Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

BÀI TẬP LỚN Hệ thống viễn thông: Báo hiệu số 7SS7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 49 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT HÀ NỘI

KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
BÀI TẬP LỚN

Hệ thống viễn thông
Nhóm Sinh Viên Thực Hiện:

Nguyễn Ngọc Khánh
Vũ Văn Hữu
Nguyễn Đình Kiên
Vũ Quang Hưng

Đề Tài :
Báo hiệu số 7-SS7


LỜI NÓI ĐẦU
Viễn Thông là một trong những ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế của
mỗi quốc gia. Việc áp dụng những công nghệ tiên tiến vào lĩnh vực viễn thông là rất
cần thiết nhằm hiện đại hóa mạng lưới và đa dạng hóa các dịch vụ cũng như nâng cao
chất lượng các dịch vụ cho người sử dụng.
Những năm vừa qua ngành viễn thông Việt Nam có những bước phát triển vượt
bậc, mạng lưới được mở rộng và hiện đại hóa hàng loạt nhờ đó chất lượng dịch vụ
được tăng lên rõ rệt và mở ra được nhiều dịch vụ mới. Như tổng đài di động số GSM
truyền dẫn số, tổng đài NEAX-61E, NEAX-S, A1000E10… đã được đưa vào áp dụng
trên mạng viễn thông Việt Nam. Trong đó việc triển khai và áp dụng hệ thống báo hiệu
kênh chung số 7 được đưa vào năm 1980 đã đạt được nhưng ưu điểm so với các hệ
thống báo hiệu trước đó. Hệ thống báo hiệu số 7 đã được sử dụng rộng rãi vì đã đạt
được những thành tựu nổi bật là: Tốc độ báo hiệu cao, dung lượng lớn, độ tin cậy cao,


kinh tế, mềm dẻo, linh hoạt và rất đa dạng …
Hệ thống này có thể sử dụng rất nhiều mục đích khác nhau đáp ứng được sự phát
triển của mạng trong tương lai.


Contents


I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÁO HIỆU:
1. Khái niệm:
II. Trong mạng viễn thông, báo hiệu được coi là một phương tiện để chuyển thông
tin và các lệnh từ điểm này đến điểm khác, các thông tin và các lệnh này có liên quan
đến quá trình thiết lập, giám sát và giải phóng cuộc gọi.

III.
IV.
2. Chức năng của hệ thống báo hiệu:
V. Hệ thống báo hiệu thực hiện 3 chức năng chính đó là:
VI. + Chức năng giám sát
VII. + Chức năng tìm chọn
VIII. + Chức năng khai thác, bảo dưỡng mạng
IX. Trong đó, chức năng giám sát và chức năng tìm chọn liên quan trực tiếp đến quá
trình xử lý cuộc gọi liên đài, còn chức năng quản lý mạng thì phục vụ cho việc khai
thác, duy trì sự hoạt động của mạng lưới.
• Chức năng giám sát: Giám sát đường thuê bao, đường trung kế… về
các trạng thái:
- Có trả lời/Không trả lời.
- Bận/Rỗi.
- Sẵn sàng/Không sẵn sàng.
- Bình thường/Không bình thường.

- Duy trì/Giải tỏa.
X. …
XI.
XII. Như vậy, các tín hiệu giám sát được dùng để xem xét các đặc tính sẵn có của
các thiết bị trên mạng cũng như của thuê bao.
• Chức năng tìm chọn: yêu cầu có độ tin cậy cao, tốc độ báo hiệu nhanh,
hiệu quả.
-

Chức năng này liên quan đến thủ tục đấu nối:
XIII. + Báo hiệu về địa chỉ các con số mã số.
4


XIV. + Định tuyến, định vị trí và cấp chúng cho thuê bao bị gọi.
XV. + Thông báo khả năng tiếp nhận con số.
XVI. + Thông báo gửi con số tiếp theo … trong quá trình tìm địa chỉ.
XVII.
XVIII. Chức năng tìm chọn có liên quan đến thời gian đấu nối một cuộc gọi, đó
XIX. là thời gian trễ quay số PDD (Post Dialling Delay).
XX.
XXI. + PDD là khoảng thời gian từ khi thuê bao chủ gọi hoàn thành quay số đến khi
nhận được hồi âm chuông.
XXII. + PDD phụ thuộc vào khả năng xử lý báo hiệu giữa các tổng đài, tức là “khả
năng tìm chọn” của hệ thống báo hiệu. Điều đó có nghĩa là các hệ thống báo hiệu khác
nhau sẽ có thời gian trễ quay số khác nhau.
XXIII. + PDD là một tiêu chuẩn rất quan trọng. Cần PDD càng nhỏ càng tốt để thời
gian đấu nối càng nhanh, hiệu quả xâm nhập vào mạng càng cao.
XXIV.
• Chức năng vận hành và quản lý: Phục vụ cho việc khai thác mạng một

cách tối ưu nhất. Các chức năng này gồm có:
- Nhận biết và trao đổi các thông tin về trạng thái tắc nghẽn trong mạng.
- Thông báo về trạng thái các thiết bị, các trung kế đang bảo dưỡng
hoặc hoạt động bình thường.
- Cung cấp các thông tin về cước phí.
- Cung cấp các thông tin về lỗi trong quá trình truyền thông tin báo hiệu.
XXV. …
XXVI.
3. Phân loại báo hiệu:
XXVII. Thông thường báo hiệu được chia làm 2 loại tùy thuộc vào phương thức xử lý tín
hiệu báo hiệu và ứng dụng của nó là báo hiệu cho mạng chuyển mạch kênh và báo hiệu
cho mạng chuyển mạch gói.
XXVIII. Trong mạng chuyển mạch kênh, báo hiệu được chia thành 2 loại là báo hiệu
đường thuê bao và báo hiệu liên đài. Báo hiệu đường thuê bao là báo hiệu thực hiện cho
các máy đầu cuối, thường nó là máy điện thoại với tổng đài nội hạt, còn báo hiệu liên
tổng đài là báo hiệu giữa các tổng đài với nhau.
XXIX. Báo hiệu liên tổng đài gồm 2 loại là báo hiệu kênh riêng CAS (Channel
Asociated Signaling) và báo hiệu kênh chung CCS (Common Channel Signaling). Báo
hiệu kênh riêng hay còn gọi là báo hiệu kênh liên kết là hệ thống báo hiệu trong đó báo
hiệu nằm trong kênh tiếng hoặc trong một kênh có liên quan chặt chẽ với kênh tiếng,
còn báo hiệu kênh chung là hệ thống báo hiệu trong đó báo hiệu nằm trong một kênh
tách biệt với các kênh tiếng và kênh báo hiệu này được sử dụng chung cho một số
lượng lớn các kênh tiếng.
5


XXX.
XXXI. Hình 1: Phân chia hệ thống báo hiệu
XXXII. TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG BÁO HIỆU SỐ 7:
1. Giới thiệu:

XXXIII. Hệ Thống báo hiệu số 7 hay còn gọi là SS7, là cụm từ viết tắt của Signaling
System # 7.
XXXIV. Hệ thống báo hiệu số 7 (SS7) là hệ thống thứ 2 của CCITT, ra đời vào những
năm 1979 – 1980 dành cho mạng chuyển mạch số trong nước và quốc tế, nơi có thể
sử dụng hệ thống truyền dẫn số tốc độ cao (64Kb/s) hoặc cho các đường dây analog.
Hệ thống báo hiệu số 7 của CCITT không những được thiết kế để điều khiển, thiết
lập, giám sát cho dịch vụ thoại mà còn sử dụng cho các cuộc gọi của dịch vụ phi
thoại. Thích ứng với nhiều loại mạng thông tin như: PSTN, Mobile, Data, ISDN,
IN….
XXXV. SS7 là hệ thống báo hiệu kênh chung tối ưu để điều hành trong mạng viễn thông
số, nó có sự phối hợp với các tổng đài SPC.
XXXVI. SS7 có thể thõa mãn các yêu cầu hiện tại và trong tương lai cho các hoạt động
giao dịch giữa các bộ vi xử lý trong mạng viễn thông để báo hiệu điều khiển cuộc gọi,
điều khiển từ xa, báo hiệu quản lý và bảo dưỡng.
XXXVII. SS7 cung cấp các phương tiện tin cậy để truyền thông tin theo trình tự chính
xác, không bị mất hoặc lặp lại thông tin.
2. Một vài ưu điểm và nhược điểm của hệ thống báo hiệu số 7 (SS7):
a) Ưu điểm:
• Tốc độ nhanh: trong phần lớn các trường hợp thời gian thiết lập cuộc nối dưới 1s. Là
do thông tin báo hiệu được truyền trực tiếp giữa các bộ vi xử lý, tín hiệu được điều
chế dưới dạng số và theo tốc độ chuẩn 64kb/s của CCITT.
• Dung lượng cao: mỗi kênh báo hiệu có thể xử lý tín hiệu báo hiệu cho rất nhiều
cuộc gọi trong cùng một lúc. Nâng cao hiệu suất của việc sử dụng kênh thông tin
trong mạng.
6


• Tính kinh tế: SS7 cần ít thiết bị hơn so với thiết bị truyền thống. Một ưu điểm
nữa là SS7 chỉ chiếm kênh khi thuê bao bị gọi nhắc máy
• Độ tin cậy cao: nhờ sử dụng mạng báo hiệu dành riêng độc lập và đè lên tuyến

truyền tin. Cùng với việc sử dụng các mã sửa sai ( như sử dụng các tổ hợp bít phát
hiện lỗi, giám sát và sửa lỗi cho các bản tin báo hiệu).
• Tính mềm dẻo: do thực hiện việc truyền tin theo gói mà tốc độ báo hiệu có thể thay
đổi và đáp ứng được nhiều hơn các dịch vụ giá trị gia tăng.
b) Nhược điểm:
XXXVIII. Cần dự phòng cao vì toàn bộ báo hiệu đi chung một kênh, chỉ cần một sai sót
nhỏ là ảnh hưởng tới nhiều kênh thông tin.
XXXIX. Hệ thống báo hiệu số 7 là hệ thống tiêu biểu của báo hiệu kênh chung CCS nên
các thành phần cơ bản, các kiểu báo hiệu cũng giống như báo hiệu kênh chung mà ta
đã trình bày ở trên.
XL. CÁC PHẦN TỬ CẤU THÀNH MẠNG BÁO HIỆU SỐ 7
XLI. Mạng báo hiệu SS7 về bản chất là một mạng chuyển mạch gói hoạt động riêng
biệt và song song với hệ thống mạng thoại. Các bản tin được truyền trên mạng thực
hiện các chức năng thiết lập, duy trì, giải phóng và quản trị mạng.Các node cấu thành
nên mạng báo hiệu được thiết kế, cấu tạo gồm có: các điểm báo hiệu SP, các điểm
chuyển tiếp báo hiệu TP, các điểm vừa báo hiệu vừa chuyển tiếp báo hiệu STP được kí
hiệu như trong hình dưới đây:
ST
XLII.
XLIII.
Điểm chuyển tiếp báo hiệu (chỉ chuyển tiếp, không có chức năng xử lý).
XLIV.
SP
XLV.
Điểm báo hiệu (điểm đầu cuối báo hiệu)
XLVI.
ST
Điểm chuyển tiếp báo hiệu (vừa có chức năng đầu cuối vừa có chức năng của
ST XLVII.
thiết bị chuyển tiếp)

XLVIII. Hình 2: Các loại trạm báo hiệu CCS
1) Điểm báo hiệu (signaling point):

XLIX. Điểm báo hiệu (SP) là một node (đầu cuối báo hiệu) trên mạng thực hiện việc
chuyển mạch thoại cho các kênh thoại và thực hiện việc chuyển mạch gói cho các gói
tin của báo hiệu SS7. Điểm báo hiệu giữ vai trò như một tổng đài (chức năng truyền
dẫn và định hướng lưu lượng qua mạng) trong mạng viễn thông
L. Mỗi điểm báo hiệu được xác định duy nhất bởi một mã điểm (Point Code - PC).
Các mã điểm (point code) được mang bên trong bản tin báo hiệu để xác định mã điểm
nguồn (Origination PC - OPC) và mã điểm đích ( Destination PC - DPC). Mỗi điểm
báo hiệu sử dụng bảng định tuyến để chon đích đến chính xác cho mỗi bản tin báo
hiệu.
LI.
LII.
Các dạng của điểm báo hiệu:
• Điểm chuyển tiếp dịch vụ: (Service Switching Point – SSP):
7


LIII. Một điểm SSP gửi những bản tin báo hiệu tới các SSP khác để thiết lập, quản
lý, và giải phóng kênh cuộc gọi được yêu cầu để hoàn tất 1 cuộc gọi. một SSP cũng có thể
gửi bản tin tới điểm điều khiển dịch vụ (SCP) để xác định làm thế nào để định tuyến một
cuộc gọi.
• Điểm chuyển tiếp báo hiệu: (Signaling Transfer Points - STP):
LIV. Là những tổng đài thực hiện việc chuyển mạch gói để định tuyến lưu lượng
mạng giữacác điểm báo hiệu. Một điểm chuyển tiếp báo hiệu STP định tuyến mỗi bản
tin đến một liên kết báo hiệu tại đầu ra dựa trên thông tin định tuyến chứa trong bản tin
báo hiệu SS7, mà không có khả năng xử lý bản tin này. Một STP có thể là một nut định
tuyến báo hiệu thuần túy hoặc cũng có thể gồm cả chức năng của một điểm kết cuối
báo hiệu. STP hoạt động như là những Hub trong mạng truyền dữ liệu vì vậy nó nâng

cao việc sử dụng nhiều liên kết trực tiếp phải cần giữa các SP. STP cũng được sử dụng
để lọc tách các bản tin báo hiệu giữa các mạng khác nhau.

LV.
LVI. Hình 3: Cấu trúc mạng báo hiệu SS7


Điểm điều khiển dịch vụ báo hiệu: (Service Control Points - SCP)
LVII. SCP là những cơ sở dữ liệu để từ đó cung cấp những thông tin cần thiết cho
khả năng xử lý cuộc gọi đòi hỏi ở mức cao. STP cũng thường được triển khai trong
những gắn kết cấu hình ở những đường vật lý riêng biệt xác định như là một hệ
thống dự phòng. Lưu lượng mạng được trải đều trên các đường liên kết, vì vậy nếu
một liên kết bị thất bại lưu lượng báo hiệu sẽ được định tuyến lại qua các đường liên
kết khác.
LVIII.
2) Phân cấp mạng báo hiệu:
LIX. Trong SS7, khi hai điểm báo hiệu có khả năng trao đổi bản tin báo hiệu với nhau
thông qua mạng báo hiệu thì giữa chúng tồn tại một mối liên hệ báo hiệu. Các liên hệ
báo hiệu này có thể sử dụng các phương thức báo hiệu khác nhau, trong đó phương thức
báo hiệu được hiểu là mối quan hệ giữa việc truyền dẫn thông tin báo hiệu và đường
truyền thoại.
LX.
• Kiểu kết hợp: (Associated Mode):
LXI. Trên mỗi tuyến truyền thoại giữa hai tổng đài tồn tại song song với tuyến thoại
8


đó một đường liên kết báo hiệu giữa hai tổng đài. Đây là phương thức báo hiệu đơn
giản và ít được sử dụng bởi vì một đường liên kết báo hiệu có thể giữ những bản tin
báo hiệu cho vài nghìn trung kế, trong khi hầu hết các nhóm trung kế liên kết giữa 2

tổng đài chỉ là hơn 100 trung kế dẫn đến lãng phí lớn.

LXII.
LXIII. Hình 4:Phương pháp báo hiệu kiểu kết hợp
• Kiểu bán kết hợp (Quassi – Associated Mode)
LXIV. Các đường liên kết báo hiệu không kết nối trực tiếp và song song với đường
thoại giữa 2 tổng đài. Mà trái lại nó là những tuyến liên kết báo hiệu được quá giang
qua nhiều điểm truyền báo hiệu STP. Điều này làm tăng hiệu suất báo hiệu của mạng,
tăng tính kinh tế do tận dụng hết lưu lượng báo hiệu của các đường liên kết báo hiệu.

LXV.
LXVI. Hình 5:Phương pháp báo hiệu kiểu bán kết hợp
LXVII. Sự phân cấp của mạng báo hiệu :
LXVIII. Về lý thuyết ta có thể tổ chức một vài kiểu cấu trúc mạng có khả năng đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu báo hiệu giữa các tổng đài đấu nối với nhau. Chẳng hạn, một cấu
trúc mà tất cả tổng đài trong mạng đều mang chức năng làm STP. Một cấu trúc khác có
hình sao với một tổng đài làm chức năng STP để chuyển thông tin báo hiệu tới các tổng
đài khác chỉ có chức năng SP. Trên thực tế, người ta sử dụng một kiểu cấu trúc kết hợp
cả hai cấu trúc nói trên.
LXIX. Mạng này sử dụng một số tổng đài làm chức năng STP. Việc trao đổi thông tin
giữa các tổng đài ở các vùng lân cận như vậy hình thành một mạng báo hiệu đường trục.
Do đó, chúng ta có một cấu trúc gồm 3 mức:
LXX. Mức 1: STP quốc gia
LXXI. Mức 2: STP khu vực (vùng)
LXXII. Mức 3: Điểm đầu cuối báo hiệu SP
LXXIII.
LXXIV.
LXXV.
LXXVI.
LXXVII.

LXXVIII.
LXXIX.
LXXX.
9


LXXXI.
LXXXII. Hình vẽ dưới đây minh hoạ một mạng báo hiệu với cấu trúc phân cấp:

LXXXIII.
LXXXIV. Hình 6: Mạng báo hiệu với cấu trúc phân cấp
LXXXV.
LXXXVI. Ngoài ra, để hoà mạng quốc gia với mạng quốc tế cần có thêm mức mạng báo
hiệu quốc tế, với các STP quốc tế như mô tả trong hình 7. Trong thực tế các STP quốc
tế có thể làm cả nhiệm vụ điểm chuyển tiếp báo hiệu quốc gia nên nó cũng là STP quốc
gia.
LXXXVII.
LXXXVIII.

Hình 7: Mạng Báo Hiệu Quốc Tế
LXXXIX. CẤU TRÚC CỦA HỆ THỐNG BÁO HIỆU SỐ 7:
XC. Báo hiệu số 7 được hình thành như một đường nối riêng trong mạng. Đường nối
này dùng để cung cấp những thông tin báo hiệu cho các nhóm người dùng khác nhau
được gọi là phần người sử dụng UP (User Part). Đó là:
10


-

Phần người dùng điện thoại TUP (Telephone User Part).

Phần sử dụng cho ISDN( Intergrated Service Digital Network).
Phần sử dụng cho số liệu DUP (Data Unit Part).
Phần sử dụng cho điện thoại di động MTUP( Mobile Telephone User Part).
XCI. Tất cả các bộ phận sử dụng đều dùng chung một đường dẫn để trao đổi các thông
tin báo hiệu, đó là phần chuyển giao bản tin MTP (Message Transfer Part). Hiển nhiên,
toàn bộ hoạt động của hệ thống báo hiệu đều gắn liền với các tổng đài. Cơ sở cấu trúc
đó được minh họa như sau:

XCII.
XCIII.
XCIV.

Tổng đài A

Tổng đài

B
XCV.
XCVI. Hình 8: Cấu trúc của hệ thống báo hiệu số 7
XCVII.
XCVIII. Cơ sở cấu trúc này có ý nghĩa rất tổng quát. Nó đặt ra một khả năng liên kết
theo mô hình cấu trúc mở OSI thích ứng theo các lớp hay các mức cho phần sử dụng
khác nhau. Đó chính là thế mạnh của báo hiệu kênh chung số 7.
XCIX. Phân cấp của hệ thống báo hiệu số 7 gồm 4 mức từ mức 1 đến mức 4, ba mức
thấp hơn đều nằm trong phần chuyển giao bản tin MTP. Các mức này được gọi là MTP
mức 1, MTP mức 2, MTP mức 3 được mô tả trong hình 9.
C. MTP cung cấp một hệ thống vận chuyển không đấu nối để chuyển giao tin cậy
các bản tin báo hiệu giữa các User.

11



CI.
CII. Hình 10: Cấu trúc chức năng của SS7
CIII.
CIV. Mức 4 được gọi là phần khách hàng hay còn gọi là phần người sử dụng. Phần
khách hàng điều khiển các tín hiệu được xử lý bởi các thiết bị chuyển mạch. Các ví
dụ điển hình của phần khách hàng là phần người sử dụng điện thoại (TUP) và phần
người dụng ISDN (ISUP).
CV.
CVI.
Mối tương quan giữa SS7 và OSI:
CVII. Hệ thống báo hiệu số 7 là một kiểu thông tin số liệu chuyển mạch gói, nó được
cấu trúc theo kiểu module rất giống với mô hình OSI, nhưng nó chỉ có 4 mức. Ba mức
thấp nhất hợp thành phần chuyển giao bản tin MTP, mức thứ tư gồm các phần ứng
dụng. SS7 không hoàn toàn phù hợp với OSI. Mối tương quan giữa SS7 và OSI được
mô tả trong hình vẽ sau:

CVIII.
CIX. Hình 11: Mối tương quan giữa hệ thống báo hiệu số 7 và OSI
12


CX. Sự khác nhau lớn nhất giữa SS7 và OSI trong version đầu tiên là thủ tục thông
tin trong mạng. Mô hình OSI mô tả sự trao đổi số liệu có định hướng (Connection
Oriented), gồm 3 pha thực hiện là thiết lập đấu nối, chuyển số liệu và giải phóng đấu
nối. Còn trong SS7, MTP chỉ cung cấp dịch vụ vận chuyển không định hướng
(Connectionless) chỉ có pha chuyển số liệu, do vậy việc chuyển số liệu sẽ nhanh hơn
nhưng với số lượng ít.
CXI. Để đáp ứng được nhu cầu phát triển các dịch vụ trong các ứng dụng nhất định,

năm 1984 người ta phải đưa thêm phần điều khiển đấu nối báo hiệu SCCP. SCCP
CXII. đề cập đến dịch vụ vận chuyển trong cả mạng có định hướng đấu nối và không
đấu nối, nó cung cấp một giao tiếp giữa các lớp vận chuyển và các lớp mạng để phối
hợp với OSI. SCCP cho phép sử dụng SS7 dựa trên nền tảng của MTP, coi MTP như
phần mang chung giữa các ứng dụng, sử dụng các giao thức OSI để trao đổi thông tin
trong các lớp cao hơn.
CXIII. OSI không những tạo ra một môi trường rộng mở hơn, mà còn có ý nghĩa là sản
xuất và quản lý có thể tập trung trong các ứng dụng và sẽ không còn các vấn đề về đấu
nối các hệ thống với nhau từ các nhà cung cấp khác nhau. Cấu trúc module của OSI còn
cho phép sử dụng trực tiếp các thiết bị cũ trong các ứng dụng mới. OSI kết nối các lĩnh
vực cách biệt là xử lý số liệu và viễn thông lại với nhau.
CXIV. CẤU TRÚC CHỨC NĂNG CỦA PHẦN CHUYỂN GIAO BẢN TIN MTP:
1) Cấu trúc chức năng MTP mức 1 (Đường số liệu báo hiệu SDL):
CXV. Mức 1 trong phần chuyển giao bản tin MTP gọi là đường số liệu báo hiệu, nó
CXVI.
tương đương với lớp vật lý (lớp 1) trong mô hình OSI.

CXVII.
CXVIII. Hình 12: MTP mức 1
CXIX. MTP-1 xác định các đường liên kết báo hiệu của mạng báo hiệu SS7. Nó xác
định các đặc tính vật lý, đặc tính điện và các đặc tính chức năng của đường số liệu báo
hiệu. Nó cung cấp các đường truyền dẫn song công, có thể hoạt động trên cả hai hướng
thuận và ngược với cùng một tốc độ truyền.
CXX. Kênh truyền dẫn báo hiệu có thể là kênh số hoặc kênh analog. Kênh số là
những kênh có tốc độ cơ bản là 64kbps cùng với các chuyển mạch số. Với kênh
analog dựa trên tần số thoại 4KHz và các Modem.
CXXI. Giao thức này xác định những tính chất về điện, vật lý và những đặc điểm của
kênh truyền báo hiệu. Nó giống như lớp một của mô hình mạng truyền dữ liệu OSI.
Khoảng thời gian đầu thực hiện việc truyền báo hiệu trên các đường dây analog với
băng thông 4khz (300hz->3,4 khz). Các thông tin báo hiệu phải được điều chế khác

điều chế của dữ liệu để phân biệt dữ liệu và báo hiệu. Ở đây sử dụng điều chế khóa
dịch chuyển tần sô (FSK) cho báo hiệu, B = 300hz->3,4khz làm cho tốc độ báo hiệu
1,2kbps/2,4kbps cho một kênh cuộc gọi. Trên các đường trung kế 32 kênh có tốc độ
kênh báo hiệu 2Mbps, và sử dụng phương pháp điều chế biên độ chực giao QAM.
13


CXXII. Ngày nay việc truyền báo hiệu được truyền trên các đường trung kế số, hoặc là
trên các đường truyền sử dụng sóng vi ba. Với đường truyền sử dụng sóng vi ba sử
dụng phương pháp điều chế M-QAM và tốc độ báo hiệu đạt được là 2Mbps. Với
đường truyền số sử dụng Fram Relay hoặc sử dụng các kênh ATM để truyền báo hiệu
và sử dụng mã 2B1Q để mã hóa.
2) MTP mức 2 (Đường báo hiệu SL):
CXXIII. Phần chuyển giao bản tin MTP mức 2 cùng MTP mức 1 cung cấp một đường
CXXIV.
số liệu cho chuyển giao tin cậy các bản tin báo hiệu giữa hai điểm báo hiệu
được đấu nối trực tiếp. MTP mức 2 trùng với lớp liên kết số liệu (lớp 2) trong cấu trúc
phân cấp của mô hình OSI.
CXXV. Các chức năng điển hình của MTP mức 2 là phát hiện lỗi có thể xảy ra trên
CXXVI.
đường truyền, khôi phục lại bằng cách truyền lại và điều khiển lưu lượng.

CXXVII.

CXXVIII. Hình 13: MTP mức 2

CXXIX.
Các loại bản tin:
CXXX. Hệ thống báo hiệu SS7 là mạng chuyển mạch gói cho phép cả truyền dẫn gói và
truyền dẫn kênh. Truyền dẫn gói mềm dẻo, linh hoạt hơn, với mỗi gói tin gồm phần

tiêu đề và phần dữ liệu, chứa tất cả thông tin để đảm bảo việc truyền thông tin tới đích
một cách an toàn (định tuyến), và hạn chế tối thiểu các lỗi xảy ra khi truyền các gói tin
từ nguồn tới đích, và đặc biệt là không cần báo hiệu. Theo phương thức điều khiển cao
liên kết dữ liệu (HDLC), hệ thống báo hiệu SS7 có ba loại khung đơn vị bản tin báo
hiệu (MU – Signal Unit) bao gồm : MSU, LSSU và FISU. Các đơn vị bản tin này được
phân biệt với nhau bằng giá trị chứa trong một trường thông tin gọi là trường chỉ thị độ
dài LI ( Length Indication).
• Đơn vị báo hiệu bản tin (MSU – Message Signal Unit).

Đơn vị báo hiệu trạng thái kênh (LSSU : Link Status Signal Unit).
• Đơn vị báo hiệu chèn (FISU : Fill – In Signal Unit).

14


CXXXI.
CXXXII. Hình 14: Các đơn vị tín hiệu trong SS7
a) Đơn vị bản tin báo hiệu (MSU):
CXXXIII. Đơn vị bản tin báo hiệu (MSU) là phần chứa các giao thức bản tin SCCP, ISUP,
và TUP (những giao thức này làm trong trường SIF). Nói cách khác phần người
dùng (User Part) được dành cho trường thông tin báo hiệu (SIF) cùng với nhãn định
tuyến. Loại bản tin này mang toàn bộ thông tin điều khiển cuộc gọi, quản trị mạng và
bảo dưỡng. Ở đó bổ sung những chức năng chuyên dụng thuộc về những ứng dụng tế
bào di động. MSU có một nhãn định tuyến cái mà cho phép điểm truyền báo hiệu gốc
để gửi thông tin tới một điểm báo hiệu gốc qua mạng.

CXXXIV.
CXXXV. Hình 15: Cấu trúc của bản tin MSU
CXXXVI.
Trường cờ (Flag) :

CXXXVII. Các đơn vị báo hiệu có độ dài bản tin không giống nhau, trường cờ để xác định
sự bắt đầu và kết thúc của một đơn vị bản tin. Cờ kết thúc của một đơn vị bản tin này
15


cũng là cờ bắt đầu của bản tin đơn vị kế tiếp. Tập hợp các bít xen giữa hai cờ là chiều
dài toàn bộ bản tin, ngoài ra cờ cũng được sử dụng cho mục đích đồng bộ, mẫu định
dạng duy nhất là 01111110.
CXXXVIII. Để tránh lặp lại giá trị cờ này trong các thành phần khác của MSU, ta sử dụng
quá trình nhồi bít. Mỗi bộ nhồi bít sẽ chèn thêm bít 0 sau 5 bit 1 liên tiếp để loại trừ
trường hợp 6 bít một liên tiếp. phía bên thu sẽ thực hiện quá trình ngược lại, quá trình
này sẽ đếm 5 bít 1 liên tiếp và loại bỏ bít 0 tiếp theo.
CXXXIX.
CXL.
Trường kiểm tra độ dư thừa vòng (CRC):
CXLI.
CXLII. Sử dụng phương pháp kiểm tra CRC 16 bít để kiểm tra, xác định và chỉnh sửa
các lỗi bít trong quá trình truyền tin. Các bít kiểm tra là những bít bổ sung được thêm
vào trong bản tin MSU. Ở phía nhận MTP dựa vào những bít kiểm tra này để xác định
xem các bản tin đựợc truyền có lỗi trên đường truyền hay không. Trên cơ sở đó sẽ có
bản tin trả lời xác nhận thông tin nhận được đúng hay sai.
CXLIII. Khi sử dụng phương pháp kiểm tra kiểu CRC 16bit, cả hai bên phát và bên thu
phải sử dụng chung một đa thức sinh F(x). Trong CRC chuỗi các bít dư thừa gọi là số
dư CRC được bổ sung vào cuối đơn vị dữ liệu sao cho đơn vị dữ liệu mới chia chính
xác cho số nhị phân đã được quy định trước. Ở nơi nhận, đơn vị dữ liệu tới cũng được
đem chia cho cùng một số, nếu phép chia không dư, đơn vị dữ liệu được xem là không
lỗi và sẽ được nhận. Còn nếu có dư, nghĩa là đơn vị dữ liệu đã bị lỗi và không được
nhận. Vì sử dụng trường 16bit nên đa thức sinh (theo chuẩn CRC - ITU) là :
CXLIV.
CXLV.

CXLVI.
Trường miền thông tin báo hiệu(SIF-Signaling Information Field):
CXLVII.
CXLVIII. Chỉ tồn tại trong đơn vị bản tin MSU, chứa các thông tin báo hiệu thực sự của
phần User. Trong trường này gồm cả hai trường con là trường nhãn định tuyến
(Routing Lable) và trường dữ liệu người dùng ở lớp 4. Chiều dài lớn nhất của bản tin là
272 byte, các dạng và cách mã hóa bản tin được định nghĩa một cách độc lập với từng
User.

16


CXLIX.
CL. Hình 16: Cấu trúc của miến SIF và miền SIO
CLI. LSSUs và FISUs không chứa đựng cả một nhãn định tuyến lẫn một SIO khi
họ được gửi trực tiếp giữa hai điểm báo hiệu.
CLII. Nhãn định tuyến là trường địa chỉ 32 bit, chứa 14 bit địa chỉ của node nguồn và
14 bit của địa chỉ node đích, và 4 bit dành cho trường lựa chọn kênh báo hiệu SLS
(Signaling Link Selection) được sử dụng để phân bố lưu lượng trên các tuyến khác
nhau.
CLIII.
CLIV.
Trường SIO ( Service Information Octet):
CLV. Trường SIO có chứa các chỉ thị dịch vụ và chỉ thị mạng. Chỉ thị dịch vụ dùng để
phối hớp với các bản tin báo hiệu với(User TUP, ISUP, DUP, SCCP, SNM, MTNE)
riêng biệt của MTP
CLVI. tại điểm báo hiệu, tức là bản tin đó sẽ được phần nào lớp 4 sử dụng. Chỉ thị
mạng chỉ ra bản tin đó liên quan tới mạng quốc gia hay quốc tế. Một số bít trong trường
dịch vụ phụ không sử dụng mà được dự trữ cho tương lai, hoặc sẵn sàng cho sử dụng
trong nước.

CLVII.
CLVIII.
Trường sửa lỗi EC (Error Correction):
CLIX. Sự sửa chữa, khắc phục lỗi chỉ được thực hiện trên các MSUs. Nó cho phép việc
sửa chữa lỗi giữa hai nút. Trường sửa lỗi, có độ dài 16 bit bao gồm 4 trường chức năng
cùng với cấu hình như sau :

17


CLX.
CLXI. Hình 19: Khuôn dạng của BSN, BIB, FSN và FIB
CLXII. Trường bít chỉ thị hướng thuận (FIB – Forward Indicator Bit) : Được sử dụng
cho thủ tục sử lỗi, biểu thị xem một đơn vị của bản tin báo hiệu được truyền lần đầu hay
truyền lại. trường chỉ thị hướng thuận chỉ bao gồm một bit duy nhất đảm nhiệm chức
năng này.
CLXIII. Trường thứ tự hướng thuận (FSN – Forward Sequence Number) : Mỗi đơn vị
báo hiệu ở ngõ ra được chỉ định và gắn vào một số thứ tự bản tin hướng đi. Ở phía
nhận FSN được dùng để kiểm tra trình tự đúng đắn của đơn vị bản tin báo hiệu, để
chống ảnh hưởng của lỗi đường truyền, các con số thứ tự có giá trị từ 0 đến 127.
Trường FSN chỉ bao gồm bẩy bít.
CLXIV. Trường chỉ thị hướng ngược (BIB – Backward Indicator Bit) : Sử dụng cho
thủ tục sửa lỗi cơ bản, được dùng để yêu cầu truyền lại các đơn vị bản tin được phát
hiện là hư hỏng. Trường này cũng chỉ báo gồm một bit.
CLXV. Trường thứ tự hướng ngược (BSN-Backward Sequence Number) : Chứa các
thông tin trả lời xác nhận trong các thủ tục giám sát, sửa lỗi các bản tin. Số thứ tự của
các bản tin trên đường hướng về cũng có thể sử dụng để trả lời xác nhận cho một trình
tự của các đơn vị báo hiệu.

CLXVI.

CLXVII. Hình 20: Ví dụ về một bản tin nhận chuẩn của MSU
CLXVIII.

18


CLXIX.
CLXX. Hình 21: Ví dụ cho việc yêu cầu truyền lại bản tin khi mất khung MSU
CLXXI. Trường chỉ thị độ dài (LI – Length Indicator):
CLXXII. Trường chỉ thị độ dài được dùng để phân biệt giữa 3 loại đơn vị bản tin. Độ dài
ở đây được tính từ sau trường CK đến trường LI, giá trị của LI là như sau :
• LI = 0 : Bản tin FISU
• LI = 2 : Bản tin LSSU
• LI > 2 : Bản tin MSU
CLXXIII. LI cũng biểu thị độ dài của trường SIF và SIO trong MSU, nếu SIF và SIO dài
hơn 64 bytes thì LI sẽ luôn có giá trị mặc định bằng 63.
CLXXIV.

CLXXV.
CLXXVI. Hình 22: Khuôn dạng của trường chỉ thị độ dài
CLXXVII.
Trường trạng thái (SF – Status Field):
CLXXVIII. Trường trạng thái mang thông tin về trạng thái kênh báo hiệu. Đó là trường 8 bit,
trong đó có 3 bit được sử dụng để hoạt hóa và hồi phục kênh báo hiệu, và để đảm bảo
đồng bộ. Nó được mã hóa để thông báo nếu có một nút bận và tiến hành điều khiển
luồng. Trường này chỉ có trong LSSU dung để chỉ tình trạng của kênh báo hiệu lSSU.
CLXXIX.
19



b) Đơn vị báo hiệu trạng thái kênh (LSSU-Link Status Signal
Unit): Một thành phần sống còn của việc quản lý mạng trên các
đường liên kết là LSSU, cái mà chứa một trường thông tin có một
byte hoặc trường thông tin có hai byte. Những trường này được sử
dụng để xác định trạng thái tổng quan của nơi gửi của các đường
liên kết. LSSU có quyền ưu tiên cao nhất của toàn bộ đơn vị báo
hiệu.

CLXXX.
CLXXXI. Hình 23: Khuôn dạng của một LSSU
CLXXXII. Chỉ ba bít đầu tiên của miền trạng thái được sử dụng, còn lại là các bit Spare.
• Tình trạng OS được gửi khi nào mối liên kết không cái nào
có thể truyền mà cũng không nhận được MSUs. Tình trạng
PO được gửi khi bộ xử lý có liên hệ ra khỏi dịch vụ. Sự tắc
nghẽ ở mức hai thì được chỉ ra băng trạng thái B.Các giá trị
được gán là:

CLXXXIII.
CLXXXV.
CLXXXVI.
CLXXXVII.
CLXXXVIII.
CLXXXIX.
CXC.
CXCI.
CXCII.

I.
III.
V.

VII.
IX.
XI.
XIII.

CBA
000
001
010
011
100
101

CLXXXIV.
II.
IV.
VI.
VIII.
X.
XII.
XIV.

Ý Nghĩa
Mất đồng chỉnh
Bình thường
Trạng thái khẩn
Không hoạt động
Sự cố bộ xử lý
Bận


• Bản tin LSSU cung cấp các chỉ thị trạng thái đường
20


truyền mà nó truyền qua. Có thể liên kết một số trạng thái
đường như : bình thường, không hoạt động, mất tín hiệu
đồng bộ, trạng thái khẩn… Bản tin LSSU được sử dụng
như là một phương tiện được trao đổi giữa các lớp 2 của
MTP qua thông tin giám sát, cũng như khôi phục lại một
kênh báo hiệu có lỗi đã được sửa chữa.
• Sự liên kết : liên kết các đường truyền dẫn báo hiệu là quá
trình xử lý đồng bộ dữ liệu liên kết giữa hai điểm báo hiệu
kết nối trực tiếp. Nó được áp dụng thoạt tiên khi bật nguồn
thời gian và trong suốt thời gian theo sau của một sự thất bại
trong liên kết. Sự sắp hàng là dựa trên sự cưỡng ép trao đổi
của thông tin trạng thái để làm tăng khả năng thực hiện.

CXCIII.
CXCIV. Hình 24: Sơ đồ thể hiện sự thành công sắp xếp của một liên kết
CXCV. Thông thường, thủ tục liên kết thành công được miêu tả theo như hình trên. Một
điểm báo hiệu ban đầu bắt đầu bởi việc gửi LSSU, cái mà được mang trong trạng thái
được chỉ ra ”0” (out of alignment.). Điều này được tiếp tục cho tới khi trạm đích nhận
được một LSSU cùng với hoặc là trạng thái ”0 ” hoặc là trạng thái ”N” (normal
alignment).
CXCVI.
c) Đơn vị tín hiệu chèn ( FISU – Fill In Signal Unit):
CXCVII. Đơn vị tín hiệu chèn được sử dụng như là làm đầy các tín hiệu để chấp nhận
FISU thực hiện như một cái cờ trong mạng SS7, khi không có tải được truyền thì FISU
được gửi vào trong mạng SS7 để nhận các thông báo một cách tức thời về sự cố của
đường báo hiệu, có nghĩa là nó được truyền đi để thay thế MSU và LSSU. Trường

quan trọng nhất của FISU là trường CK (CheckSum) dùng đẻ giám sát lỗi trên kênh
báo hiệu. Ở mạng SS7, để duy trì mức tin cậy cao thì FISU được sử dụng.
3) Cấu Trúc MTP-2:
21


CXCVIII.
CXCIX. Hình 25: Cấu trúc MTP-2
CC. Các phần chính của MTP2 được chỉ ra trong hình trên. LC (Link control) sẽ
điều khiển các chức năng của đơn vị bản tin MTP2. Đầu tiên, nó tương đương phần
truyền của bản tin. LC cũng quản lý sự hoạt động của các đường liên kết. Nó truyền
cùng với chính MTP3, chấp nhận yêu cầu trạng thái đường liên kết (C), và thông báo
lại thông tin trạng thái liên kết cùng với sự chỉ dẫn (I). Cuối cùng, LC truyền cùng với
LC tại điểm cuối của đường liên kết, sử dụng đơn vị báo hiệu trạng thái liên kết.
CCI. MTP3 trong một điểm báo hiệu đặt những bản tin MTP3 đang rời khỏi của nó
trong bộ đệm ra (OB) của các đường báo hiệu liên kết Bộ đệm truyền lại (RB) lưu chữ
những bản tin cái mà được truyền đi. nhưng nó chưa thực sự được xác thực bởi MTP2
ỏ xa.
CCII. Mỗi bản tin để có thể được truyền hoặc truyền lại qua khối xử lý đầu ra (OP Outgoing Processing), và sau đó nhập liên kết dữ liệu báo hiệu như là một MSU. Một
đơn vị nhân tín hiệu nhận từ liên kết dữ liệu báo hiệu được xử lý bởi khối xử lý báo
hiệu đầu vào (IP - Incomming Procesing). Bản tin MTP3 trong MSU cái mà được
nhận bởi khối xử lý báo hiệu đầu vào IP là được đặt trong bộ đệm trong IB (Input
Buffer), và được nhận lại bởi MTP3.
CCIII. Toàn bộ bộ đệm truyền hoạt động theo nguyên tăc là "vào trước, ra trước" một
MTP2 nhận những bản tin lối ra từ bộ đệm ra trong thứ tự tương tự, tại đó chúng được
nhận bởi MTP2. Đây là một trong những yêu cầu tất yếu cho sự phân phối MSU.

22



CCIV.
CCV. Hình 26: Những tham số được thêm và xử lý bởi MTP2.
4) Hoạt động MTP-2:

CCVI. Lớp MTP-2 chứa các chức năng liên kết báo hiệu, chức năng chính bao gồm :
Giới hạn, phát hiện lỗi, đồng bộ. MTP-2 cũng chứa các chức năng điều khiển cho việc
truyền, nhận và điều kiện trạng thái liên kết. Chức năng điều khiển trạng thái liên kết
tương tác với các chức năng lớp 3.
a) Điều khiển luồng (Flow Control):
CCVII. Cả hai kỹ thuật điều khiển luồng và điều khiển lỗi đều dùng kỹ thuật cửa sổ
trượt (Slide Window). Các đơn vị bản tin báo hiệu (MSU) được đánh số một cách tuần
tự theo modul gọi là chỉ số tuần tự hướng đi (FSN). Mỗi MSU mới được gán một số
FSN có gía trị lớn hơn FSN của MSU trước đó một đơn vị. Các đơn vị báo hiệu trạng
thái kênh (FSSN) và đơn vị tín hiệu chèn (FISU) không được đánh số một cách riêng
biệt mà chúng mang các giá trị cùng với FSN của MSU đã được truyền đi trước đó.
CCVIII. Các thông tin trả lời cho MTP2 được đặt trong các tham số BIB và BSN của các
SU (MSU, LSSU, FISU). Các xác nhận có thể khảng định (position acknowleggment)
hay phủ định (negative acknowleggment).
CCIX. Điều khiển luồng được điều khiển bằng cách sử dụng các bản tin LSSU. Khi một
bên không kiểm soát được luồng dữ liệu do bên kia gửi đến, nó liền gửi một bản tin
LSSU với các chỉ báo bận trong trường trạng thái tới các nơi phát. Khi nơi truyền nhận
được thông tin đó nó sẽ ngường việc truyền các MSU lại và khi tình hình trở lại thì nó
gửi lại nơi phát bằng một bản tin LSSU khác. Khi một phía không có dữ liệu để phát nó
sẽ gửi FISN để trả lời.
CCX. Cơ chế này nói chung không được áp dụng cho những mức cao hơn (mức MTP
3). Tuy nhiên nếu tắc nghẽn vẫn tiếp tục kéo dài và không thông báo được cho mức
mạng báo hiệu, thì hoạt động của mức mạng báo hiệu có thể bị ngừng lại. Nếu mức
mạng nhận ra tắc nghẽ thì các gói tin được định tuyến quanh điểm tắc nghẽn.
CCXI. Để giả quyết tình trạng bận dẫn đến tắc nghẽn trên các node có một bộ đếm thời
gian có trách nhiệm điều khiển cho đến khi tình trạng bận chấm dứt. Có ba quy định về

23


thời gian cho ba bộ đếm.
CCXII. Để giả quyết tình trạng bận dẫn đến tắc nghẽn trên các node có một bộ đếm thời
gian có trách nhiệm điều khiển cho đến khi tình trạng bận chấm dứt. có ba quy định về
thời gian cho ba bộ đếm.
• Nếu nơi nhận trở lên quá tải, nó phải gửi một bản tin với thông tin
báo bận để yêu cầu phía phát ngừng lại. Nơi nhận từ chối trả lời MSU
để nó bắt đầu trạng thái điều khiển tắc nghẽ và với tất cả các MSU
nhận được trong trạng thái bận này. Nếu trạng thái quá tải vẫn tiếp tục
tiếp diễn thì tại node nhận phải lặp lại một chỉ báo bận trong khoảng
thời gian T5 (có giá trị trong khoảng 80 – 120 ms, và phía bên
truyền lại tiếp tục ngừng truyền trong khi tình trạng tắc nghẽn vẫn
tiếp diễn.
• Khi tình trạng tắc nghẽn đã giảm bớt tại nơi nhận, nó sẽ thông báo cho
CCXIII. đầu kia được biết rằng việc trả lời khảng định cho các MSU tiếp theo.
• Mặc dù có những thông báo bận trong mỗi đơn vị thời gian T5, một
node sẽ thông báo cho mức mạng là một kênh sẽ ngừng phục vụ (out
of service) sau một khoảng thời gian là T6 (có giá trị trong khoảng 3
đến 6).
b) Điều khiển lỗi:
CCXIV. Có hai phương pháp điều khiển lỗi được dùng trong mạng SS7 là :
• Phương pháp cơ bản (Basic Method) : được áp dụng trong các
tuyến một chiều có độ trễ nhỏ hơn 15s.
• Phương pháp phát lại theo chu kỳ để ngăn chặn lỗi
(Preventative Cyclic Retransmission Methor) được áp dụng trong
các kênh báo hiệu có trễ lớn hơn hoặc bằng 15ms, có thể là những
kênh truyền qua vệ tinh.
CCXV.

CCXVI.
Phương pháp cơ bản:
CCXVII. Phương pháp cơ bản điều khiển lỗi bằng cách sử dụng kỹ thuật go-back-N ARQ.
Phương pháp này sử dụng các bit chỉ bảo trong các đơn vị báo hiệu (SU) để yêu cầu
phía đầu phát truyền lại các đơn vị báo hiệu nhận được bị lỗi. khi một bản tin
MSU được truyền đi, nếu phía đầu xa nhận được không lỗi thì nó trả lại xác nhận
khảng định rằng đã nhận được bản tin mà không lỗi bằng các bit chỉ báo FIB và BIB có
cùng giá trị (0 hoặc 1).

24


CCXVIII.
CCXIX.
CCXX. Hình 27: Ví dụ về sự sửa chữa lỗi cơ bản của MSU gửi bởi MTP2-A. [A] :

MSU được nhận. [D] : MSU bị hủy bỏ.
CCXXI. Nếu bản tin nhận được có lỗi hay bị mất, phía nhận sẽ gửi bản tin phủ định
(negative acknowlegment ) bằng cách đảo giá trị bit BIB. Gía trị của FSN của bản tin
nhận được chính xác cuối cùng sẽ được đặt vào BSN trong bản tin phủ định.
CCXXII. Khi nhận được bản tin đó, phía phát sẽ ngừng truyền các SU mới mà phát lại
các bản tin có trong bộ đệm với FSN lớn hơn BSN nằm trong bản tin n_ack.
CCXXIII.

Phương pháp truyền lại theo chu kỳ ngăn ngừa sai lỗi ( PCR – Preventive
cyclic retransmission):

CCXXIV. Phương pháp truyền lại theo chu kỳ ngăn ngừa sai lỗi (PCR) được thiết kế cho việc
sử dụng trên các đường báo hiệu với thời gian truyền lớn, vị dụ những đương liên kết cái
mà được mang trên các kênh của vệ tinh. khi mà trong phương pháp sửa lỗi cơ bản , FSN

xác định sự có thể của một MSU trong chính chuỗi thông tin gốc của sự truyền, và BSN
luôn luôn xác định đơn vị bản tin báo hiệu được nhận mới nhất. PCR chỉ sử dụng các xác
nhận khảng định (positive acknowledgments). việc xác định các bit FIB và BIB thì được
lờ đi và bộ xử lý đầu vào đơn giản sẽ chấp nhận hoặc loại bỏ một bản tin MSU lỗi dựa
trên giá trị của FSN, cái mà trội hơn FSN của bản tin MSU nhận được gần đây nhất một
đơn vị.
CCXXV. Đây là một kỹ thuật dùng cho tuyến có độ trễ lớn, với các tuyến này thì các đơn
vị bản tin thường tương đối ngắn và kênh truyền có thể ỏ trạng thái rỗi trong phần lớn
25


×