Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Quá trình điều chỉnh của nhà nước phong kiến việt nam thế kỉ x XV để

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (933.83 KB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

VŨ MAI HƢƠNG

QUÁ TRÌNH ĐIỀU CHỈNH CỦA NHÀ NƢỚC
PHONG KIẾN VIỆT NAM THẾ KỈ X - XV ĐỂ
“PHÉP VUA VỚI TAY TỚI LỆ LÀNG”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

SƠN LA, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

VŨ MAI HƢƠNG

QUÁ TRÌNH ĐIỀU CHỈNH CỦA NHÀ NƢỚC
PHONG KIẾN VIỆT NAM THẾ KỈ X – XV ĐỂ
“PHÉP VUA VỚI TAY TỚI LỆ LÀNG”

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Trần Thị Phƣợng

SƠN LA, NĂM 2017



LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Th.s
Trần Thị Phượng, người đã tận tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin gửi tới các thầy giáo, cô giáo trong tổ Lịch sử Việt Nam, khoa
Sử - Địa, Trường Đại Học Tây Bắc lời cảm ơn chân thành vì đã quan tâm, giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới, Thư viện tỉnh Sơn La, Thư
viện Trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi và có những ý kiến
đóng góp quý báu cho tôi trong quá trình thu thập tư liệu, nghiên cứu để hoàn
thành khóa luận này.
Với thời gian nghiên cứu còn hạn chế, chắc chắn khóa luận không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận sự đóng góp chân thành của quý
thầy giáo, cô giáo và bạn đọc để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5 năm 2017
Tác giả khóa luận

Vũ Mai hƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 2
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................... 3
3.1. Đối tượng .................................................................................................... 3
3.2. Phạm vi đề tài .............................................................................................. 3
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 4
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu ..................................................... 4

4.1. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 4
4.2. Nguồn tài liệu .............................................................................................. 4
5. Đóng góp của đề tài ........................................................................................ 4
6. Bố cục đề tài ................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1: KHUNG CẢNH XÃ HỘI VIỆT NAM THẾ KỶ X - XV ........ 6
1.1. Tình hình chính trị ....................................................................................... 6
1.2. Tình hình kinh tế - xã hội ............................................................................ 9
1.3. Tình hình văn hóa – giáo dục..................................................................... 12
CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH ĐIỀU CHỈNH CỦA NHÀ NƢỚC PHONG
KIẾN VIỆT NAM THẾ KỈ X - XV ĐỂ “PHÉP VUAVỚI TAY TỚI LỆ
LÀNG” ............................................................................................................ 18
2.1. Chính trị .................................................................................................... 18
2.1.1. Tổ chức bộ máy nhà nước ...................................................................... 18
2.1.2. Luật pháp................................................................................................ 24
2.2. Kinh tế....................................................................................................... 29
CHƢƠNG 3: ẢNH HƢỞNG CỦA QUÁ TRÌNH “PHÉP VUA VỚI TAY
TỚI LỆ LÀNG” TỚI XÃ HỘI VIỆT NAM THẾ KỈ X - XV ...................... 38
3.1. Trong lĩnh vực chính trị ............................................................................. 38
3.2. Trong lĩnh vực kinh tế ............................................................................... 41
3.3. Trong lĩnh vực xã hội ................................................................................ 45
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 52
PHỤ LỤC



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở các nhà nước Phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng làng xã
luôn đóng vị trí, vai trò to lớn, bên cạnh sự tồn tại của nhà nước phong kiến. Vì

vậy, tất cả các nhà nước phong kiến đều muốn với cánh tay quyền lực của mình
tới các làng xã, để quản lý được các làng xã, chứng tỏ được sức mạnh của nhà
nước đối với đất nước, xã hội. Trong thế kỉ X – XV, lần đầu tiên lịch sử dân tộc
chứng kiến việc nhà nước phong kiến kiểm soát được các làng xã, hay “phép
vua thắng lệ làng”.
Ngay từ khi lập nước, nhà nước Văn Lang được hình thành trên cơ sở sự
liên kết của các làng xã (hay các công xã nông thôn). Vì vậy, những người đứng
đầu nhà nước luôn tôn trọng quyền tự trị của các làng xã. Về cơ bản các làng xã
là chủ sở hữu ruộng đất, sở hữu dân đinh và bảo lưu các giá trị văn hóa. Về sau,
từ các chính quyền phong kiến phương Bắc trong suốt hơn 1000 năm đô hộ, cho
đến các triều đại Khúc, Dương, Ngô, Đinh, Tiền Lê… đều muốn với tay tới các
làng xã, bước đầu thử nghiệm việc quản lý làng xã.
Song song với quá trình phong kiến hóa của nhà nước Việt Nam thì quá
trình các nhà nước phong kiến với cánh tay quyền lực của mình đến các làng xã
cũng được diễn ra. Chúng ta thường được nghe câu “Phép vua thua lệ làng”,
nhưng trong lịch sử phong kiến Việt Nam (thế kỉ X - XV) “phép vua” đã thắng
được “lệ làng” khi chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền được thiết
lập. Để làm rõ vì sao “phép vua” thắng “lệ làng”, tôi đã lựa chọn vấn đề Quá
trình điều chỉnh của nhà nước phong kiến Việt Nam thế kỉ X –XV để “phép vua
với tay tới lệ làng” làm khóa luận tốt nghiệp đại học.
Việc lựa chọn vấn đề Quá trình điều chỉnh của nhà nước phong kiến Việt
Nam thế kỉ X- XV để “phép vua với tay tới lệ làng” làm đề tài nghiên cứu có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn sau:
Về khoa học
+ Làm rõ quá trình hình thành, phát triển và hoàn chỉnh của nhà nước
phong kiến Việt Nam với thể chế quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền.
1


+ Làm sáng tỏ quá trình ra đời và vai trò của hương ước đối với xã hội

Việt Nam.
+ Làm rõ những biến đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt
Nam trong giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
+ Làm cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu cấu trúc xã hội Việt Nam thời
trung đại, đặc biệt dưới các vương triều Lý, Trần, Hồ, Lê sơ.
+ Đặt nền móng cho việc nghiên cứu kinh tế - xã hội nước nhà qua các
thời kì lịch sử.
Về thực tiễn
+ Kết quả nghiên cứu sẽ trở thành nguồn tư liệu để giảng dạy, học tập
trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, các trường Phổ
thông.
+ Bổ sung nguồn tài liệu cho việc nghiên cứu làm đề tài, khóa luận
chuyên sâu về lịch sử Việt Nam cổ trung đại.
+ Trong quá trình học tập sinh viên có thể sử dụng làm tài liệu học tập để
nghiên cứu về chính trị Việt Nam qua các thời kì.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quá trình các triều đại phong kiến Việt Nam thế kỉ X – XV thi hành
hàng loạt biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu để “phép vua với tay tới lệ làng”
đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Cho tới nay, ở mỗi góc
độ, khía cạnh khác nhau đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, trong
đó có thể kể đến một số công trình quan trọng sau:
Viện sử học Việt Nam đã xuất bản cuốn “Xã hội Việt Nam thời Lý Trần”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội (1981) đã cung cấp những tư liệu quý báu
để tìm hiểu về bối cảnh Việt Nam thời Lý - Trần, những vấn đề xung quanh đến
văn hóa, xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, đặc biệt là các quy định, luật định của
nhà nước đối với xã hội.
GS. Văn Tạo (chủ biên) trong cuốn “Sử học và hiện thực tập II - Mười
cuộc cải cách, đổi mới lớn trong lịch sử Việt Nam”, Nxb KHXH, Hà Nội (2000)
đã viết về các cuộc cải cách đổi mới trong xã hội Việt Nam thời trung đại: Công
2



cuộc đổi mới của Lý Công Uẩn, Trần Thủ Độ, cải cách của Hồ Quý Ly, cải cách
của Lê Thánh Tông đã đề cập đến sự hình thành các luật lệ, quy định mới trong
kinh tế - xã hội Việt Nam để “phép vua với tay tới lệ làng”.
Thể chế chính trị của các triều đại phong kiến Việt Nam đã được đề cập
trong cuốn “Thể chế chính trị Việt Nam trước cách mạng tháng Tám dưới góc
nhìn hiện đại” của Lưu Văn An, Nxb Chính trị quốc Gia, Hà Nội, xuất bản năm
2008. Đây là tài liệu quan trọng để tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của
thể chế chính trị, luật pháp qua các triều đại.
Quốc triều hình luật (Luật hình triều Lê) của Nxb Tư Pháp, Hà Nội,
2013 là bộ luật chính thống và quan trọng nhất của nhà Lê đã khái quát tình hình
Việt Nam thời Lê sơ, quy định cụ thể về các luật lệ, quy định của nhà nước đối
với địa phương trong các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội… để thấy được việc
quản lý chặt chẽ của nhà nước trung ương đối với cơ quan nhỏ bé nhất là làng
xã, hoàn tất quá trình quản lý làng xã trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Cuốn “Lê Thánh Tông – vị vua anh minh, nhà cách tân vĩ đại” của
Luật sư Lê Đức Tiết, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2007 là công trình khái quát toàn
bộ sự nghiệp của Lê Thánh Tông, với nội dung nghiên cứu những cách tân về
hành chính, pháp lý, kinh tế, quân sự của vua Lê Thánh Tông... đã làm cho kỉ
cương phép nước nghiêm minh, thuần phong mĩ tục nở rộ, vua trở thành người
có quyền lực cao nhất thống trị toàn bộ đất nước, kéo làng xã, kéo ruộng đất vào
đội ngũ phục vụ cho nhà vua bằng những chính sách, biện pháp hết sức khôn
khéo.
Tất cả các công trình trên là nguồn tư liệu tham khảo quý báu để tôi
thực hiện việc nghiên cứu của mình.
3. Đối tƣợng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng
Quá trình điều chỉnh của nhà nước phong kiến Việt Nam thế kỉ X - XV
để “phép vua với tay tới lệ làng”.
3.2. Phạm vi đề tài

- Giới hạn thời gian: Với đề tài Quá trình điều chỉnh của nhà nước
3


phong kiến Việt Nam thế kỉ X - XV để “phép vua với tay tới lệ làng” được giới
hạn trong phạm vi thời gian cụ thể, rõ ràng từ thế kỷ X - XV.
- Giới hạn không gian: Với đề tài Quá trình điều chỉnh của nhà nước
phong kiến Việt Nam thế kỉ X - XV để “phép vua với tay tới lệ làng” được giới
hạn trong phạm vi không gian toàn bộ lãnh thổ Việt Nam bao gồm 13 đạo, kéo
dài đến Quảng Nam (tương ứng tỉnh Đà Nẵng, Quảng Nam ngày nay).
- Giới hạn về nội dung: Đề tài tập trung làm rõ những biện pháp của các
triều đại phong kiến Việt Nam thế kỉ X – XV thực hiện mục tiêu “phép vua với
tay tới lệ làng”.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ quá trình các nhà nước phong kiến Việt Nam thế kỉ X - XV thực
hiện các chính sách, luật lệ để cố gắng với cánh tay quyền lực của mình tới các
làng xã, giảm bớt đi tính tự trị của các làng xã.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp lịch sử, lôgic, phương pháp sưu tầm tư liệu, so sánh đối chiếu,
phân loại hệ thống tư liệu.
4.2. Nguồn tài liệu
Cơ sở tài liệu của đề tài là nguồn tài liệu chính thống bao gồm các hệ
thống giáo trình, sách tham khảo, các tác phẩm công trình nghiên cứu của các
tác giả được công bố ở các nhà xuất bản, tạp chí. Đây là nguồn tài liệu quan
trọng, là cơ sở để xây dựng nghiên cứu đề tài này, cung cấp những kiến thức để
hoàn thành đề tài.
5. Đóng góp của đề tài
Thứ nhất, thông qua việc tìm hiểu về quá trình điều chỉnh của các triều

đại phong kiến Việt Nam thế kỉ X – XV nhằm thực hiện mục tiêu “phép vua với
tay tới lệ làng” góp phần làm rõ những biến đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội Việt Nam trong giai đoạn thế kỉ X - XV.
Thứ hai, làm cơ sở lí luận cho việc nghiên cứu thể chế chính trị - xã hội
4


Việt Nam thời trung đại, đặc biệt dưới các vương triều Lý, Trần, Hồ, Lê sơ.
Thứ ba, đặt nền móng cho việc nghiên cứu luật pháp nước nhà qua các
thời kì lịch sử.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu sẽ trở thành nguồn tư liệu để giảng dạy, học
tập trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, các trường
Phổ thông.
Thứ năm, bổ sung nguồn tài liệu cho việc nghiên cứu làm đề tài, khóa
luận chuyên sâu về lịch sử Việt Nam cổ trung đại.
Thứ sáu, trong quá trình học tập sinh viên có thể sử dụng làm tài liệu học
tập để nghiên cứu về luật pháp, chính trị, xã hội Việt Nam qua các thời kì.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài kiệu tham khảo, phụ lục, khóa luận
được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Khung cảnh xã hội Việt Nam thế kỉ X - XV
Chương 2: Quá trình điều chỉnh của nhà nước phong kiến Việt Nam thế
kỉ X – XV để “phép vua với tay tới lệ làng”
Chương 3: Tác động của quá trình “phép vua với tay tới lệ làng” tới xã
hội Việt Nam thế kỉ X – XV

5


CHƢƠNG 1

KHUNG CẢNH XÃ HỘI VIỆT NAM THẾ KỶ X - XV
1.1 . Tình hình chính trị
Năm 905, công cuộc khôi phục quyền tự chủ của Khúc Thừa Dụ giành
thắng lợi, kết thúc hơn 1000 năm Bắc thuộc, mở đầu kỉ nguyên độc lập dân tộc
lâu dài. Ngay từ buổi đầu độc lập, dân tộc ta bắt tay ngay vào xây dựng cho
mình một nhà nước riêng theo mô hình quân chủ chuyên chế. Mô hình nhà nước
gồm hai bộ phận: chính quyền trung ương và chính quyền địa phương.
Trong thế kỉ X, các dòng họ cầm quyền từ Khúc, Dương, Ngô, Đinh –
Tiền Lê đều ra sức thực hiện hàng loạt các biện pháp nhằm xác lập chế độ phong
kiến, xây dựng mô hình nhà nước quân chủ mang dáng dấp của người Việt khác
hoàn toàn so với phong kiến phương Bắc với mục tiêu khẳng định quyền độc lập
tự chủ, khẳng định quyền thống trị của dòng họ cầm quyền. Song về cơ bản đây
vẫn là những bước thử nghiệm, là sự chuyển tiếp từ những chính quyền tự trị
sang những mô hình nhà nước còn sơ khai đơn giản, các cơ quan, chức quan
chưa rõ ràng, chưa được thể chế hóa. Đây là thể chế chính trị “quá độ”, tạo tiền
đề cho việc xác lập thể chế chính trị quân chủ trung ương tập quyền hùng mạnh
sau này. Đặc biệt, mối quan hệ giữa nhà nước và các làng xã còn rời rạc. Nhà
nước chưa thể quản lí được các làng xã, tính tự trị của làng xã còn lớn.
Do các vị vua phải tập trung giải quyết những công việc cấp bách trong
hoàn cảnh đất nước vừa có hòa bình, vừa chuẩn bị đối phó với các thế lực hiếu
chiến phương Bắc, nên chưa có điều kiện biên soạn pháp luật thành văn để quản
lí, điều hành công việc. Tuy nhiên, ngay sau khi lên ngôi, Ngô Quyền đã ban hành
quan chế, nghi thức làm việc và y phục của các quan trong triều. Các vị vua đời
sau cũng đưa những quy định nghiêm ngặt để bảo vệ quyền lực của mình. Phép
nước ngày càng được coi trọng, các vua ban hành các quy định và xử phạt rất
nặng đối với những người vi phạm. Việc xét xử ở trung ương chủ yếu do vua định
đoạt, còn ở địa phương thì do các quan đảm nhiệm, vì vậy thường mang tính chủ
quan, tùy tiện, các quan hệ trong xã hội vẫn chủ yếu được điều chỉnh bằng luật
tục, tập quán truyền thống chứ chưa có sự can thiệp của nhà nước.
6



Từ năm 980 đến năm 1009, sự thay thế triều đại Tiền Lê bằng triều Lý là
một tất yếu lịch sử, đem lại sự phát triển ổn định cho dân tộc. Nhà Lý thành lập
và củng cố được một thể chế chính trị quân chủ trung ương tập quyền, đất nước
xây dựng phát triển trên quy mô lớn về mọi mặt. Năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô
từ Hoa Lư về Thăng Long và bắt tay vào xây dựng bộ máy nhà nước. Thể chế
chính trị triều Lý là thể chế chính trị kiểu quân chủ tập quyền. Nó được thiết lập
mô phỏng theo mô hình triều đình Tống, nhưng đơn giản, gọn nhẹ hơn và có
những nét riêng biệt.
Khác với triều Ngô, Đinh, Tiền Lê – chế độ cai trị nặng về quân sự; do
ảnh hưởng của Phật giáo, ngay từ đầu nhà Lý đã thiết lập thể chế chính trị dân
sự. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, một thể chế nhà nước quân chủ trung
ương tập quyền được thiết lập một cách chặt chẽ trên quy mô cả nước, từ trung
ương đến địa phương. Trong thể chế ấy, vua là trung tâm. Cũng chính từ việc
tập trung quyền lực một cách cao độ vào tay nhà vua mà đội ngũ quan lại thời
Lý mặc dù được phân công phụ trách các lĩnh vực nhưng hầu như chỉ tham gia
góp ý cho vua, ít được giao công việc cụ thể và quan trọng. Vua vừa là hoàng đế
của nhà nước quân chủ, vừa là thủ lĩnh của cả cộng đồng dân tộc; vừa là người
đại diện cho giai cấp thống trị, bóc lột, song vẫn còn dáng dấp người cha của các
công xã [1, Tr.61]. Dưới triều Lý, pháp luật thành văn đầu tiên ra đời và được áp
dụng thống nhất trên cả nước. Trên cơ sở thiết lập hệ thống chính quyền từ trung
ương đến địa phương, nhà vua đã mở rộng phạm vi quyền lực của mình, đã “với
tay” tới hầu hết các lĩnh vực. Từ đây mối quan hệ giữa nhà nước và làng xã đã
tiến lên một nấc mới.
Bước sang thời Trần, nhà nước với mục tiêu là với tay đến các làng xã,
nhằm thiết lập chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Bộ máy nhà
nước triều Trần ở trung ương được tổ chức với quy mô và trình độ cao hơn, chặt
chẽ hơn, sự phân cấp rõ ràng hơn so với triều Lý, gồm ba khối: các quan đại
thần, các bộ, các cơ quan chuyên môn. Đặc biệt, ở thời Trần những người quản

lí các làng xã được đưa vào hệ thống xã quan, chính quyền địa phương là bộ
phận quan hệ trực tiếp giữa trung ương và dân, phản ánh tính thống nhất của nhà
7


nước. Từ đây, mối quan hệ giữa nhà nước và các làng xã trở nên mạnh mẽ hơn
trước. Và để tăng cường tính pháp lí cho các cơ quan, nhà Trần ban hành bộ luật
Quốc triều thông chế. Theo đó, bộ máy quan lại được quy định rõ ràng và chặt
chẽ về trách nhiệm, quyền hạn của từng cấp cơ quan, từng chức vụ cụ thể, đảm
bảo sự lãnh đạo thống nhất của nhà vua.
Vào cuối thời Trần, mô hình thể chế chính trị quân chủ quý tộc với
quyền lực lỏng lẻo thuộc về các thân vương, quý tộc dựa trên cơ sở kinh tế điền
trang, thái ấp đã không còn phù hợp. Sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly đã bắt tay
thiết lập thể chế quân chủ trung ương tập quyền. Vua nắm quyền tuyệt đối, tập
trung, không phân chia. Nhà Hồ cũng áp dụng thể chế chính trị lưỡng đầu chế
như thời Trần để quản lí nhà nước. Đối với các cấp địa phương, nhà Hồ giám sát
hết sức chặt chẽ để xử lí những người chống lại vương triều. Song về cơ bản, thể
chế chính trị đó vẫn chưa phải là công cụ hữu hiệu để thực hiện hóa mục tiêu với
tay tới làng xã mà các triều đại trước đặt ra.
Tuy vậy, trong thời gian trị vì ngắn ngủi, nhà Hồ đã ban hành nhiều
chính sách về pháp luật, trong đó có nhiều bộ luật quy định những biện pháp
trừng phạt nghiêm khắc đến tàn bạo như: đồ hình, lưu hình, tử hình, chôn sống,
dìm xuống nước... [1, Tr.91], nhằm tăng cường tính chuyên chế và để trừng trị
những kẻ chống đối.
Cho đến thế kỉ XV, dưới vương triều Lê sơ, thể chế trung ương tập
quyền và khuynh hướng chuyên quyền độc đoán ngày càng tăng. Các chế độ và
thể chế nhà nước được quy định thành luật lệ, quy chế lương bổng, ruộng lộc,
phẩm tước rõ ràng và thống nhất. Quyền lực của vua được tập trung cao độ. Bộ
máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, nhỏ nhất là cấp xã cũng đều được
tổ chức lại chặt chẽ, chuyên môn hóa. “Thể chế chính trị thời Lê sơ được tổ chức

giống như một sơ đồ hình trôn ốc – rất nhiều tầng nấc nhưng tất cả đều tập
trung đến điểm cuối cùng là nhà vua” [1, Tr.120].
Mục tiêu cuối cùng của công cuộc cải tổ bộ máy nhà nước thời Lê sơ là
củng cố và hoàn thiện một bước nền quân chủ chuyên chế phong kiến, nhằm tập
trung tuyệt đối quyền lực vào tay vua. Bộ Luật Hồng Đức thời vua Lê Thánh
8


Tông ra đời là đỉnh cao của tư tưởng về nhà nước pháp quyền; đồng thời là
phương tiện, công cụ hữu hiệu để nhà nước quản lí xã hội. Bộ luật còn là sự kết
hợp pháp trị với đức trị trong đạo trị quốc an dân; mối quan hệ giữa pháp luật
của nhà nước với phong tục tập quán của làng xã. Do đó, mối quan hệ giữa nhà
nước và làng xã thời kì này chặt chẽ và ổn định hơn.
Có thể nói, bộ máy nhà nước Việt Nam sau cải cách của Lê Thánh Tông
đã đạt đến đỉnh cao của mô hình nhà nước quân chủ chuyên chế. Vua tuy vẫn
giữ những chức năng cơ bản nhưng với quyền lực tập trung hơn, quyết đoán
hơn. Như vậy, đến những năm 70 của thế kỉ XV, quá trình phong kiến hóa nhà
nước Việt Nam đã hoàn thành. Sau cải cách Lê Thánh Tông, xã hội Việt Nam
bước vào giai đoạn “quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền kiểu quan
liêu”.
1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Dưới chế độ phong kiến, nông nghiệp là nền tảng của xã hội và chi phối
tất cả các nền kinh tế khác, “dĩ nông vi bản” là câu nói thể hiện quan điểm này.
Các nhà nước phong kiến đặc biệt quan tâm đến vấn đề ruộng đất, ruộng đất là
vấn đề sống còn của các triều đại, nó đảm bảo tính chuyên chế và uy quyền của
nhà vua. Việc quản lý được ruộng đất trong xã hội tạo nên mối ràng buộc chặt
chẽ giữa những người nông dân với nhà nước phong kiến. Thời kỳ Bắc thuộc,
phong kiến Trung Quốc đã tìm mọi cách vươn xuống tận cơ sở để nắm lấy và sử
dụng làng Việt truyền thống như một công cụ phục vụ cho mưu đồ thống trị và
đồng hóa của chúng. Từ đầu Công nguyên tuy chế độ Lạc tướng đã bị xóa bỏ và

chính quyền đô hộ đã nắm giữ được cấp huyện, nhưng vẫn không thể khống chế
nổi cơ sở hạ tầng của xã hội Việt cổ là các công xã (tức là các xóm làng). Người
Việt suốt thời kì thống trị của phong kiến phương Bắc đã không ngừng bảo tồn
và củng cố cộng đồng xóm làng, biến xóm làng thành những pháo đài chống
Bắc thuộc, chống đồng hóa, dựa vào làng và xuất phát từ làng mà đấu tranh
giành lại nước. Công xã nông thôn Việt Nam với kết cấu chặt chẽ của nó không
những không bị giải thể mà trái lại có mặt còn được củng cố trong ngàn năm
chống Bắc thuộc.
9


Nhìn chung, kinh tế thế kỉ X chủ yếu là nền kinh tế nhỏ, tự cung tự cấp
là chính. Ruộng đất trên danh nghĩa thuộc về nhà nước, nhưng sở hữu thực tế lại
thuộc về các công xã nông thôn. Thời kì này, nhà nước chưa đủ sức mạnh để can
thiệp vào làng xã, mà chỉ thông qua làng xã để thu tô thuế. Do ruộng đất nằm
trong tay các làng xã, chính vì vậy các nhà nước phong kiến tiêu biểu lúc này là
họ Khúc phải tìm mọi cách can thiệp, quản lí được làng xã. Vì có chạm được
đến làng xã thì nhà nước mới có thể quản lí được ruộng đất trong xã hội, củng
cố quyền lực của mình.
Cùng với sự phát triển kinh tế, phân hóa xã hội cũng ngày càng sâu sắc
hơn. Số lượng quý tộc, địa chủ gia tăng nhanh, các tầng lớp thợ thủ công, tiểu
thương ngày càng đông đảo. Tuy nhiên, nông dân tự do vẫn là giai cấp chủ yếu
trong xã hội. Đặc biệt dưới thời Đinh, khi nhà nước lấy Phật giáo làm quốc giáo,
các nhà sư có vai trò rất quan trọng và được mọi người kính nể.
Thời Lý – Trần, nhân dân Việt Nam đã ra sức xây dựng một nền kinh tế
tự chủ, toàn diện. Trong các thế kỉ XI – XIV, nông nghiệp là nền tảng chủ yếu.
Canh tác nông nghiệp được khuyến khích. Như nhận định của sứ thần nhà
Nguyên là Uông Đại Uyên “Nước Việt Nam đất rộng, người đông, ruộng đất
phần nhiều phì nhiêu”. Nhà thơ Bùi Tông Quán đã từng ca ngợi:
Đứng mãi nào hay ngày đã muộn

Khắp đồng lúa tốt tựa mây xanh.
Dân số ngày càng tăng, công cuộc khai hoang lập làng mới ngày càng
phát triển. Đất đai ven sông, ven biển được khai phá. Nhiều nông dân rời làng
quê đi vào vùng đất phía Nam, bấy giờ còn hoang vắng, khai hoang xây dựng
làng xóm, ruộng đồng. Ruộng đất ngày càng được mở rộng. Hình thành các hình
thức sở hữu chính về ruộng đất: Ruộng đất thuộc sở hữu trực tiếp của nhà nước,
ruộng đất công làng xã, ruộng tư của nông dân và quan lại, địa chủ, ruộng điền
trang của quý tộc.
Tuy đã trải qua hơn 4 thế kỉ phát triển theo định hướng phong kiến, mặc
dù đã hình thành một loạt các điền trang tư nhân, nhưng tế bào kinh tế xã hội cơ
bản vẫn là các làng xã tự do. Tầng lớp địa chủ thường sinh hoạt chủ yếu trong
10


phạm vi làng mình, chịu ít sự chi phối của các chức dịch nhà nước xét duyệt.
Phần ruộng đất thuộc sở hữu của họ cũng phân tán trên nhiều cánh đồng khác
nhau. Thậm chí dưới thời Trần, các làng được cấp làm thái ấp cho các vương
hầu, quý tộc cũng còn giữ được ít nhiều tính tự trị của mình. Theo định hạn, nhà
nước cử quan lại về các làng kiểm kê dân số, phân loại dân đinh và tuyển chọn
binh sĩ. Trong lúc đó, nhà nước để cho làng quản lí và phân phối ruộng đất
công theo tập quán. Những lúc cần, nhà nước có thể lấy một bộ phận nào đó
ban cấp cho một viên tướng có công [7, Tr.16]. Làng xã trở thành một thiết chế
bảo vệ người nông dân nông thôn trong thời bình cũng như trong thời chiến.
Như vậy, làng xã là nền tảng của xã hội Việt Nam. Nhà nước Lý – Trần
được xây dựng, củng cố trên cái nền tảng đó nên nhà nước phong kiến Lý –
Trần phải cố gắng với tay tới bộ phận làng xã, đảm bảo vững chắc cơ sở tồn tại
của mình.
Trong xã hội thời Lý – Trần, nông dân là giai cấp chủ yếu. Tầng lớp quý
tộc, địa chủ ngày càng tăng về số lượng. Sự phát triển mạnh mẽ của các ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp dẫn đến tầng lớp tiểu thương, tiểu

chủ ngày càng đông đảo trong xã hội. Bên cạnh đó, trong xã hội Trần tầng lớp
quý tộc (chủ yếu thuộc họ Trần) gia tăng. Mỗi quý tộc đều cai quản phần điền
trang, thái ấp của mình và những nông dân, nông nô sống ở đó. Nguồn sống chủ
yếu của quý tộc là dựa vào tô thuế, lao dịch của nông dân. Từ đây, chế độ đẳng
cấp được phân biệt rõ ràng, dưới vua là các vương hầu, quan lại rồi đến thứ dân.
Vương hầu, quý tộc nắm giữ những chức vụ chủ chốt trong triều. Tầng lớp thấp
kém nhất trong xã hội lúc bấy giờ là nô tì.
Tình hình kinh tế - xã hội thời kì này cực kì phức tạp. Cuối thời Trần,
phần lớn đất đai thuộc sở hữu của tầng lớp quý tộc. Các điền trang, thái ấp của
quý tộc họ Trần ngày càng được mở rộng, số nô tì, nông nô làm việc trong đó
ngày càng tăng. Nền kinh tế không tập trung được sức mạnh của cộng đồng, xã
hội bất ổn, nạn trộm cướp nổi lên. Vì vậy, trong những năm cầm quyền Hồ Quý
Ly đã cố gắng cải cách và thay đổi trên nhiều lĩnh vực, nhằm ổn định xã hội,
khẳng định quyền lực tối cao của nhà vua.
11


Đầu thế kỉ XV, khi cuộc khủng hoảng xã hội Việt Nam cuối Trần chưa
được giải quyết thì cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Minh đã diễn ra. Từ 1407
– 1427, đất nước ta dưới ách cai trị của nhà Minh, ruộng đất bị bỏ hoang, lực
lượng sản xuất bị tàn phá nghiêm trọng. Bên cạnh đó nhà Minh tiến hành xâm
chiếm ruộng đất, thiết lập nên các đồn lính và giao cho binh lính tự cày cấy, các
tướng giặc cũng ra sức cướp đoạt ruộng đất của nhân dân, xin cấp lính để làm
người cày. Địa chủ, cường hào ở các địa phương nhân tình thế loạn lạc cũng ra
sức chấp chiếm ruộng đất của nhân dân và những người li tán. Điều này đã
khiến cho số lượng diện tích ruộng đất công bị suy giảm, nhưng nông nô, nô tì
lại tăng lên.
Buổi đầu vương triều Lê sơ, tuy nhà nước đã thực hiện một số chính
sách và biện pháp nhằm xác lập quyền sở hữu ruộng đất công của nhà nước,
tăng cường việc quản lí làng xã… Nhưng các làng xã còn mang nặng tính tự trị,

tự quản, vẫn trực tiếp nắm quyền quản lí và phân chia ruộng đất công theo tập
tục của làng, mặc dù phải chịu dưới quyền sở hữu của nhà nước. Quyền sở hữu
tối cao của nhà nước về ruộng đất vẫn chưa hoàn toàn được xác lập. Do đó cuối
thế kỉ XV, Lê Thánh Tông đã tiến hành cải cách nhằm phân chia lại ruộng đất
công, hạn chế vai trò của làng xã đối với ruộng đất, thể hiện sức mạnh của nhà
vua đối với nền kinh tế. Địa chủ phong kiến và nông dân là hai giai cấp chủ yếu
trong xã hội thời kì này. Giai cấp địa chủ lại chia thành hai tầng lớp: địa chủ quý
tộc, quan chức trung, cao cấp và địa chủ thường. Nông dân chiếm đại đa số dân
cư, sống ở các làng xã, bao gồm nông dân tư hữu, tá điền và nông nô. Nô tì vẫn
là một tầng lớp đáng kể trong xã hội.
Chính vì vậy, thời kì này nhà Lê sơ, đặc biệt là dưới thời vua Lê Thánh
Tông, nhà nước đã tìm mọi cách can thiệp vào hệ thống làng xã, can thiệp vào
quyền sở hữu ruộng đất của các làng xã, bắt các làng xã phục tùng nhà nước
phong kiến.
1.3. Tình hình văn hóa – giáo dục
* Văn hóa
Trong hơn 1000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, nước ta chịu ảnh
12


hưởng của văn hóa Hán. Tuy nhiên với ý thức niềm tự hào dân tộc, phong kiến
phương Bắc đã không thể đồng hóa được nhân dân ta. Năm 905, Khúc Thừa Dụ
giành quyền tự chủ đã kết thúc thời kỳ đô hộ hơn 1000 năm của phong kiến
phương Bắc, ra sức xây dựng chính quyền độc lập, tự chủ, xây dựng một nền
văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Bước sang thế kỷ X - thế kỷ độc lập, dòng văn hóa ảnh hưởng chính đến
xã hội Việt Nam là Phật giáo. Phật giáo được đề cao, coi là quốc giáo và tác
động đến đường lối cai trị và thể chế chính trị của các triều đại phong kiến. Thời
Lý - Trần bên cạnh văn hóa dân gian trong xã hội Việt Nam còn tồn tại ba tôn
giáo đó là Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo được gọi là thời kì “Tam giáo đồng

nguyên”. Nhà nước Lý - Trần chủ trương duy trì một chính sách khoan dung
hòa hợp và chung sống hòa bình giữa các tín ngưỡng tôn giáo. Cũng bởi thấm
nhuần tư tưởng từ bi, thương người của nhà chùa mà tính chất tập quyền, chuyên
chế trong đường lối trị nước của các vua Lý cũng dịu đi. Thời kỳ đầu, nhờ biết
kết hợp và phát huy sức mạnh của Phật giáo, nhà Lý đã duy trì được một xã hội
ổn định, ít loạn lạc, chấm dứt tình trạng cát cứ.
Tuy nhiên, với mong muốn xây dựng một nhà nước quân chủ tập quyền
từ trung ương xuống địa phương nhà Lý đã lựa chọn Nho giáo. Với sự kiện năm
1070, vua Lý Thánh Tông cho dựng nhà Khổng miếu tiền thân của Văn Miếu
sau này ở phía Nam kinh thành, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối đã
đánh dấu dòng văn hóa Nho học chính thức xâm nhập vào Việt Nam. Tuy nhiên,
với những nguyên lý cơ bản của phép trị nước Nho giáo chỉ ảnh hưởng đến tầng
lớp trên và rất mờ nhạt ở các làng xã.
Nhà Trần, do đạo Phật chiếm vị trí độc tôn là quốc giáo nên ảnh hưởng,
chi phối đến mọi mặt đời sống xã hội. Thời kỳ đầu nhà Trần thực hiện chế độ
hôn nhân nội tộc, quan lại đều phải là người trong tôn thất. Năm vị vua đầu nhà
Trần chịu ảnh sâu sắc của Phật giáo như: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông,
Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông. Nhiều công trình kiến trúc
Phật giáo được xây dựng, đặc biệt không thể không nhắc tới vua Trần Nhân
Tông vị vua thứ ba của nhà Trần đã lập ra Thiền phái trúc lâm Yên Tử và trở
13


thành Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Càng về sau, do yêu cầu xây dựng phát triển nhà nước phong kiến tập
quyền vững mạnh nhà Trần đã nhận thấy cần phải mở cửa để thu hút nhân tài,
góp sức xây dựng đất nước do đó Phật giáo tuy vẫn tồn tại nhưng không còn vị
trí độc tôn như trước nữa, nhường chỗ cho sự lên ngôi bước đầu của Nho giáo
với tư cách là một học thuyết trị nước và vai trò ngày càng lớn của giới trí thức
Nho học. Nếu những vị vua đầu triều Trần chịu ảnh hưởng sâu sắc của

Phật giáo, thì 6 vị vua cuối thời Trần lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo,
lấy nền giáo dục Nho học làm nguồn tuyển chọn quan lại trong cả nước thay thế
chế độ đơn tộc trước kia.
Sau khi lên thay thế nhà Trần, để khắc phục khủng hoảng kinh tế, chính
trị xã hội, Hồ Quý Ly đã tiến hành một cuộc cải cách trên mọi lĩnh vực. Trong
lĩnh vực văn hóa Hồ Quý Ly muốn đưa Nho giáo trở thành quốc giáo bằng nhiều
biện pháp: Đưa ra nhiều chính sách hạn chế Phật giáo, không ưu đãi tăng ni và
phát triển chùa triền như thời Trần mà còn có những biện pháp giảm thiểu:
“Năm 1396, Hồ Quý Ly bắt tất cả các nhà sư chưa đến tuổi 50 phải hoàn tục để
lao động” [7, Tr.78]. Ngoài ra, Hồ Quý Ly làm sách Minh Đạo (con đường
sáng), bày tỏ quan điểm của ông về Nho giáo, hạ thấp vai trò của Khổng Tử, phê
phán Nho gia là những người “học rộng nhưng tài kém, không quan thiết đến sự
tình (phục vụ thực tiễn cuộc sống), chỉ chuyên việc lấy cắp văn chương của
người xưa” [7, Tr.78].
Tuy nhiên, cuộc xâm lược của nhà Minh đã làm đứt gãy quá trình Nho
giáo vươn lên thống trị xã hội. Vương triều Lê sơ đã tiếp nối quá trình còn dang
dở đó. Ngay sau khi lên ngôi vua Lê Thánh Tông đã đưa Nho giáo trở thành
quốc giáo. Mọi thành phần trong xã hội có học đều được tham gia thi cử, đỗ đạt
thì đều được ra làm quan phụng sự triều đình. Dưới thời Lê Thánh Tông không
có trường hợp quan lại không qua thi cử mà được làm quan. Triều đình phong
kiến áp dụng triệt để quan niệm của Nho giáo trong việc trị nước. Sau cải cách
của Lê Thánh Tông Nho giáo trở thành hệ tư tưởng độc tôn trong xã hội Việt
Nam, đưa Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển đỉnh cao.
14


* Giáo dục
Đối với các nhà nước phong kiến, ngoài hình thức tuyển chọn quan
lại thông qua nhiệm tử (tập ấm), khoa cử là một hình thức để giáo dục đào tạo,
cung cấp đội ngũ quan lại phục vụ cho nhà nước phong kiến. Thế kỷ X, tầng lớp

giữ vai trò trí thức chủ yếu trong xã hội đó là các nhà sư, họ là những người duy
nhất trong xã hội biết đọc, biết viết. Nhà sư trở thành người thầy dạy học, nhà
chùa trở thành nơi dạy học cho nhân dân.
Tuy nhiên thế kỷ XI, bên cạnh tầng lớp trí thức tôn giáo, dưới nhà Lý đã
xuất hiện thêm một bộ phận đảm nhận việc giáo dục trong cả nước là trí thức
Nho học. Năm 1070, nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu. Năm 1075, vua Lý Nhân
Tông lập ra Quốc Tử Giám. Cùng với việc mở Quốc Tử Giám, nhà Lý quan tâm
tới việc tổ chức các kỳ thi Nho học để lựa chọn nhân tài mà các triều đại trước
chưa thực hiện được.“Năm 1075, Lý Nhân Tông xuống chiếu tuyển Minh kinh
bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển cho vào hầu vua
học” [15, Tr.48]. Việc mở khoa thi Nho học đầu tiên đánh dấu việc nhà Lý
chính thức tuyển người theo Nho giáo làm quan bên cạnh tầng lớp quan lại thiên
về kiến thức Phật giáo trước đó.
Tiếp nối nhà Lý, vương triều Trần sau khi thành lập cũng tổ chức rất
nhiều kỳ thi Nho học. Năm 1247, nhà Trần đặt ra lệ Tam Khôi để khuyến khích
việc học tập trong cả nước. Tuy nhiên, ở thời nhà Lý cũng như nhà Trần quan lại
được tuyển chọn chủ yếu thông qua nhiệm tử, tập ấm. Bên cạnh hệ thống trường
do nhà nước thành lập còn xuất hiện các trường học tư, tuy nhiên số lượng chưa
nhiều.
Vương triều Hồ cũng rất quan tâm đến giáo dục, năm 1400, Hồ Quý Ly
tổ chức kỳ thi đầu tiên. Tháng 7 năm 1405, Hồ Hán Thương tổ chức kỳ thi Bộ
Lễ. Nhà Hồ tuy chỉ tồn tại được 7 năm nhưng đã tổ chức được hai kỳ thi lấy gần
200 người trong đó có một trạng nguyên. Bên cạnh đó, để bổ sung đội ngũ quan
liêu cho bộ máy chính quyền, nhà Hồ trọng dụng lấy quan lại đã thi đỗ từ các
triều đại trước, điều này cho thấy nhà Hồ rất coi trọng bộ phận trí thức Nho học.
Đặc biệt nhà Hồ không cho phép quý tộc tôn thất tham gia bộ máy nhà nước.
15


Tuy tồn tại ngắn ngủi nhưng một số nhân tài đỗ đạt dưới thời Hồ sau này phục

vụ cho nhà Lê sơ như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến,
Nguyễn Thành.
Nhà Lê sơ là một triều đại hết mực coi trọng giáo dục, vua Lê Thái Tổ
chú trọng đến việc đào tạo nhân tài cho đất nước ngay sau khi lên ngôi. Ông ra
lệnh cho các chấn trong nước đều phải xây dựng trường học, mở mang nền giáo
dục trong nước, con em thường dân đều được đi học trừ con nhà hát xướng và
người đang bị tội đày. Thời kỳ đầu nhà Lê sơ sử dụng quan lại đã thi cử đỗ đạt
của triều đại trước, ban chức tước cho những người có công với triều đại. Tuy
nhiên, giai đoạn sau do yêu cầu xây dựng một nhà nước quan liêu nên Lê Thánh
Tông sử dụng hình thức lựa chọn hiền tài qua khoa cử. “Gần 100 năm dưới thời
Lê sơ (1428 - 1527) từ khoa thi Hội đầu tiên năm 1442 đến khoa thi cuối cùng
năm 1526, nhà Lê đã mở được 26 khoa thi, đào tạo được 988 tiến sĩ. Thời Lê sơ,
đặc biệt là thời Lê Thánh Tông là một thời kì thịnh đạt của nền giáo dục - khoa
cử phong kiến Việt Nam. Riêng 38 năm dưới thời trị của Lê Thánh Tông (1460 1497) có 12 khoa thi Hội, lấy 501 người đỗ tiến sĩ, trong đó 10 người đỗ trạng
nguyên. Trong thời Lê sơ có những kì thi Hội có đến hàng ngàn thí sinh, như
khoa thi năm Ất Tỵ (1475) có đến 3000 người dự thi” [15, Tr165].
Như vậy, đến thời Lê Thánh Tông cùng với sự thắng thế của Nho giáo,
giáo dục Nho học cũng chính thức vươn lên khẳng định vị trí của mình so với
giáo dục dân gian cũng như giáo dục Phật giáo trong các nhà chùa trước đây.

16


Tiểu kết chƣơng 1
Xã hội Việt Nam từ thế kỷ X - XV có nhiều biến động mạnh mẽ về kinh
tế, chính trị, văn hóa, giáo dục. Tất cả các triều đại đều mong muốn xây dựng
một thể chế chính trị đỉnh cao, một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, một nền
giáo dục đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Các triều đại đều cố
gắng vươn cánh tay quyền lực của mình đến đơn vị hành chính nhỏ nhất là làng
xã, quản lý làng xã bằng luật pháp của nhà nước, xây dựng chế độ chính trị quân

chủ chuyên chế đỉnh cao. Qua từng triều đại, điều này lại càng được thể hiện rõ
nét hơn, đến cuối cùng khi chế độ phong kiến chính thức được xác lập ở nước ta,
thì đó cũng là lúc phép vua thắng được lệ làng.

17


CHƢƠNG 2
QUÁ TRÌNH ĐIỀU CHỈNH CỦA NHÀ NƢỚC PHONG KIẾN VIỆT NAM
THẾ KỈ X - XV ĐỂ “PHÉP VUAVỚI TAY TỚI LỆ LÀNG”
2.1. Chính trị
2.1.1. Tổ chức bộ máy nhà nƣớc
Trong suốt thời kì phong kiến, các triều đại từ Khúc, Ngô, Đinh, Tiền lê
cho đến Lý, Trần, Hồ, Lê sơ sau này, đều luôn cố gắng với cánh tay quyền lực
của mình tới các làng xã, giảm bớt tính tự trị của làng xã. Vì vậy, qua các triều
đại phong kiến bộ máy quản lí nhà nước ngày càng được củng cố và đạt được
tính chuyên chế của mình.
Thời Văn Lang – Âu Lạc, quan hệ nhà nước với làng xã còn lỏng lẻo. Đến
thời chống Bắc thuộc, chính quyền nhà Đường cho thành lập cấp xã ở nước ta,
nhưng đến thế kỉ IX, làng xã vẫn là đối tượng đồng hóa, chứ chưa trở thành
công cụ thống trị trong hệ thống nô dịch của chính quyền phong kiến phương
Bắc. Sự tồn tại của các làng xã với các “pháo đài xanh” là nơi phong tục, tập
quán, truyền thống của làng xã được duy trì lâu dài.
Sang đến thế kỉ X là sự thay thế nhau nắm quyền của các vương triều
Khúc, Dương, Ngô, Đinh, Tiền Lê và tất cả các vương triều này đều muốn thiết
lập mô hình bộ máy nhà nước theo xu hướng tập quyền, đồng thời chính quyền
trung ương đã bắt đầu thử nghiệm việc quản lí làng xã. Bắt đầu từ chính quyền
độc lập đầu tiên của họ Khúc, làng xã Việt Nam mới thực sự trở thành cấp cơ sở
của hệ thống quản lí hành chính nhà nước. Khúc Hạo đã tổ chức lại bộ máy quản
lí nhà nước từ trung ương cho đến cấp xã nhằm xây dựng một chính quyền dân

tộc thống nhất. Ông chia cả nước thành những đơn vị hành chính các cấp: lộ,
phủ, châu, giáp, xã. Đổi các hương ở các huyện làm giáp, đặt mỗi giáp một quản
giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Ngoài những hương cũ đổi thành
giáp, Khúc Hạo còn chia đặt thêm các giáp mới, tổng cộng 314 giáp (thời chính
quyền đô hộ nhà Đường ở nước ta có 159 hương). Đơn vị hành chính thấp nhất
là xã có các chức Chánh lệnh trưởng, Lãnh trưởng cai quản. Những đơn vị hành
chính cấp cơ sở được xây dựng trên cơ sở là những đơn vị kinh tế - xã hội vốn
18


có của công xã nông thôn để tăng cường sự quản lí trực tiếp của chính quyền
trung ương đối với cấp cơ sở và xác lập quyền tự chủ của đất nước.
Như vậy, so với bộ máy cai trị Giao Châu từ nhà Đường đến Hậu Lương là
“nắm từ trên xuống”, thấp nhất là với tay được đến cấp “hương” chứ không thể
nắm đến cấp “xã”. Nay họ Khúc – một chính quyền dân tộc, dựa vào dân, phải
sát dân, phải “nắm từ dưới lên”, nắm từ cấp cơ sở là cấp “xã” [12, Tr.42].
Sang đến thời Đinh, Tiền Lê, chính quyền trung ương do vua đứng đầu,
vua nắm mọi quyền hành cả về dân sự cũng như quân sự. Dưới vua là quan văn,
võ (trong đó cao nhất là Định Quốc Công), ngoại giáp, thập đạo tướng quân, về
sau có thêm: thái sư, đại tổng quản, đô hộ phủ sĩ sư, tả và hữu điện tiền chỉ huy
sứ, chi hậu… Ở địa phương, ban đầu cả nước chia thành 10 đạo, dưới đạo là cấp
cơ sở - cấp giáp, đứng đầu là quản giáp, phó tri giáp; dưới giáp là cấp xã, đứng
đầu là chánh lệnh trưởng và tá lệnh trưởng. Năm 1002, Lê Hoàn đổi 10 đạo
thành lộ, dưới có phủ, châu. Các lộ, châu đều có quản giáp, thứ sử, trấn tướng…
trông coi. Nhằm bảo vệ quyền lực của dòng họ, nhà vua đã cử hoàng tử trông
coi các châu về tất cả các mặt. Chính quyền trung ương vẫn chưa “với tay” đến
được tất cả các vùng. Ở các vùng cao, miền núi, vùng đồng bằng xa xôi vẫn nằm
ngoài phạm vi kiểm soát của triều đình và vẫn do các thủ lĩnh địa phương quản
lí theo truyền thống tự quản làng xã.
Có thể thấy, bộ máy quản lí thời kì này ngày càng được mở rộng với chức

năng, nhiệm vụ rõ ràng hơn, nhưng phần lớn các quan vẫn làm việc kiêm nhiệm,
chưa có cơ quan chuyên môn giúp việc. Hệ thống chính quyền địa phương thời
kì đầu còn lỏng lẻo, mang nặng tính “tự trị”, nhưng về sau đã được tổ chức chặt
chẽ hơn, đặc biệt dưới triều Tiền Lê.
Đến nhà Lý, với mục tiêu xây dựng một nhà nước tập quyền chính quy, nên
đã ra sức hoàn thiện bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương. Đứng
đầu là vua (hoàng đế), vua quyết định mọi việc trong nước. Dưới vua là tể tướng
đứng đầu các quan đại thần trong triều đình. Hệ thống quan lại được chia làm
hai ban: ban văn và ban võ. Ban văn có tam thái (thái sư, thái phó, thái bảo),
tam thiếu (thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo), bên võ có thái úy, thiếu úy, bình
19


chương sự.
Dưới thời Lý, chính quyền địa phương được chia làm 24 lộ đứng đầu là An
phủ chánh phó sứ (ở miền núi gọi là châu, trại). Dưới lộ là các huyện do tri
huyện đứng đầu. Đơn vị hành chính cơ sở là hương và xã, đứng đầu là các xã
quan. Dưới xã là giáp, giáp đã tham gia quản lí xã hội một cách hữu hiệu, giúp
giải quyết nhiều công việc quan trọng ở làng xã: quản lí dân đinh, thu tô thuế,
điều động dân đinh trong lao dịch và binh dịch. Đối với vùng sâu, vùng xa nhà
Lý đặc biệt quan tâm đến các dân tộc ít người với chính sách tranh thủ các tù
trưởng ở địa phương thông qua con đường hôn nhân (gả công chúa), nhưng cũng
nghiêm khắc trừng trị, trấn áp các tù trưởng có âm mưu chống lại triều đình.
Bằng những biện pháp này đã thắt chặt mối đoàn kết dân tộc và mở rộng ảnh
hưởng của triều đình đến các vùng sâu, vùng xa. Như vậy, trên cơ sở thiết lập hệ
thống chính quyền ở địa phương, với đội ngũ quan lại trung thành, nhà vua đã
mở rộng được phạm vi quyền lực của mình trên cả nước, đã “với tay” tới hầu hết
các lĩnh vực cơ bản của lối sống xã hội.
Đến triều Trần, nhà Trần đã tiếp tục củng cố thể chế chính trị quân chủ
trung ương tập quyền. Vua đứng đầu nhà nước, thay trời trị dân, có quyền lực

tuyệt đối, toàn diện. Nhà Trần mở ra một tổ chức triều đình mới, trong đó quyền
lực thực tế trên vua còn có Thái thượng hoàng. Các ông vua sau một thời gian
trị vì đã nhường ngôi cho con để làm Thái thượng hoàng, nhưng vẫn kiểm soát
việc trông coi chính sự của con. Đây là thể chế chính trị lưỡng đầu chế. Dưới
vua là tả, hữu tướng quốc. Giúp việc cho các tướng quốc có các chức hành
khiển, các quan lại triều đình: tam thái, tam thiếu. Bên dưới quan lại chia làm
hai ban văn, võ. Bên văn gồm thượng thư các bộ (lại, bộ, binh, hình). Giúp việc
cho thượng thư có thị lang và lang trung. Bên võ, khi cần có chức tiết chế chỉ
huy toàn quân, lúc thường đặt chức phiêu kị tướng quân giao cho hoàng tử. Bên
dưới có chức đại tướng quân, đô tướng quân, đô thống chí.
Ở địa phương, thời Trần có ba cấp là lộ - phủ (châu) – hương (xã): Lộ chia
thành các phủ (miền xuôi) hoặc châu (miền núi). Phủ, châu chia thành các
hương, xã. Năm 1297, Nhân Tông đổi giáp thành hương, ở trung du và miền núi
20


×