chẽ với
tính quyền uy, phục tùng của quản lý nhà nước. Là một chức năng của quản lý
nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện
quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Khơng thể nói đến
quyền lực khi khơng gắn với một tổ chức. Nói về quyền lực nhà nước tron
q trình thanh tra có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất nhà nước của
tổ chức thanh tra, hay quyền hạn của thanh tra được thực hiện trên cơ sở
quyền lực nhà nước. Đó là quyền hạn của cơ quan quản lý hành chính nhà
nước. Khi nhấn mạnh tính quyền lực của tổ chức thanh tra, Lênin nói: “thanh
tra thiếu quyền lực là thanh tra sng”.
Tính quyền lực nhà nước của thanh tra thể hiện thông qua các quyền
hạn của các tổ chức thanh tra nhà nước được quy định trong Luật Thanh tra
mà tập trung cụ thể là Điều 39, gồm các loại quyền hạn sau:
1. Trong q trình thanh tra, Trưởng Đồn thanh tra có những nhiệm
vụ, quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức, chỉ đạo các thành viên trong Đoàn thanh tra thực hiện đúng
nội dung, đối tượng, thời hạn đã ghi trong quyết định thanh tra;
b) Kiến nghị với người ra quyết định thanh tra áp dụng các biện pháp
theo thẩm quyền để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ của Đoàn thanh tra;


25
c) Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo

bằng văn bản, giải trình về những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; khi
cần thiết có thể tiến hành kiểm kê tài sản của đối tượng thanh tra liên quan
đến nội dung thanh tra;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến
nội dung thanh tra cung cấp thơng tin, tài liệu đó;
đ) u cầu người có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép được
cấp hoặc sử dụng trái pháp luật khi xét thấy cần ngăn chặn ngay việc vi phạm
pháp luật hoặc để xác minh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận, xử lý;
e) Quyết định niêm phong tài liệu của đối tượng thanh tra khi có căn cứ
cho rằng có vi phạm pháp luật;
g) Tạm đình chỉ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền đình chỉ việc làm
khi xét thấy việc làm đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
h) Kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ việc thi hành quyết
định kỷ luật, thuyên chuyển công tác, cho nghỉ hưu đối với người đang cộng
tác với cơ quan thanh tra hoặc đang là đối tượng thanh tra nếu xét thấy việc
thi hành quyết định đó gây trở ngại cho việc thanh tra;
g) Báo cáo với người ra quyết định thanh tra về kết quả thanh tra và
chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của báo cáo đó.
2. Khi xét thấy không cần thiết áp dụng các biện pháp quy định tại các
điểm đ, e, g và h khoản 1 Điều này thì Trưởng Đồn thanh tra phải quyết định
hoặc kiến nghị huỷ bỏ ngay việc áp dụng các biện pháp đó.
3. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1 Điều này,
Trưởng Đoàn thanh tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi quyết
định của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây
thiệt hại thì phải bồi thường hoặc bồi hoàn theo quy định của pháp luật.



×