Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước ngạch chuyên viên vấn đề “đạo đức nhà giáo” qua tình huống được đăng trên báo điện tử dân trí ngày 10 tháng 12 năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.28 KB, 19 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”-một nguyên tắc, chính sách và mục tiêu
quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra không chỉ trong điều kiện của nền kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, mà ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà non trẻ ra đời cũng đã xác định và ghi nhận trong văn bản có giá trị pháp lý
cao nhất là Hiến pháp năm 1946. Trong những năm qua, nhờ chính sách đúng đắn
này mà nền giáo dục Việt Nam có những tiến bộ vượt bậc từ một người biết chữ đến
cả xã hội biết chữ (phong trào Bình dân học vụ); đến những công trình khoa học được
cả thế giới công nhận và ngưỡng mộ;…trong đó, hình ảnh nhà giáo luôn được xã hội
tôn vinh, trân trọng và quý trọng.
Bên cạnh những kết quả và thành tựu mà ngành giáo dục đã đạt được, những
hiện tượng nổi cộm đáng quan tâm ngày nay đang trở thành thách thức với sự phát
triển kinh tế tri thức; vị thế giáo dục Việt Nam như: Nguồn nhân lực có trình độ cao
phục vụ cho sự phát triển ổn định và bền vững nền kinh tế-xã hội thay thế cho nguồn
nhân công dẻ và tài nguyên thiên nhiên cạn dần; những bất cập từ quản lý giáo dục ở
các cấp học, bậc học về chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy;… dẫn đến
sự tụt hậu của giáo dục; vi phạm đạo đức học đường của nhà giáo và học sinh làm
“hoen ố” uy tín, danh dự và môi trường giáo dục;… Không phải bây giờ chúng ta
mới lên tiếng cảnh báo về những hiện tượng này, nhưng có lẽ sự thay đổi của chính
bản thân ngành giáp dục quá “nặng về cơ chế” dẫn đến tình trạng sai đến đâu sửa đến
đó và cách giải quyết không những không đem lại hiệu quả mà còn tạo ra những “lỗ
hổng” lớn trong quản lý giáo dục.
Chính sách “xã hội hoá” giáo dục của Đảng ghi nhận và đánh dấu những bước
khởi động mới cho ngành giáo dục, bằng việc: “Tách cơ quan hành chính công quyền
với tổ chức sự nghiệp. Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi
nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức
thực hiện một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng…”[1] đã mở ra hướng
phân biệt giữa quản lý nhà nước và dịch vụ mà Nhà nước đáp ứng cho xã hội. Đồng
1



thời, khẳng định tính trách nhiệm và chịu trách nhiệm trong hoạt động quản lý nhà
nước có hiệu quả của bộ máy nhà nước trong cung ứng dịch vụ công. Với những lý
do trên, cùng những hạn chế nhất định của bản thân, tiểu luận lựa chọn lĩnh vực
“Quản lý nhà nước về giáo dục” làm nội dung cơ bản để nghiên cứu.
PHẦN NỘI DUNG
I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Chưa bao giờ những vấn đề của giáo dục lại được dư luận quan tâm và nhắc
nhiều đến như hiện nay, chẳng hạn như: Nội dung chương trình, sách giáo khoa; cơ
sở vật chất, trường lớp; chính sách phát triển giáo dục; đạo đức nhà giáo; chất lượng
giáo dục hiện tại và tương lai; phương pháp giảng dạy;…Mỗi vấn đề dường như đã
để lại nhiều câu chuyện “buồn” về giáo dục với những căn bệnh phổ biến: bệnh thành
tích, bệnh tiêu cực; buông lỏng quản lý; thất thoát, lãng phí nguồn lực vật chất, chất
xám;… đã tạo ra một bức tranh khá ảm đạm cho tương lai phát triển giáo dục nước
nhà. Trong phạm vi có hạn, tiểu luận lựa chọn vấn đề “Đạo đức nhà giáo” qua tình
huống được đăng trên Báo điện tử Dân trí ngày 10 tháng 12 năm 2008: “…Bị cô giáo
bắt chống đẩy 250 lần, em Nguyễn Bảo S choáng váng, không đi nổi, phải bỏ về chỗ
ngồi. Gia đình em Sơn đòi Nhà trường phải bồi thường 50 triệu đồng cho những tổn
thất mà cô giáo đã gây ra đối với em S. Chiều ngày 10 tháng 12 năm 2008 tại Uỷ ban
nhân dân phường 7, thị xã Bến Tre diễn ra buổi hoà giải, thương lượng giữa Ban
giám hiệu Trường trung học cơ sở Mỹ Hoá và gia đình em Nguyễn Bảo Sơn (học sinh
lớp 7/3 của Trường). Tham gia hoà giải còn có hai luật sư bảo vệ của gia đình học
sinh này. Theo trình bày của em Sơn, chiều 2 tháng 10 năm 2008, em có cãi nhau với
bạn trong giờ học nên bị cô giáo Trần Huyền Trang bắt phạt thụt dầu 150 lần. Khi em
Sơn thực hiện được 100 lần thì bị té xuống, sau đó cô giáo bắt thực hiện lại từ đầu.
Đến khi em Sơn thực hiện đủ 150 lần (cộng 100 lần trước là 250 lần) thì đi không nổi
nên phải bỏ về chỗi ngồi. Tuy nhiên, cô giáo Trần Huyền Trang lại cho rằng, do em
Sơn có cãi nhau với bạn trong giờ học và chính em đề xuất hình phạt thụt dầu này.
“Khi đó do tiết học còn dài nên tôi không để ý em Sơn thụt dầu bao nhiêu lần”-cô
Trang nói. Tại buổi thương lượng, gia đình em Sơn đề nghị Nhà trường bồi thường 50
2



triệu đồng bao gồm chi phí điều trị, tổn thất tinh thần cho em Sơn nhưng không được
chấp nhận và cuối cùng cả hai thoả thuận là 18 triệu đồng. Ban giám hiệu cũng đã xin
lỗi gia đình và em Sơn”.
Quả thật, qua tình huống trên khó có thể có ai nghĩ rằng: Gia đình em Sơn lại
mạnh dạn đi đòi bồi thường về hành vi vi phạm của cô giáo Trần Huyền Trang và
càng không tin nổi khi Ban giám hiệu Nhà trường thoả thuận mức bồi thường là 18
triệu đồng. Nếu xét trong xã hội dân sự, việc khởi kiện và trách nhiệm bồi thường dân
sự là hợp quy luật, đúng pháp luật. Nhưng nếu ở góc độ giáo dục như hiện nay, mấy
gia đình đã có được dũng khí như gia đình em Sơn và sự mạnh dạn “quyết” của Ban
giám hiệu chấp nhận mức bồi thường theo hình thức dân sự ở một ngôi trường trường
công lập.
II. MỤC TIÊU CỦA TÌNH HUỐNG
Tình huống trên để lại cho chúng ta nhiều bài học về cách ứng xử của nhà
giáo trên bục giảng; ứng xử của Ban giám hiệu Nhà trường; Chính quyền địa phương
và xã hội,.. trong việc xây dựng “hình ảnh” và phương thức quản lý trong ngành giáo
dục không chỉ riêng của Trường trung học cơ sở Mỹ Hoá, giáo viên Trần Huyền
Trang mà chính là nền tảng giáo dục cơ bản của Việt Nam hiện hành. Trong những
năm qua, tình huống liên quan đến đạo đức nhà giáo; đạo đức học sinh; cán bộ, công
chức quản lý trong ngành giáo dục có nhiều. Song, mỗi tình huống tuy có cùng nội
dung nhưng lại khác nhau về bản chất, hình thức biểu hiện nên việc xác định mục tiêu
cần đạt được có nhiều cách phụ thuộc vào góc độ tiếp cận, nghiên cứu. Điều này cho
thấy tính đa dạng trong hoạt động quản lý nhà nước và mỗi cách tiếp cận theo giới
hạn của chủ thể nhất định, nhưng nhìn chung chúng đều có mục đích chung là nhằm
hướng đến xây dựng: “môi trường giáo dục trong sạch, lành mạnh” hơn. Dưới góc độ
khoa học quản lý, tiểu luận xác định các mục tiêu cụ thể của tình huống như:
Một là, tại sao trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế lại
có nhiều hành vi vi phạm đạo đức của nhà giáo như: Việc bắt học sinh phải học thêm,
đến những hành vi đánh đập học sinh, bắt học sinh liếm ghế, ép giao cấu trái ý muốn,

bắt thụt dầu,… trong đó có trường hợp của cô giáo Huyền Trang ngày càng phổ biến
3


và bị dư luận xã hội lên án gay gắt ? Phải chăng đây chính là sản phẩm tất yếu nảy
sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường hay chính sách phát triển và cơ chế quản lý
giáo dục ở nước ta còn mang tính “truyền thống” không phù hợp với điều kiện kinh
tế-xã hội mới;…
Hai là, biện pháp mà ngành giáo dục, trong đó có cơ quan quản lý giáo dục,
nhà trường lâu nay vẫn sử dụng để đánh giá cán bộ, công chức quản lý giáo dục và
nhà giáo phải chăng đã “lỗi thời”, mang tính hình thức và không hiệu quả. Mặt khác,
tính trách nhiệm và chịu trách nhiệm của nền công vụ nói chung và hoạt động công
vụ của mỗi cán bộ, công chức nói riêng còn mập mờ về tính chất, phương thức và cơ
chế thực hiện ?...
Những câu hỏi trên cũng chính là những vấn đề đặt ra cần phải được giải đáp
nhằm tìm ra lời giải cho bài toán “ngăn chặn” hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo
trong học đường. Đồng thời, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là quá trình tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức
“vừa hồng, vừa chuyên” phục vụ cho sự nghiệp “trồng người” ở Việt Nam hiện nay.
III. NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NHÀ
GIÁO VÀ TẮC TRÁCH TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC Ở
ĐỊA PHƯƠNG
Nguyên nhân của tình trạng xuống cấp về đạo đức của cán bộ, công chức,
trong đó có nhà giáo được phản ánh qua nhiều kênh khác nhau: Các Văn kiện của
Đảng; các bài phát biểu, báo cáo tại các Hội thảo giáo dục; báo chí, phát thanh,
truyền hình và dư luận. Song. với tình huống trên, bản thân tôi nhận thấy: Những yếu
tố trực tiếp hay gián tiếp làm nảy sinh các hiện tượng vi phạm đạo đức nhà giáo của
cô giáo Trang đã khẳng định những nguyên nhân khách quan mang tính nền tảng cơ
bản và những nguyên nhân chủ quan từ phía cá nhân những người tham gia các mối
quan hệ. Về cơ bản có thể thấy những nguyên nhân cơ bản sau:

1. Những nguyên nhân khách quan

4


Nguyên nhân khách quan, được coi là các tác nhân không phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của con người trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hành vi của cô giáo
Huyền Trang, cán bộ, công chức quản lý và cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
khi để xảy ra tình trạng vi phạm về đạo đức nhà giáo, chế độ công vụ và giảm hiệu
quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục ở Bến Tre. Các nguyên nhân khách
quan có nhiều, nhìn chung có thể xác định theo các nguyên nhân cơ bản như:
Thứ nhất, do điều kiện của nền kinh tế thị trường. Về lý luận, cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng cả về hình thức và nội dung. Trong khi đó, mặt trái
của nền kinh tế thị trường và những tác động của toàn cầu hoá đã tạo ra những vấn
nạn, sự xuống cấp đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, thanhthiếu niên trong xã hội. Xét hành vi của cô giáo Huyền Trang khi bắt học sinh lớp 7
thụt dầu 150 lần trong lớp chỉ vì vi phạm nội quy của lớp học và nhà trường đã phản
ánh tính khách quan của sự giao thoa văn hoá trong thời hội nhập và cơ chế giáo dục
hiện hành không phù hợp với những phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Nếu cơ chế hiện hành tạo cho cô giáo Huyền Trang cái quyền “tối thượng” đối với
học sinh, thì những ảnh hưởng về nếp sống văn hoá, ứng xử của nhà giáo trong bị ảnh
hưởng trong điều kiện hội nhập sẽ là những hành vi mà khó có thể kiểm soát nổi về
hình thức và phương thức tiến hành. Điều này lý giải tại sao ngày càng có nhiều hình
thức “kỳ quái” mà giáo viên áp dụng với người học (học sinh, sinh viên) trong môi
trường giáo dục ở Việt Nam. Một nguyên lý cơ bản khi cơ chế không thích ứng với
điều kiện kinh tế-xã hội sẽ là những tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển trong xã
hội. Nếu trong thời kỳ chiến tranh hay bao cấp (tương ứng với phương thức quản lý
mệnh lệnh-hành chính”,.. việc nhà giáo sử dụng hình thức dùng thước kẻ đánh vào
tay học sinh là điều bình thường, được cha mẹ, xã hội ủng hộ trong cách giáo dục của
nhà giáo, nhưng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường (phương thức mệnh lệnhkinh tế) thì liệu những hình thức đó có còn được xã hội, cha mẹ học sinh chấp nhận
nữa hay không ? Sự áp dụng theo phương thức, hình thức của cơ chế cũ trong cơ chế

mới phản ánh sự không thích hợp về quy luật và trong quan niệm về chuẩn mục của
xã hội ở những giai đoạn nhất định.
5


Thứ hai, những nguyên nhân xuất phát từ thể chế pháp luật quy định về cơ chế,
trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục. Các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành liên quan đến xác định trách nhiệm, quyền hạn và nhiệm vụ của
cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục còn dàn trải, mâu thuẫn và thiếu tính hợp lý
trong áp dụng vào điều kiện của địa phương. Điều này được khẳng định thông qua
những quy định cụ thể như:
Một là, những bất cập từ phân cấp chức năng quản lý giáo dục hiện hành.
Phân cấp quản lý ở Việt Nam hiện nay trong lĩnh vực giáo dục được xác định theo
cấp học. Chẳng hạn như, theo quy định của Điều 88 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003 xác định Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ
và quyền hạn trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: “(1) Quản lý nhà nước đối với các
loại hình trường lớp, được giao trên địa bàn tỉnh; trực tiếp quản lý các trường cao
đẳng sư phạm, trường trung học chuyên nghiệp, trung học phổ thông, trường bổ túc
văn hoá; đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trong tỉnh từ trình độ cao đẳng sư phạm
trở xuống;….” trong khi đó, cấp huyện được quản lý các bậc học trung học cơ sở,
tiểu học, các trường dạy nghề của huyện và cấp xã được xác định quản lý bậc mầm
non,… đã tạo ra những mâu thuẫn trong quản lý hiện hành của nhà nước ta. Việc xác
định mức độ phân cấp theo kiểu “tuổi nhỏ làm việc nhỏ”; hay “năng lực cấp thấp bao
giờ cũng yếu”,… đã tạo ra những rào cản nhất định trong hoạt động quản lý đối với
học sinh và cán bộ, công chức, nhà giáo. Điều này cho thấy những hạn chế cụ thể
như: Chính quyền cấp xã (cơ sở) không có quyền can thiệp, xử lý đến hành vi vi
phạm đạo đức của cô giáo Trang trong khi đó học sinh là người của xã, nhà trường
đứng trên địa bàn của xã; những công việc nảy sinh dù lớn hay nhỏ trong trường
trung học cơ sở (bao gồm tiểu học và trung học cơ sở) đều thuộc thẩm quyền của Uỷ
ban nhân dân cấp huyện nên khó được xử lý và giải quyết kịp thời. Trường hợp cô

giáo Trang- Trường trung học cơ sở Mỹ Hoá, thị xã Bến Tre là ví dụ điển hình cho
kiểu phân cấp này. Nếu, như Nhà trường và cô giáo Trang do chính quyền cấp xã
quản lý về chấp hành quy định của pháp luật về các điều kiện dạy học; giải quyết
những mẫu thuẫn giữa học sinh (đại diện cha mẹ học sinh) với nhà trường, giáo viên;
6


… thì chắc chắn hành vi của cô giáo Trang hay của bất kỳ ai khác được tiến hành xử
lý theo quy định và là bài học cho nhiều trường hợp khác. Nhưng, do cấp huyện quản
lý nên sự sao nhãng, bỏ qua, tiêu cực,… đã lấp liếm nhiều vấn đề ở các nhà trường,
của các giáo viên hiện nay. Mặt khác, trong tình huống trên, xã chỉ với tư cách là
người trung gian hoà giải chứ không phải một bên chịu trách nhiệm về cung ứng dịch
vụ giáo dục ở địa phương. Như vậy, việc phân cấp theo cấp học là cách phân cấp
không phù hợp với hệ thống chính quyền địa phương 3 cấp như ở Việt Nam. Đành
rằng, năng lực và hạn chế về cán bộ, công chức của cấp xã nhưng không thể phân cấp
theo cấp học mà cần xác định theo nhiệm vụ quản lý của các cấp học đặt ra. Có
những cấp học cao như cao đẳng, đại học hay thấp nhất như mẫu giáo cũng cần phải
được phân loại nhiệm vụ quản lý (hoạt động công vụ) để phân cấp. Tránh tình trạng
“cát cứ” quản lý theo cấp học dẫn đến “cát cứ” trong quản lý để rồi có những hiện
tượng “vô cảm”, “thờ ơ”, “bàng quan”,… của những chính quyền không có trách
nhiệm được phân cấp. Đây chính là tiền lệ nguy hiểm nhất trong hoạt động quản lý
của nhà nước ta hiện nay.
Hai là, những hạn chế về cơ chế thanh tra, kiểm tra đạo đức nhà giáo. Căn cứ
theo Thông tư liên tịch số 35/2008/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 14/7/2008 hướng dẫn
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giáo dục cấp tỉnh và
Phòng giáo dục cấp huyện và Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/04/2008
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, ban hành quy chế về đạo đức nhà giáo điều 8
xác định Uỷ ban nhân dân các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh: “(1) Chỉ đạo
ngành giáo dục phối hợp với các Ban, Ngành, Đoàn thể tổ chức thực hiện Quy định
về đạo đức nhà giáo; (3) Định kỳ thanh tra, kiểm tra công tác tổ chực thực hiện của

các cơ quan quản lý giáo dục; xử lý nghiêm túc, kịp thời đúng pháp luật các cá nhân,
tổ chức vi phạm quy định này”. Rõ ràng, các quy định về đạo đức nhà giáo, phương
thức xử lý đã có những quy định cụ thể. Song, hầu như không có tác dụng trong học
đường nói chung và ở trường Trung học cơ sở Mỹ Hoá nói riêng. Các nội dung quy
định trên đặt ra đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo thị xã Bến Tre là phải tham mưu
cho Uỷ ban nhân dân thị xã về chương trình và biện pháp tổ chức hiệu quả các quy
7


định về đạo đức nhà giáo đến các trường trung học cơ sở trên địa bàn thị xã; tổ chức
thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định về đạo đức nhà giáo;… Nhưng có lẽ, việc
tổ chức không được thực hiện hoặc chỉ được tổ chức theo kiểu qua loa, đại khái,…
nên hậu quả giáo viên Trang vẫn ngang nhiên dùng hình phạt “thái quá” đối với học
sinh của mình.
Xét theo quy định hiện hành, việc thanh tra, kiểm tra phải được tiến hành định
kỳ 6 tháng và 1 năm nhưng quan niệm lâu nay vẫn tồn tại “ngầm” trong ngành giáo
dục là thanh tra cũng chẳng qua mang tính “chiếu lệ”, để khẳng định “uy thế” của cán
bộ thanh tra nên vẫn thường rơi vào trạng thái “báo cáo” đạt chuẩn, đạt tốt ở tỷ lệ rất
cao.
Nếu Uỷ ban nhân dân thị xã Bến Tre, Phòng Giáo dục-Đào tạo thị xã Bến Tre
làm hết trách nhiệm của mình theo pháp luật, thì liệu những hành vi lệch chuẩn của
thầy-trò; những biểu hiện tiêu cực trong Nhà trường có thể xảy ra hoặc khi xảy ra có
thể kịp thời được ngăn chặn;… Điều này khẳng định, một mặt cơ chế “thẳng đứng”
mệnh lệnh-hành chính một chiều đã làm mất đi cơ hội giám sát và đánh giá chất
lượng giáo dục của người dân địa phương; mặt khác tạo ra “tiêu cực” trong giáo dục.
Chẳng hạn như, việc kiểm chứng chất lượng giáo dục, chất lượng nhà giáo chỉ được
tiến hành thông qua kênh thanh tra, kiểm tra của cán bộ thanh tra thị xã Bến Tre thì
có biết bao nhiêu vấn đề hạn chế mang tính chủ quan nảy sinh như: hiện tượng “bao
che”; “hình thức”;… trong khi đó những người thụ hưởng dịch vụ giáo dục thì không
có tiếng nói, thậm chí không có khả năng để được đánh giá chất lượng giáo dục, chất

lượng giáo viên;…Như vậy, mâu thuẫn nảy sinh từ cách xác định chủ thể đánh giá,
người được hưởng thụ dịch vụ thì không được đánh giá chất lượng mà người không
được hưởng thụ lại có quyền quyết định chất lượng của giáo dục, của nhà giáo. Đây
chính là nghịch lý về cách đánh giá thông qua hình thức thanh tra, kiểm tra hiện hành
của Nhà nước ta. Đồng thời, điều này giúp chúng ta khẳng định tại sao các báo cáo
chất lượng tốt nghiệp giáo dục, chuẩn giáo dục, chuẩn nhà giáo ưu tú, nhân dân,...
vẫn được xây dựng, vẫn được viết trong các bản báo cáo 6 tháng và hàng năm ở tất cả
các cấp học, bậc học trong khi thực tế thì ngược lại hoàn toàn. Đây cũng chính là
8


nguyên nhân làm nảy sinh các vấn nạn trong giáo dục, trong đó có hiện tượng của cô
giáo Trang mà lâu nay chúng ta bỏ qua.
Ba là, các quy định liên quan đến Ban giám hiệu, Ban đại diện cha mẹ học
sinh trong quản lý giáo dục, nhất là đảm bảo về đạo đức nhà giáo. Nếu như các quy
định trên tạo ra mối quan hệ mệnh lệnh-hành chính một chiều thì ngay trong Quyết
định số 11/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28/3/2008 ban hành Điều lệ Ban đại diện cha mẹ
học sinh, cũng không xác định cho họ cái quyền năng được giám sát và đánh giá tư
cách đạo đức của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục hàng năm. Bản thân, những
người như Ban đại diện cha mẹ học sinh là Hội đại diện (giám hộ, đại diện hợp pháp)
cho tiếng nói và quyền lợi của học sinh (con em họ) nhưng cũng chỉ được quyền phát
biểu trong mối quan hệ nhiều cấp quản lý hiện hành. Khoản 3, Điều 13 Điều lệ xác
định: “Tổ chức lấy ý kiến của Ban đại diện cha mẹ học sinh trường về công tác giáo
dục học sinh, quản lý dạy học, giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn, vận động
học sinh bỏ học trở lại lớp học và thực hiện Điều lệ Ban đại diện cha mẹ học sinh” và
Điều 13, khoản 2: “Định kỳ tổ chức cuộc hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh
trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp để tiếp thu ý kiến của Ban đại diện và cha
mẹ học sinh về công tác quản lý của nhà trường, biện pháp phối hợp giúp đỡ học
sinh,…”. Như vậy, hành vi vi phạm của cô giáo Trang, được gia đình em Sơn sử dụng
hình thức khởi kiện mà không phải là thông qua Ban đại diện cha mẹ học sinh đã

phản ánh những quy định vừa mới ban hành vẫn quá cứng nhắc và theo lối một chiều.
Nếu giả sử hiện tượng vi phạm đạo đức do học sinh gây ra đối với giáo viên thì cũng
không thể sử dụng các quy định hiện hành của ngành giáo dục để bảo vệ quyền lợi về
thể chất và tinh thần của mình. Phải chăng, đây chính là “lỗ hổng” trong tính thống
nhất các mối quan hệ giám sát, trách nhiệm và chịu trách nhiệm của các chủ thể tham
gia như: cơ quan quản lý giáo dục (cung cấp dịch vụ giáo dục); ban giám hiệu nhà
trường và học sinh (cha mẹ đại diện khi chưa đủ tuổi theo quy định). Mặt khác, sau
khi thực hiện trách nhiệm dân sự (bồi thường 18 triệu đồng) thì trách nhiệm của nhà
giáo, cán bộ quản lý giáo dục sẽ như thế nào ? Đây là vấn đề khó trong xác định trách
nhiệm theo quy định của pháp luật Việt Nam và đồng thời hình thức xử lý vẫn còn là
9


“thách thức” đối với các trường hợp khác vi phạm. Xét theo quy định hiện hành, cô
giáo Trang có thể bị xử lý kỷ luật, hoặc nặng nhất là tạm chuyển công tác sang làm
việc khác không phải là giảng dạy. Điều này không ảnh hưởng nhiều đến quyền lợi
của cô giáo Trang nên dễ trở thành điều kiện cho nhiều giáo viên khác cố tình vi
phạm đạo đức nhà giáo. Giữa cái lợi họ hưởng và cái mất khi bị phát hiện (lên án) đôi
khi là cái “cân” để các giáo viên tính toán thiệt hơn khi thực hiện hành vi vi phạm
chuẩn mực đạo đức nhà giáo. Ví dụ. nếu lựa chọn giữa dạy thêm “kiếm vài triệu” một
tháng với hình thức xử lý vi phạm hiện hành (nếu bị phát hiện và dư luận lên án) thì
câu trả lời sẽ phải là dạy thêm. Vì, việc phát hiện và xử lý theo cơ chế như trên phân
tích thì “còn lâu” họ mới bị phát hiện và xử lý nên “cờ đến tay ai thì người đó phất”
cũng là lẽ tự nhiên.
2. Những nguyên nhân chủ quan
Những nguyên nhân chủ quan được coi là những tiền đề phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của chủ thể tác động một cách trực tiếp hoặc giám tiếp vào hành vi vi phạm
đạo đức nhà giáo. Theo tình huống trên, có thể thấy những nguyên nhân cơ bản như:
Đối với hành vi của cô Trang bên cạnh những lý do khách quan đã lý giải thì về
phía chủ quan cho thấy: sự rèn luyện nền nếp, tác phong; lối sống, đạo đức không

được quan tâm. Điều này, chứng minh quá trình từ khi cô giáo Trang còn là học sinh
đến khi được đào tạo trong môi trường sư phạm và môi trường công tác ở Trường
trung học cơ sở Mỹ Hoá không chịu khó học tập, rèn luyện và hỏi hỏi các bạn, đồng
nghiệp và nền tảng đạo lý giáo dục của người Việt Nam. Do vậy, luôn có ý thức tự
mãn và tự cho mình là “thành công”; là “nhất” trong các mối quan hệ. Nên làm việc
gì ? như thế nào ? không ảnh hưởng đến bản thân,… Đây là biểu hiện cơ bản “cố
hữu” của một số giáo viên hiện nay, khi được tuyển dụng và biên chế chính thức là
không còn phải “phấn đấu” cả về đạo đức lẫn chuyên môn. Cách nhận thức này, hiện
nay vẫn phổ biến trong mô hình chức nghiệp mà nhà nước ta đang áp dụng.
Đối với em Sơn, vì lý do tuổi còn nhỏ (mới chỉ học lớp 7) nên việc nhận thức
về hành vi của cô giáo Trang đúng hay không đúng; chuẩn mực hay không chuẩn
mực; và các quyền lợi của mình được làm gì để bảo vệ mình;… đã dẫn đến tình trạng
10


cô bắt thụt dầu 150 lần vẫn pháp chấp hành nghiêm chỉnh, ngay cả khi mới thực hiện
được 100 lần không thực hiện được tiếp vẫn phải thực hiện lại hình phạt từ đầu… là
những nguyên nhân chủ quan làm nảy sinh tình huống trên. Nếu em Sơn có khả năng
nhận thức đầy đủ về quyền lợi của mình và hành vi sai trái của cô thì em không thực
hiện và nhờ sự giúp đỡ can thiệp của cô giáo chủ nhiệm, ban giám hiệu, ban đại diện
cha mẹ học sinh,…chắc chắn cô Trang và Ban giám hiệu nhà trường không phải bồi
thường 18 triệu đồng, nhà trường không để xảy ra hành vi vi phạm đạo đức của giáo
viên đối với thể chất và tinh thần của học sinh;…Phải chăng, nên hướng dẫn, tuyên
truyền và tạo điều kiện để học sinh tự thực hiện quyền bảo vệ trước sự xâm hại của
giáo viên.
Đối với cán bộ, công chức quản lý giáo dục ở Phòng Giáo dục-Đào Tạo thị xã
Bến Tre, Ban giám hiệu trường trung học cơ sở Mỹ Hoá còn hạn chế về năng lực tổ
chức, quản lý và tuyên truyền phổ biến các quy định hiện hành của pháp luật Việt
Nam về đạo đức nhà giáo, quy chuẩn nhà giáo trong môi trường giáo dục. Tính “công
bằng”, “nghiêm minh” và “dân chủ” được các cán bộ, công chức quản lý giáo dục,

cán bộ thanh tra, Ban giám hiệu thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định hiện hành thì
việc để xảy ra sự cố như cô giáo Trang có lẽ sẽ không có. Bởi lẽ, trước và sau khi có
quy chế “đạo đức nhà giáo” năm 2008 đã có nhiều bài học về sự lệch chuẩn đạo đức
bị xử lý. Song, dường như những bài học này không đến được với cô giáo Trang và
những hoạt động được các cán bộ thực thi theo kiểu “cho xong” nên những quan tâm
thực sự về môi trường sư phạm trong nhà trường không được các nhà quản lý quan
tâm.
IV. HẬU QUẢ CỦA HÀNH VI VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NHÀ GIÁO CỦA
CÔ GIÁO TRẦN HUYỀN TRANG
Qua phân tích và nội dung tình huống nêu lên những hậu quả trực tiếp, gián
tiếp mà em Sơn, gia đình em Sơn, các học sinh Trường trung học cơ sở Mỹ Hoá và
nhân dân trên địa bàn phải gánh chịu. Đặc biệt hơn là những tiền lệ nguy hiểm cho
môi trường giáo dục và quản lý giáo dục ở Việt Nam trong thời gian tới. Biểu hiện cụ
thể:
11


Thứ nhất, lòng tin của học sinh, phụ huynh học sinh và xã hội đối với nhà giáo,
cơ quan quản lý giáo dục bị giảm sút. Trong mối quan hệ 3 bên, nếu một bên không
có thiện chí như học sinh, cha mẹ học sinh đối với môi trường giáo dục mà họ sẽ giao
phó con cái họ là sơ sở để họ từ chối môi trường này mà chạy đi môi trường giáo dục
khác. Đây là hậu quả tất yếu trong khi xã hội hoá giáo dục trong điều kiện nền kinh tế
thị trường, lúc này môi trường công lập bị “tẩy chay” và môi trường “dân lập” sẽ là
cơ sở để thu hút sự quan tâm của học sinh và cha mẹ học sinh. Điều đáng nói hơn, khi
lòng tin bị giảm sút thì những hậu quả trong sự “hợp tác” giữa học sinh, cha mẹ học
sinh sẽ không có hiệu quả và vô hình dung đã tạo ra gánh nặng cho giáo dục ở địa
phương.
Thứ hai, tạo ra những tiền lệ xấu trong quản lý và lối hành xử của giáo viên trong
môi trường giáo dục. Những ảnh hưởng từ việc xử lý không nghiêm hoặc không có hình
thức chế tài xử lý thích đáng đã để lại hệ quả mang tính chất “dây truyền” trong môi

trường giáo dục ở Việt Nam trong những năm qua. Nguy hiểm hơn là những hành vi
lệch chuẩn này có thể xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của học sinh như: Đánh đập,
ép giao cấu trái ý muốn,…
Ngoài ra, những hậu quả trực tiếp về thể chất và tinh thần mà trực tiếp nhất là
em Sơn và gia đình em phải gánh chịu; thiệt hại về tài sản mà Ban giám hiệu nhà
trường phải chi trả trong thương lượng bồi thường;… đã được tình huống nêu lên khá
chi tiết và đầy đủ.
V. PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ
Từ những phân tích nguyên nhân, hậu quả của tình huống trên đòi hỏi các
cấp, các ngành, trong đó đặc biệt là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục cần phải có
trách nhiệm, có cách nhìn khách quan, đánh giá đúng bản chất của vấn đề,… từ đó đề
ra những phương hướng, giải pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và xây
dựng môi trường giáo dục trong sạch, lành mạnh ở mọi cấp học trên địa bàn địa
phương. Với những kiến thức đã được học và những hoạt động thực tế của một giáo
viên, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số các phương án giải quyết cụ thể như sau:
12


* Phương án 1: Xây dựng và xác định cơ chế chịu trách nhiệm và tính phải chịu
trách nhiệm của cơ quản quản lý nhà nước về giáo dục ở cấp huyện.
- Ưu điểm: Phương án này có nhiều ưu điểm nhằm cải cách phương thức quản
lý giáo dục theo đúng “bản chất” của vấn đề chứ không phải chỉ là những giải quyết
mang tính “hiện tượng” rời rạc và chắp vá. Xây dựng cơ chế này nhằm làm thay đổi
nhận thức, quan niệm về quản lý “thụ động” hiện hành của các cơ quan quản lý giáo
dục cấp huyện.
- Hạn chế: Phương án này có những hạn chế như: Để thay đổi được bản chất
của vấn đề cần phải có người lãnh đạo (Trưởng Phòng Giáo dục-Đào tạo cấp huyện)
quyết đoán, giám đối mặt với tiêu cực và thử thách. Mặt khác, liên quan đến thay đổi
thể chế pháp luật chung về giáo dục hiện hành nên mất nhiều thời gian xây dựng và
thực hiện.

- Kế hoạch thực hiện: Với mục tiêu mà phương án đặt ra, cần phải tiến hành
các trình tự, thủ tục cần thiết để xây dựng quy chế và phương pháp tổ chức thực hiện
khoa học.
+ Hoàn thiện hệ thống thể chế các quy định liên quan đến quản lý nhà nước về
giáo dục, trong đó xác định giữa “trách nhiệm và quyền hạn”; “trách nhiệm và tính phải
chịu trách nhiệm” theo từng chức năng, công việc được giao.
+ Tổ chức tuyên truyền phổ biến nhằm tạo sự chuyển biến về nhận thức, nâng
cao tinh thần trách nhiệm giám sát của các tổ chức chính trị-xã hội; đoàn thể, nhân
dân.
* Phương án 2: Xây dựng cơ chế đối trọng trong quan hệ “nhà giáo-học sinh”
; “Nhà giáo-Ban đại diện cha mẹ học sinh”; “Nhà quản lý-học sinh” và “Nhà quản
lý-Ban đại diện cha mẹ học sinh”.
- Ưu điểm: Đây là phương án nhằm tạo ra sự đối trọng trong quan hệ “độc tôn”
của cơ chế giáo dục và quản lý giáo dục hiện hành ở nước ta. Phương án này cho
phép trực tiếp giải quyết mọi vấn đề phát sinh từ hành vi tiêu cực của nhà giáo đối
với học sinh.
13


- Hạn chế: Hạn chế lớn nhất hiện nay vẫn thuộc về ý chí chủ quan của cán bộ,
quản lý giáo dục khi mà họ không muốn hoặc không nỡ từ bỏ các “quyền năng” mà
từ trước đến nay pháp luật và xã hội đã ban cho họ. Do vậy, khi thay đổi tình trạng
của quan hệ, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi của họ và đó cũng chính là những
hạn chế cho việc thực hiện phương án này. Mặt khác, Uỷ ban nhân thị xã Bến Tre có
mạnh dạn “phá dào” quy định về quản lý giáo dục hiện hành hay không còn phụ
thuộc vào vào sự tham mưu của Phòng Giáo dục-Đào tạo và quyết định của Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân thị xã.
- Thực hiện phương án: Để thực hiện phương án này cần tiến hành các nội
dung như:
+ Sửa đổi lại các quy định trong quy chế và điều lệ của học sinh và Ban đại

diện cha mẹ học sinh.
+ Phổ biến và tổ chức thực hiện trên mọi cấp học được phân cấp trên địa bàn
thị xã kể cả công lập, dân lập hoặc bán công.
VI. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN TỐI ƯU
Mỗi phương án trên đều có những ưu điểm, hạn chế nhất định, song xét điều
kiện thể chế pháp luật và xu hướng phân cấp quản lý ở Trung ương và địa phương
hiện hành của Việt Nam, tiểu luận lựa chọn phương án 2 là phương án tối ưu nhằm
giải quyết các hiện tượng mà tình huống nêu lên. Việc lựa chọn phương án này xuất
phát từ những lý do như: Phương án hai có những ưu điểm về tính khả thi, nhanh và
phù hợp với sự thay đổi của cấp Huyện. Đồng thời, phương án này là điều kiện quyết
định làm thay đổi sự giám sát và bảo đảm môi trường giáo dục “trong sạch, lành
mạnh” ở các nhà trường thuộc địa phương quản lý. Để thực hiện được phương án tối
ưu này cần phải tiến hành các kế hoạch hoạt động cụ thể như sau:
Bước một, xây dựng quy chế giám sát đạo đức nhà giáo của học sinh và
cha mẹ học sinh
Đây là bước cơ bản quan trọng nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực hiện
các hoạt động tiếp theo. Trong bước này, cụ thể phải tiến hành:
14


+ Phòng Giáo dục-Đào tạo thị xã Bến Tre tiến hành khảo sát, nghiên cứu xây
dựng bản tường trình làm cơ sở tham mưu cho Uỷ ban nhân thị xã quyết định giao
cho Phòng Giáo dục xây dựng quy chế và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ban hành Quyết
định kèm theo quy chế.
+ Sau khi có bản giải trình của Phòng giáo dục, Thường trực Uỷ ban nhân dân
xem xét các điều kiện, căn cứ và tính khả thi của nó để quyết định giao cho Phòng
giáo dục tiến hành soạn thảo quy chế giám sát của học sinh và Ban đại diện cha mẹ
học sinh đối với môi trường giáo dục của Nhà trường và cán bộ, giáo viên.
+ Phòng giáo dục soạn thảo quy chế, lấy ý kiến rộng rãi từ phía học sinh, giáo
viên, cán bộ quản lý, các nhà khoa học và nhân dân thị xã để nhằm tìm ra cơ chế phù

hợp nhất để giám sát hiệu quả và bảo vệ các quyền lợi của người trực tiếp được
hưởng thụ dịch vụ giáo dục.
+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân trên cơ sở quy chế hoàn thiện ban hành Quyết định
của Uỷ ban kèm theo Quy chế áp dụng bắt buộc đối với các cấp học, bậc học trong
phạm vi phân cấp của thị xã.
Bước 2: Tuyên truyền và tổ chức thực hiện Quyết định ban hành kèm theo
quy chế của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã Bến Tre
Thứ nhất, tổ chức tuyên truyền phổ biến ở các cơ quan, các bộ phận, các nhà
trường , học sinh, Ban đại diện học sinh và nhân trên trên địa bàn. Đây là khâu quan
trọng quyết định đến hiệu quả của quy chế. Việc tổ chức nghiêm túc và trên nhiều
kênh khác nhau sẽ là cơ sở làm chuyển biến về nhận thức các quyền, nghĩa vụ của
học sinh, ban đại diện cha mẹ học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý,… trong quá trình
tham gia vào quy trình dạy-học ở nhà trường trên địa bàn thị xã. Để tuyên tuyền, phổ
biến sâu rộng cần có sự tham gia của các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể và nhà
trường, đặc biệt là các tổ chức của chính quyền cấp cơ sở.
Thứ hai, tổ chức thực hiện quy chế. Trong quy chế xác định trách nhiệm, thẩm
quyền và nhiệm vụ của từng vị trí trong việc tham gia giám sát đạo đức nhà giáo
trong môi trường công tác và sinh hoạt ở địa phương; cơ chế giám sát, phát hiện và
15


xử lý thuộc thẩm quyền theo quy định. Đây là những quy định cơ bản có liên quan
đến nhiều đối tượng, chủ thể và được đánh giá tổng kết, rút kinh nghiệm theo từng
học kỳ, từng năm học từ đó làm cơ sở cho việc hoàn thiện dần cơ chế, các quy định
của Quy chế.
KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
I. KIẾN NGHỊ
Vấn đề đạo đức nhà giáo là vấn đề nhạy cảm có nội dung phức tạp. Do vậy,
trong quá trình triển khai phương án tối ưu cần phải có thời gian, vật chất và sự đồng
thuận của nhiều chủ thể. Song, để chấn chỉnh những hoạt động quản lý và hành vi vi

phạm đạo đức nhà giáo, tiểu luận xin kiến nghị một số vấn đề sau:
Một là, cần phải có thái độ rõ ràng và dứt khoát của các cơ quan quản lý nhà
nước đối với bất kỳ một hành vi lệch chuẩn nào của nhà giáo nhằm một mặt đảm bảo
tính nghiêm minh của các quy định, đồng thời răn đe đối với những người có ý đồ, xu
hướng đe doạ quyền, lợi ích, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người
học.
Hai là, cần phải coi công khai hoá các trường hợp vi phạm đạo đức nhà giáo
như là một khâu, một thủ tục cần có trong hoạt động quản lý và hoạt động giáo dục
của nhà trường. Điều này là tạo ra những ảnh hưởng tích cực tác động đến cá nhân
nhà giáo, học sinh và Nhà trường trong việc rút kinh nghiệm thông qua các trường
hợp vi phạm bị xử lý ở các môi trường giáo dục khác và ở địa phương khác trong cả
nước.
Ba là, chính quyền địa phương cơ sở và các tổ chức chính trị-xã hội cần quan
tâm hơn nữa đến điều kiện, môi trường học tập ở địa phương nhằm xây dựng cảnh
quan, môi trường giáo dục trong sáng, lành mạnh trên địa bàn chính quyền cơ sở.
II. KẾT LUẬN
Với những đóng góp trên, tiểu luận hy vọng sẽ góp phần hoàn thiện cơ chế
giám sát hoạt động dạy-học ở địa phương nói riêng và môi trường giáo dục nói
chung. Loại trừ những tiêu cực không đáng có trong hoạt động giáo dục; những khó
16


khăn cả về lý luận và thực tiễn làm nền móng cho quá trình chấn hưng giáo dục ở
Việt Nam trong thời gian tới, làm cho giáo dục đào tạo thực sự trở thành động lực
mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển nhanh, mạnh và bền vững.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Báo điện tử Dân trí

2.

Đảng Cộng sản Việt Nam-Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2001.

3.

Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày
26/11/2003.

4.

Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ
quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

5.

Quyết định số 07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/04/2007 ban hành
Quyết định kèm theo Điều lệ trường Trung học cơ sở, trường
trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học, xác
định phân cấp quản lý đối với trường phổ thông.

6.

Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/04/2008 của Bộ

trưởng Bộ Giáo dục-Đào Tại, ban hành Quy chế về đạo đức nhà
giáo.

7.

Quyết định số 11/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28/03/2008 ban hành
Điều lệ Ban đại diện cha mẹ học sinh.

8.

Thông tư liên tịch số 35/2008/TTLT-BGDĐT-BNV ngày
14/7/2008 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Sở Giáo dục và Đào tạo thuộc Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh, Phòng Giáo dục và Đào tạo thuộc Uỷ ban nhân dân cấp
huyện.

MỤC LỤC
Trang
18


Phần mở đầu

2

Phần nội dung

3

I. Mô tả tình huống


3

II. Mục tiêu của tình huống

4

III. Nguyên nhân của tình trạng vi phạm đạo đức nhà giáo và tắc
trách trong quản lý giáo dục ở địa phương

5

1. Những nguyên nhân khách quan

6

2. Những nguyên nhân chủ quan

12

IV. Hậu quả của hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo của cô giáo Trần
Huyền Trang

13

V. Phương án xử lý tình huống

14

VI. Kế hoạch xử lý phương án tối ưu


16

Phần kiến nghị và kết luận

17

I. Kiến nghị

17

II. Kết luận

18

Danh mục tài liệu tham khảo

19

19



×