LỜI TỰA
Nền văn minh nhân loại của chúng ta đang từng bước tiến đến một
điểm cao mới của xã hội. Một đỉnh cao chưa biết bao nhiêu suy nghĩ và tiềm
thức của con người.
Cùng với sự đi lên của khoa học- kĩ thuật và sự đi lên của xã hội đồng
thời cũng có biết bao nhiêu kỳ quan mọc lên. Những kỳ quan ấy là một phần
do tạo hóa nan tặng và một phần sự khéo léo của con người chúng ta. Bên
cạnh đó, hai con đường sống còn của thế giới là kênh đào Suez và kênh đào
Panama. Tuy mỗi kênh đào có những phong tục luật khác nhau nhưng nó
chính là sự sống nền văn minh nhân loại của chúng ta. Con người đã trải
qua nhiều thế kỷ với rất nhiều đời vua và qua biết bao thử thách, sự hi sinh
xương máu của biết bao nhiêu con người để có được kỳ quan như ngày hôm
nay. Nhờ có hai con kênh này mà con đường giao thông nối giữa các đại
dương và các lục địa với nhau vừa là con đường vận chuyển hàng hóa qua
nhiều quốc gia khác nhau. Bên cạnh đó, còn phát triển du lịch và nghề hằng
hải mà còn về thị trường.
Qua tập san lần này giúp cho các bạn và các em thêm một tài liệu tham
khảo trong quá trình tiếp thu kiến thức về kênh hai kỳ quan thế giới và tập
san của tôi sẽ đưa các bạn đến những vùng đất trù phú và huyền bí của kênh
đào Panama và kênh Suez.
1
2
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KÊNH ĐÀO SYEZ
Thế kỷ IX trước công nguyên, quốc vương Ai Cập Necho muốn cho xây dựng
một đường thủy nối liền Hồng Hải và Địa Trung Hải xuất phát từ thời các vị vua
Pharaoh. Họ đã đào một kênh đào nối liền xuyên qua nhánh phía đông của đồng bằng
sông Nil. Nhưng khi nghe có tới 125.000 nô lệ bỏ mạng (vì bệnh thổ) tả trong công trình,
quốc vương đã bỏ ý tưởng ấy.
1. Lịch sử hình thành
Sau khi Ba Tư chinh phục Ai Cập năm 525 trước công nguyên, quốc vương
Darios I bắt tay vào công trình này và lập bia tuyên bố ông đã hoàn thành công trình
kênh đào. Nhà sử học Hi Lạp HERODOTE thế kỷ V trước công nguyên viết, kênh này
không lấy tuyến đường thẳng. Độ rộng của nó đủ cho hai chiếc thuyền ba hàng chèo
cùng lọt qua.
Kênh đào Darios xây dựng bắt đầu từ sông Nil, hướng về phía đông và chảy vào
hồ dọc theo đường hằng hải. Ở thời kì La Mã, tuy đã được cải thiện hơn, nhưng vì bùn
cát lấp nghẽn đành phải bỏ kênh. Những thời kỳ sau đó, kênh đào này được đào xới
nhiều lần nữa, tuy nhiên phần lớn thời gian nằm trong tình trạng bị bỏ bê và kế hoạch
tái tạo kênh đào của quốc vương VENISE, LUOIS … đều không có kết quả. Đến thời kỳ
NAPOLEON BONAPARTE(1798), ông cũng có ý tưởng nối liền ĐTH và HH, nhưng
các kỹ sư lúc đó lại cho rằng phương án này không khả thi vì biển Hồng Hải cao hơn
Địa Trung Hải 9m
Ngày 30/11/1854, kỹ sư người Pháp FERDINAD DE-LESSEPS được sự uỷ quyền
của Ai Cập đã nhận thiết kế dự án kênh đào Suez dựa theo thiết kế trước đó của kỹ sư
người Áo ALOSI NEGRELLI . Ngày 25/4/1859, công trình được khởi công bởi công ty
Universal Suez Ship Canal, DE LESSEPS, chủ trì công trình, đã vượt qua rất nhiều khó
khăn. Ban đầu ông sử dụng sức lao động cưỡng chế, sau đó công trình được cơ giới hóa,
điều kiện làm việc cải thiện đáng kề, nên người Châu Âu đã tự nguyện đến nơi làm việc.
để cung cấp nước dùng cho hơn 25.000 người, ông đã xây dựng một dòng kênh nước
ngọt.Công trình kéo dài trong 10 năm. Ngày 17/2/1867 con tàu thử nghiệm đầu tiên đi
xuyên hết kênh đào. Ngày 17/11/1869, kênh đào Suze khánh thành và đưa vào sử dụng.
Kênh dài 195 km, rộng 137 mét, sâu 15.2 mét, cứ cách 10 km lại đặt một bến cảng để
cung ứng cho tàu thuyền qua lại.Tàu thuyền qua kênh trung bình từ 11 đến 12 giờ
2. Vị trí địa lí kênh đào Suez
Kênh đào Suez (thuộc Ai Cập), là kênh giao thông nhân tạo chạy từ phía Bắc tới
phía Nam đi ngang qua eo đất Suez phía Đông Bắc Ai Cập, nó nối giữa Biển Địa Trung
Hải với Vịnh Suez, là một nhánh của Biển Đỏ. Kênh đào cung cấp một lối đi tắt cho
những con tàu đi qua cảng Châu Âu- Châu Mỹ đến những cảng phía Nam Châu Á, cảng
phía Đông Châu Phi và Châu Đại Dương. Kênh đào Suez dài 195 km (121 dặm), khúc
hẹp nhất là 60 m, và độ sâu tại đó là 16 m đủ khả năng cho tàu lớn 150.000 tấn qua
được. vào năm 1984, tàu chở dầu 250.000 tấn qua được kênh. Kênh đào đông tây nối
sông Nile với Biển Đỏ phục vụ giao thông bằng những con thuyền đáy bằng đẩy sào và
cho phép việc giao thương giữa biển đỏ và Địa Trung Hải.
Bản đồ kênh đào Syez
3
CHƯƠNG II: VAI TRÒ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KÊNH ĐÀO SUEZ
1. vai trò kênh đào Suez
Con kênh này đã không đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Ai Cập lúc bấy
giờ và nhanh chóng bị lãng quên. Kênh đào Suez là con đường ngắn nhất nối Đại Tây
Dương và Ấn Độ Dương, làm xích đạo gần hai khu vực công nghiệp ở Tây Âu với khu
vực Đông Á và Nam Á giàu tài nguyên khoáng sản và các nguyên liệu nông nghiệp.
Kênh Suez phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế của các nước đế quốc phương Tây,
chủ yếu là đế quốc Anh.
Kênh đào Suez hiện nay có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần tạo nên
tuyến đường biển nối châu Âu với châu Á, Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương, giúp cho
tàu thuyền ko phải mất thời gian đi qua mũi Hảo Vọng
2. Kênh đào Suez là nơi thương mại và chiến tranh.
Kênh đào là nơi chiến tranh
Kênh Suez không cần âu tầu, vì mực nước giữa Địa Trung Hải và Vinh Suez gần
như bằng nhau. Hơn nữa, kênh đào qua vùng đồng bằng, không có núi non phải vượt
qua Kể từ khi được mở cửa lưu thông, kênh đào Suez nhanh chóng tác động đến sự
phát triển của nền giao thương thế giới. Lúc đầu, quyền khai thác kênh thuộc về một
Cty Anh - Pháp nhưng từ tháng 6 năm 1956, Ai Cập đã tuyên bố quốc hữu hóa kênh
Suez. Đến giữa năm 1967, năm xảy ra chiến tranh I-xra-en - Ai Cập, có gần 15% các
luồng dương và trên 20% các hàng vận chuyển dầu mỏ và sản phẩm của dầu mỏ toàn
thế giới được vận chuyển qua kênh, từ đó hoạt động của kênh phải tạm dừng và đến 6-
1975 mới tiếp tục hoạt động trở lại.
Kênh đào là nơi thương mại toàn cầu
Khi chưa có kinh đào Suez, thương mại của miền Trung Đông với châu Âu phải
đi qua vùng đất liền của châu Á, sau đó tàu biển chở hàng hóa từ Hồng Hải phải dương
buồm qua mỏm Nam Cực cuả Châu Phi để đến biển Địa Trung Hải
Từ khi kênh đào Suez được xây dựng xong dài 195 km, gấp hai lần kênh đào
Palama, kênh có chiều sâu 20 mét chiều ngang di chuyển được giữa các phao nổi là 180
mét. Tàu thuyền có thể di chuyển theo hai chiều tại 4 đoạn kinh dài hơn 67 cây số. Các
con tàu biển thật lớn với độ chìm là 16 mét đều có thể vượt qua.
Hiện nay, trung bình mỗi ngày có hơn 40 lượt tàu qua kênh, cùng với du lịch, việc
khai thác kênh đào Xuy-ê là một trong những ngành dịch vụ thương mại quan trọng
của Ai Cập. Trong năm 2005, hơn 18.700 tàu của các nước chở theo 665 triệu tấn hàng
hóa các loại qua kênh đào này, mang lại cho Ai Cập một khoản thu nhập lên đến 3,42 tỷ
4
USD so với 3,275 tỷ USD của năm 2004. Đặc biệt, kênh Xuy-ê có vai trò quan trọng
trong việc vận chuyển dầu mỏ từ Trung Đông
đến các nền kinh tế phát triển. Chính phủ Ai Cập đang có kế hoạch đào sâu thêm kênh
Xuy-ê để đủ khả năng đón những con tàu tải trọng lớn hơn và từ năm 2006 này, Ai Cập
đã tăng lệ phí quá cảnh lên 3% cho các tàu nước ngoài qua lại kênh đào.
Hình ảnh thuyền qua kênh đào Suez
5
Các mốc lịch sử của kênh đào Suez
• Thế kỷ XIII TCN: Một kênh đào được xây giữa châu thổ sông Nile và Biển Đỏ.
Những thế kỷ tiếp theo, chỉ một phần của kênh được để ý tới.
• Thế kỷ VIII TCN: kênh không được để ý giữ gìn và tàu bè không còn qua lại
được.
• Năm 1854:SAID PASHA, một phó vương Ai Cập, quyết định thi hành dự án đào
kênh, nối Địa Trung Hải tới Biển Đỏ.
• Năm 1858: Kỹ sư người Pháp FERDINAND DE- LESSEPS giành được quyền tổ
chức một công ty có mục đích đào một con kênh nhân tạo. Công ty La Compagnie
Universelle du Canal Maritime de Suez. Này là cả Pháp và Ai Cập, cả hai xây dựng và
được quản lý trong 99 năm. Sau thời gian này quyền sở hữu thuộc về chính phủ Ai Cập.
• 25/04/1859: Bắt đầu công trình: Hãng FERDINAND DE- LESSEPS xây dựng
kênh từ 1859 đến 1869. Cuối công trình, Ai Cập được 44% và người Pháp làm chủ phần
còn lại.
• 17/11/1869: Kênh đào Suez thế hệ mới được khánh thành.
• Năm 1875: Vì mắc nợ các nước ngoài, nên Ai Cập phải bán cổ phần cho nước
Anh.
• Năm 1888: Do sự thỏa thuận quốc tế, kênh được mở cho tàu bè mọi nước.
• Năm 1936: Thông qua một hiệp ước người Anh được quyền đóng quân ở kênh
đào ,
• Năm 1948: Ai Cập không cho tàu dùng kênh Suez để tới cảng Israel.
• Năm1956: Khi quân đội Anh rút đi, quân đội Ai Cập đến đóng.
• 26/07/1956: Nasser, tổng thống Ai Cập quốc hữu hóa kênh Suez.
• 3/1957: Mở cửa kênh trở lại
• 5/6/1967: Chung với cuộc chiến 6 ngày, Ai Cập đóng cửa kênh cho tới 1975, một
lực lượng an ninh Liên hợp Quốc ở tại chổ cho tới năm 1974.
• 5/6/1975: Mở cửa trở lại cho phép tàu bè chở hàng từ Israel qua kênh lại.
• Năm 1979: Ai Cập thỏa thuận với Israel cho tàu bè qua lại không hạn chế, hòa
bình giửa hai dân tộc.
6
CHƯƠNG III: TƯ LIỆU THAM KHẢO
Con kênh này đã không đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Ai Cập lúc bấy
giờ và nhanh chóng bị lãng quên. Theo sử sách Hy Lạp, vào khoảng những năm 600
trước Công Nguyên, vua Hy lạp Necho II đã nhận thấy tầm quan trọng của kênh này và
cho tu sửa lại nó. Tuy nhiên con kênh chính thức được hoàn thành bởi vua Darius I của
Ba Tư. Ông đã hoàn thành con kênh sau khi chiếm Ai Cập và đã mở rộng nó đủ để cho
phép 2 tàu chiến TRIEME tránh nhau trong kênh và hành trình trong kênh mất 4 ngày.
Vào cuối thế kỉ 18 Napoleon trong khi ở Ai Cập đã có ý định xây dựng một kênh đào nối
giữa Biển Đỏ và Địa Trung Hải. Nhưng kế hoạch này của ông đã bị bỏ ngay sau những
cuộc khảo sát đầu tiên bởi theo những tính toán sai lầm của các kỹ sư thời bấy giờ thì
mực nước Biển Đỏ cao hơn Địa Trung Hải tới 10m. Vào khoản năm 1854 và 1856
Ferdinand de Lesseps vào năm 1854 và 1856 Ferdinand de Lesseps, phó vương Ai Cập
đã mở một công ty kênh đào nhằm xây dựng kênh đào phục vụ cho đội thương thuyền
dựa theo thiết kế của một kiến trúc sư người Úc Alois Negrelli. Sau đó với sự hậu thuẫn
của người Pháp công ty này được phát triển trở thành công ty kênh đào Suez vào năm
1858.
Công việc sửa chữa và xây mới kênh được tiến hành trong gần 11 năm. Hầy hết
công việc được tiến hành bởi những lao động khổ sai người Ai Cập. Người ta ước tính
luôn có một lực lượng 30.000 người lao động trên công trường và cho đến khi hoàn
thành, gần 120.000 người đã bỏ mạng tại đây.
Người Anh đã ngay lập tức nhận ra kênh đào này là một tuyến buôn bán quan
trọng và việc người Pháp nắm quyền chi phối con kênh này sẽ là mối đe doạ cho những
lợi ích kinh tế, chính trị của Anh trong khi đó lực lượng hải quân của Anh lúc bấy giờ là
lực lượng mạnh nhất trên thế giới. Vì vậy chính phủ Anh đã chính thức chỉ trích việc sử
dụng lao động khổ sai trên công trường và gửi một lực lượng người Ai Cập có vũ trang
kích động nổi loạn trong công nhân khiến công việc bị đình trệ.
Tức giận trước thái độ tham lam của Anh, phó vương DE LESSEPS đã gửi một
bức thư tới chính phủ Anh chỉ trích sự bất nhân của nước Anh khi một vài năm trước
đó trong công trình xây dựng đường sắt xuyên Ai Cập đã làm thuyệt mạng 80.000 lao
động khổ sai Ai Cập. Lần đầu tiên dư luận thế giới lênh tiếng hoài nghi về việc cổ phiếu
của công tuy kênh đào Suez đã không được bán công khai. Anh, Mỹ, Úc, Nga đều không
có cổ phần trong công ty này. Tất cả đều được bán cho người Pháp.
Kênh đào cuối cùng cũng được hoàn thành vào 17/11/1869 mặc dù đã rất nhiều
xung đột chính trị và sự cố kỹ thuật xung quanh công trình. Tổng chi phí đã đội hơn 2
lần so với dự tính ban đầu của các kỹ sư. Kênh đào ngay lập tức làm ảnh hưởng trực
tiếp, sâu sắc đến ngành vận tải thế giới. Kết hợp với đường sắt xuyên Mỹ hoàn thành 6
tháng trước đó, nó cho phép hàng hoá đi vòng quanh thế giới trong một thời gian kỷ lục.
Nó cũng góp phần quan trọng trong việc mở rộng thuộc địa của Châu Âu tại Châu Phi.
Những khoản nợ khổng lồ đã buộc người kế nhiệm Phó Vương Ai Cập bán lại cổ phần
trị giá 4 triệu bảng của mình cho người Anh. Tuy nhiên người Pháp vẫn nắm giữ phần
lớn cổ phần chi phối. Vào năm 1888 một hội nghị ở Constantinople đã tuyên bố kênh
đào là một khu vực trung lập và yêu cầu quân đội Anh bảo vệ kênh đào trong suốt cuộc
nội chiến ở Ai Cập. Sau đó căn cứ vào hiệp ước với Ai Cập năm 1936 Anh đã đòi quyền
kiểm soát kênh đào. Cuối cùng vào năm 1954 Chính quyền Ai Cập đã phủ nhận hiệp
ước 1936 và nước Anh buộc phải từ bỏ quyền kiểm soát kênh. Năm 1956 tổng thống Ai
Cập tuyên bố quốc hữu hoá kênh và ý định xây dựng một căn cứ quân sự ở dọc kênh.
Hành động này của Ai Cập được hậu thuẫn bởi Liên Xô và đã gây lo ngại sâu sắc cho
Mỹ, Anh, Pháp, Israel. Vào năm 1957, Liên Hợp Quốc đã cử lực lượng gìn giữ hoà bình
tới đây để bảo đảm tính trung lập của kênh.
Kênh bị đóng cửa một lần duy nhất từ 1967 tới 1975 trong cuộc chiến A rập – Israel
7
Kênh Xuyê không cần âu tầu, vì mực nước giữa Địa Trung Hải và Vinh Suez gần như
bằng nhau. Hơn nữa, kênh đào qua vùng đồng bằng, không có núi non phải vượt qua.
Nhìn lại 50 năm sự kiện khủng hoảng Kênh đào Suez
Đánh dấu 50 năm sự kiện khủng hoảng Kênh đào Suez - huyết mạch lưu thông
chính của tàu thuyền từ Tây sang Đông. Đó là cuộc chiến dũng cảm của nhà lãnh đạo Ai
Cập trẻ tuổi thời đó - Tổng thống Gamal Abdel Nasser chống lại sự thống trị của các thế
lực đế quốc phương Tây.Đế quốc Anh chiếm quyền kiểm soát Kênh đào Suez vào năm
1875, thôn tính Ai Cập và các vùng xung quanh vào năm 1882. Đến năm 1922, Ai Cập
thoát khỏi ách đô hộ, giành độc lập, nhưng khu vực xung quanh Kênh đào Suez vẫn bị
Anh đô hộ cho đến năm 1952. Vào năm này, Vua Farouk bị phế truất sau một cuộc nổi
dậy của các tầng lớp dân chúng Ai Cập, dẫn đầu bởi nhóm Free Officers' Group (Nhóm
Sĩ quan tự do) do các tướng Nasser, Anwar Sadat và Abdel Hakim Amer lãnh đạo.
Tướng Mohammed Naguib trở thành người đứng đầu chính phủ mới được thành lập
sau đó.
Vào thời điểm đó, nước Anh và Tây Âu đang khôi phục sau khi bị tổn thất nặng
nề trong Thế chiến II, nên phụ thuộc rất nhiều vào nguồn dầu nhập khẩu, trong đó 2/3
nguồn dầu đi qua ngả Kênh đào Suez. Vì thế Ngoại trưởng Anthony Eden nhận sứ
mệnh thương lượng với Chính phủ Ai Cập, nhằm kéo dài thời gian hiện diện quân sự
của Anh trong khu vực này.
Tuy nhiên vào năm 1954, tình hình chính trị nội bộ Ai Cập diễn biến bất lợi cho
phương Tây: Nasser lật đổ tướng Naguib để lên nắm quyền. Dựa theo các tôn chỉ xã hội
cấp tiến, Nasser đã ban hành hàng loạt biện pháp cứng rắn nhằm hạn chế quyền lực của
người Hồi giáo tại Ai Cập. Đồng thời, thái độ chống đế quốc Anh của Nasser cũng ngày
càng tăng, nhất là sau khi Ai Cập bị buộc phải ký kết Hiệp ước Baghdad vào đầu năm
1955 với Thổ Nhĩ Kỳ và Iraq.
Tình hình càng căng thẳng hơn sau cuộc bố ráp Dải Gaza của quân đội Israel
vào tháng 2/1955, châm ngòi cho đụng độ và xâm nhập biên giới Ai Cập qua ngã Gaza
tăng mạnh
Trong khi đó, sau khi lên nắm quyền, Nasser cũng cho tiến hành hàng loạt dự án
xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm đạt mục tiêu phát triển đất nước, trong đó quan trọng
nhất là dự án Đập Aswan. Tiếp theo, Nasser đi một nước cờ quan trọng khiến phương
Tây sốt vó: ký kết các hợp đồng mua vũ khí với Liên Xô! Hành động này thêm một
bước khẳng định sự hiện diện và ảnh hưởng của Liên Xô trong khu vực Trung Đông và
Bắc Phi. Nước Anh đáp trả bằng việc gây khó khăn nguồn tài chính cho dự án Đập
Aswan. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh đang ngày càng căng thẳng và tinh thần khu
vực cũng dâng cao, Nasser nhìn thấy cơ hội lớn để giành lấy sự độc lập về kinh tế cho
đất nước Ai Cập. Thế là, tháng 7/1956, ông ra lệnh quốc hữu hóa Kênh đào Suez.
Sự kiện này châm ngòi cho phản ứng quyết liệt từ phía các cường quốc phương
Tây. Pháp nghi ngờ Ai Cập tiếp tay cho lực lượng kháng chiến Algeria, còn Anh thì e
ngại việc Ai Cập lớn mạnh lên sẽ là “mối đe dọa” làm phá sản Hiệp ước Baghdad - một
hòn đá tảng quyết định chiến lược của phương Tây ở khu vực Trung Đông. Cả 2 đã
chạy đi cầu cứu Liên Hiệp Quốc can thiệp vào Kênh đào Suez nhưng bất thành.
Một cuộc họp bí mật giữa Ngoại trưởng Anh Eden, Thủ tướng Pháp Guy Mollet
và Thủ tướng Israel David Ben Gurion đã diễn ra tại khu ngoại ô Sevres, gần Paris, dẫn
đến sự ra đời một kế hoạch quân sự của phương Tây nhằm thủ tiêu chế độ mới của Ai
Cập, đồng thời giành lại quyền kiểm soát Kênh đào Suez. Một chi tiết mà giới nghiên
8
cứu lịch sử cho là “sai lầm nghiêm trọng” là việc Mỹ đã không được tham gia cuộc họp
và bị gạt ra ngoài kế hoạch.
Ngày 29/10/1956, chiến dịch quân sự mang tên “Lính Hỏa Mai” đã được khai
hỏa với cuộc tấn công đồng loạt trên bộ lẫn trên biển của quân liên minh gồm 45.000
lính Anh, 34.000 lính Pháp và 175.000 lính Israel. Phần Israel cũng lợi dụng tình hình
đưa quân trên bộ chiếm giữ bán đảo Sinai. Một tuần sau, không quân Anh, Pháp bắt
đầu chiến dịch oanh tạc xuống Ai Cập, phá hủy hoàn toàn sân bay El Gamil của Ai Cập.
Tiếp đến, tập đoàn quân thủy bộ Anh - Pháp đổ bộ đánh chiếm thành phố cảng Port
Said trong Địa Trung Hải. Nhưng quân liên minh Anh - Pháp - Israel đã không thể
đánh chiếm được Kênh đào Suez, và tướng Nasser đã phần nào thành công khi ngăn
chặn các chuyến qua lại kênh đào của tàu thuyền phương Tây. Điều này càng khiến cho
liên minh Anh - Pháp quyết tâm bằng mọi giá phải đánh bật quân của tướng Nasser ra
khỏi Kênh đào Suez. Nhìn vào thế trận và thực lực quân sự thì chắc chắn Ai Cập không
thể nào địch lại quân liên minh, do vậy khó tránh khỏi một thất bại nặng nề về mặt
quân sự.
Đến đây thì “kẻ chủ chiến” trong mọi cuộc chiến tranh bắt đầu ra tay. Mỹ e ngại
nếu để Anh-Pháp tiếp tục “ăn hiếp” Ai Cập, nhiều khả năng Liên Xô sẽ nhảy vào can
thiệp (do Ai Cập lúc đó đang ngả về phía Liên Xô). Mặt khác, Tổng thống Mỹ Dwight
Eisenhower cũng tức giận vì bị Anh - Pháp - Israel làm bẽ mặt, cũng muốn nhân cơ hội
trả đũa. Bằng biện pháp gây sức ép về ngoại giao và kinh tế, Mỹ đã buộc quân Anh,
Pháp và Israel phải chấp nhận ngừng bắn và rút quân hoàn toàn khỏi Ai Cập vào ngày
7/11/1956.
Rốt cuộc, 2 tuần chiến sự không đi đến đâu đã khiến cho Anh bị tổn thất 100
binh sĩ, Pháp tổn thất 43 và Israel 200 binh sĩ; phía Ai Cập chịu tổn thất nặng nề nhất:
5.000 binh sĩ chết và bị thương.
Do thất bại trong cuộc khủng hoảng Kênh đào Suez, Thủ tướng Pháp Mollet và
Ngoại trưởng Anh Eden đã phải từ chức trong vòng chưa đầy một năm sau (riêng Ben
Gurion tại vị cho đến năm 1963). Uy tín và ảnh hưởng của Anh, Pháp trong khu vực
Trung Đông sụp đổ không bao giờ có thể hồi phục.
Còn đối với cá nhân tướng Nassar, tuy thiệt hại một số binh lính, nhưng dưới sự
lãnh đạo của ông, Ai Cập phát triển không ngừng và trên hết là việc bằng mọi giá phải
giữ kênh đào Suez, Nasser đã được dân chúng Ai Cập tôn vinh như một vị anh hùng
dân tộc.
Sự kiện Kênh đào Suez cũng chứng kiến một cuộc “chuyển giao quyền lực” tại
khu vực này từ các thế lực cũ sang một thế lực mới: Mỹ bắt đầu đóng vai trò chủ đạo,
không ngừng gia tăng ảnh hưởng trong khu vực Trung Đông, còn Anh, Pháp kể từ đó
vai trò bị mờ nhạt hẳn.
Ngày nay, 50 năm sau sự kiện khủng hoảng tháng 10/1956, Kênh đào Suez vẫn là
huyết mạch sống còn của tuyến lưu thông hàng hóa và dầu mỏ từ Đông sang Tây. Hơn
thế nữa, Kênh đào Suez ngày nay còn có vai trò chiến lược về mặt an ninh trong khu
vực Trung Đông, đặc biệt là trong cuộc chiến chống khủng bố Al-Qaeda. Vì thế, ngày
nay không chỉ có Mỹ và phương Tây quan tâm Kênh đào Suez, mà còn có Nga và Trung
Quốc - 2 thế lực kinh tế, chính trị mới đang lớn mạnh để trở thành đối trọng với Mỹ và
phương Tây Nguyên Khang (theo Asia Times
9
10