Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

sáng kiến đổi mới phương pháp dạy và học tục ngữ trong trường trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.95 KB, 16 trang )

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
Đổi mới phương pháp dạy và học tục ngữ trong trường Trung học cơ sở
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN:
1. Tên sáng kiến:
Đổi mới phương pháp dạy và học tục ngữ trong trường Trung học cơ sở.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực chuyên môn: Đổi mới phương pháp
dạy và học tục ngữ cho học sinh lớp 7 ở trường Trung học cơ sở.
3. Tác giả:
Họ và tên: Bùi Thị Lan Anh - Nữ
Ngày sinh 13 tháng 06 năm 1978
Trình độ chuyên môn : Đại học
Chức vụ: Giáo viên THCS
Đơn vị công tác: Trường THCS Tân Lập – huyện Vũ Thư – tỉnh Thái Bình
Điện thoại : 0363825165. Email:
4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến : Không
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị : Trường THCS Tân Lập
Địa chỉ : Thôn Việt Phong - Xã Tân Lập – huyện Vũ Thư – tỉnh Thái Bình.
Điện thoại : 0363825165 Email:
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Tháng 9 năm 2015.

1


BÁO CÁO MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
Đổi mới phương pháp dạy và học tục ngữ trong trường Trung học cơ sở.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Lĩnh vực chuyên môn: Đổi mới phương pháp dạy và học tục ngữ cho
học sinh lớp 7 ở trường Trung học cơ sở.


3. Mô tả bản chất của sáng kiến:
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết.
Như chúng ta đã biết sách giáo khoa Ngữ văn mới hiện nay được biên
soạn theo chương trình tích hợp, gắn kết ba phân môn (Văn - Tiếng Việt - Tập
làm văn), vì thế các văn bản được lựa chọn phải vừa tiêu biểu cho các thể loại ở
các thời kì lịch sử văn học, vừa phải đáp ứng tốt cho việc dạy các kiểu văn bản
trong Tiếng Việt và Tập làm văn. Vì vậy sách giáo khoa Ngữ văn 7 hiện nay có
cấu trúc theo kiểu văn bản, lấy các kiểu văn bản làm trục đồng quy. Ở chương
trình Ngữ văn trung học cơ sở các em được học 6 kiểu văn bản: Tự sự, miêu tả,
biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và điều hành. Sáu kiểu văn bản trên được phân
học thành hai vòng ( vòng 1: lớp 6-7; vòng 2: lớp 8-9) theo nguyên tắc đồng tâm
có nâng cao. Ở lớp 7 các em học ba kiểu văn bản: biểu cảm, nghị luận và điều
hành. Trong đó học kì II tập trung cho kiểu văn bản nghị luận. Chính vì vậy mà
sách giáo khoa Ngữ văn 7 đã đưa những tác phẩm nghị luận dân gian đặc biệt
vào chương trình đó là tục ngữ.
Trong những năm gần đây do yêu cầu phải thay đổi cách đánh giá về vai
trò của người học sinh, của tài liệu học tập đòi hỏi người giáo viên không chỉ
quan tâm đến việc dạy cái gì mà còn phải suy nghĩ để xem dạy như thế nào,
không chỉ quan tâm đến mục đích truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải
2


hướng dẫn học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức để từ đó hướng dẫn các em hình
thành những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Để tiến hành được kiểu dạy học lấy học
sinh làm trung tâm thì người thầy giáo phải tiến hành những phương pháp hướng
dẫn học sinh tiếp thu bài học một cách thoải mái, hứng thú chứ không chỉ là
thuyết giảng là trình bày những nhận thức, quan điểm của thày về tác phẩm văn
chương. Phải lấy hoạt động bên trong của người học sinh làm yếu tố quyết định
và phải coi học sinh là chủ thể nhận thức chứ không phải là đối tượng của quá
trình nhận thức. Muốn đạt được những điều đó đòi hỏi người giáo viên phải đổi

mới phương pháp dạy học của mình.
Qua kinh nghiệm thực tế từ các giờ dạy văn của bản thân đặc biệt là các
giờ dạy tục ngữ, qua những tiết đi dự giờ, cũng như tham khảo ý kiến của những
đồng nghiệp tôi thấy các tiết dạy tục ngữ thường khô khan, ít thành công, ít tạo
được sự lôi cuốn, hứng khởi của học sinh trong quá trình lĩnh hội kiến thức, bởi
vì những bài học về tục ngữ thương bị xem là khô khan, là giáo lý (Nhất là
những câu tục ngữ về con người và xã hội). Hoặc coi tục ngữ là dễ hiểu, nhưng
chính vì dễ hiểu nên càng khó dạy. Nhiều bài tục ngữ đọc lên hiểu ngay nên giáo
viên không biết giảng giải cái gì trong đó, học sinh không biết mình phải học cái
gì? Nhiều giáo viên diễn xuôi và giải thích nghĩa thuần túy câu tục ngữ nên đã
đánh mất vẻ đẹp vốn có của những áng văn chương dân gian này. Do vậy nội
dung, tư tưởng, tình cảm của tác phẩm cũng đến với học sinh nửa vời, hời hợt.
Cách thức tiến hành bước tìm hiểu nội dung văn bản của giáo viên đơn điệu và
trùng lặp, thường tuần tự theo các bước tìm hiểu về nội dung về hình thức câu
tục ngữ. Về nội dung thì thường tập trung tìm hiểu về nghĩa đen, nghĩa bóng,
nghĩa rộng và nghĩa hẹp của câu tục ngữ, còn về kiến thức thì thường khai thác
các yếu tố về vần, nhịp điệu, kết cấu và các biện pháp nghệ thuật khác. Việc
hướng dẫn giảng dạy cũng chưa thật tỷ mỉ, thậm chí có giáo viên chỉ cắt một nửa
câu tục ngữ đưa vào giảng mà không để ý đến tính chất nguyên hợp của một tác
3


phẩm văn học dân gian. Hoặc dạy tục ngữ thường đi vào giảng nghĩa là chính,
thậm chí có giáo viên còn yêu cầu học sinh đọc diễn cảm câu tục ngữ sau. Có
những vấn đề tưởng như giản đơn nhưng nhiều học sinh thậm chí cả giáo viên có
khi còn nhầm lẫn tục ngữ với thành ngữ, những câu tục ngữ có hình thức 6/8
thường bị nhầm lẫn với ca dao...
Từ thực tiễn dạy và học tục ngữ nói trên, với mong muốn góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy tục ngữ tôi quyết định lựa chọn vấn đề đổi mới
Phương pháp dạy và học tục ngữ trong trường Trung học cơ sở làm đối tượng

nghiên cứu.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
a. Mục đích của giải pháp:
Nội dung giáo dục ở bậc trung học cơ sở là một nội dung giáo dục toàn
diện, phần lớn là những nội dung có phần ổn định bền vững và một bộ phận
thuộc nội dung giáo dục có tính thời đại. Trong đó môn học ngữ văn được coi là
môn học quan trọng nhất, để thông qua đó giáo dục học sinh về mọi mặt.
Việc dạy môn ngữ văn phải nhằm hình thành cho học sinh những cơ sở ban
đầu về cách nắm bắt kiến thức một cách cơ bản nhất, nó rất quan trọng cho sự
hình thành và phát triển nhân cách người công dân, người lao động trong tương
lai. Chuẩn bị cho các em về các mặt đạo đức, trí tuệ, phẩm chất để tiếp tục học
lên các bậc học cao hơn hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Từ những mục đích giáo dục trên, tục ngữ được đưa vào chương trình sách
giáo khoa ở bậc trung học cơ sở với mục đích góp phần bồi dưỡng tâm hồn, vốn
sống và năng lực văn học cho học sinh, giáo dục cho các em lòng nhân ái, tình
yêu quê hương đất nước, đề cao trí tuệ của con người... từ đó góp phần tích luỹ
vốn văn học, mở rộng vốn sống cho trẻ.

4


Với một số lượng vừa phải, phù hợp với đối tượng học sinh, tục ngữ bao
gồm các các câu nói triết lý được đúc rút từ những kinh nghiệm trong cuộc sống
mang đậm tinh giáo dục như :
+ Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất
+ Tục ngữ về con người và xã hội
Trong thời gian vừa qua bằng việc vận dụng một số đổi mới trong cách
dạy và học tục ngữ cho học sinh lớp 7 tôi thấy rằng kết quả của những giờ học
tục ngữ có hiệu quả hơn hẳn những giờ học mà trước đây chỉ sử dụng các
phương pháp dạy học truyền thống. Những giờ học này học sinh được thực sự

hoạt động chứ không phải chỉ là cái bình chứa kiến thức. Nhờ được trực tiếp
tham gia vào quá trình tiếp nhận văn bản văn chương mà các em phát huy được
những năng lực chủ quan như phân tích, đánh giá, suy luận, khái quát, tưởng
tượng. Không chỉ là người học, học sinh còn là người đồng sáng tạo, học sinh
được chủ động tìm tòi khám phá nội dung văn bản thông qua đó nhằm phát triển
trí tuệ, nhân cách và kỹ năng văn học cho học sinh. Giúp học sinh trau dồi tư
tưởng, tâm hồn trong sáng hơn, có tình yêu đối với nền văn học dân tộc. Như thế
việc đổi mới phương pháp dạy và học tục ngữ là thực sự cần thiết và quan trọng
với công tác giảng dạy môn ngữ văn trong trường THCS.
b. Nội dung giải pháp:
Khi hướng dẫn học sinh tiếp cận có nâng cao mảng Văn học dân gian Việt
Nam ở chương trình ngữ văn 7. Vấn đề đổi mới Phương pháp dạy và học tục
ngữ trong trường Trung học cơ sở là vấn đề đặc biệt quan trọng. Vậy làm sao
để thành công khi giảng dạy thể loại này, giúp học sinh hiểu đúng, hiểu sâu,
hiểu để vận dụng tục ngữ vào lời ăn tiếng nói hàng ngày theo tôi cần làm tốt một
số vấn đề sau:

5


I. YÊU CẦU CƠ BẢN VỚI GIÁO VIÊN :

Xuất phát từ những mục đích giáo dục và bồi dưỡng kiến thức, kinh
nghiệm cho học sinh thông qua giảng dạy về tục ngữ. Để có thể thành công
trong giảng dạy người giáo viên phải nắm vững đặc điểm của tục ngữ để định
hướng học sinh khai thác phân tích theo thi pháp thể loại:
1, Để dạy tục ngữ được tốt trước hết người giáo viên cần phải nắm thật
chắc khái niệm về tục ngữ: “ Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn
định có nhịp điệu, hình ảnh thể hiện những kỹ năng của nội dung về mọi mặt (Tự
nhiên, lao động sản xuất, xã hội) được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy

nghĩ và lời ăn tiếng nói hằng ngày”. Đây là một thể loại văn học dân gian
(Tục: Thói quen có từ lâu đời và được mọi người công nhận, ngữ: Lời nói)SGK-NV7 tập II trang 3,4.
Từ quan niệm trên về tục ngữ ta nhận thấy tục ngữ là những câu nói dân
gian ngắn gọn có cấu trúc cân đối, nó thiên về trí tuệ và nhận định cuộc đời. Đó
là một phán đoán đã được đúc kết từ trong cuộc sống hàng ngày và đã được vận
dụng trong lời ăn tiếng nói cũng như trong đời sống sinh hoạt xã hội của quần
chúng nhân dân. Tục ngữ là một hiện tượng văn hoá đa diện, đa dạng. Tục ngữ là
một hiện tượng ngôn ngữ, hiện tượng của tư duy và hiện tượng của văn học dân
gian. Điều này giải thích vì sao sự diễn đạt của tục ngữ đã hấp dẫn, lôi cuốn các
nhà ngôn ngữ, các triết gia và các nhà văn hoá dân gian. Điều đó cũng có nghĩa
là tục ngữ, từ lâu đã được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhác nhau và ở góc độ
nào cũng đem đến cho chúng ta những điều thú vị. Tục ngữ có kiểu xây dựng
hình tượng trên tình huống cụ thể nhưng trở thành hình thức xã hội của thông tin
tư tưởng, điều này lý giải được sự hàm súc của cảm xúc và tư tưởng trong tục
ngữ. Tuy tục ngữ có cấu trúc ngắn gọn, thậm chí chỉ vẻn vẹn có bốn từ (Tấc đất,

6


tấc vàng) song tục ngữ cũng được xem như là một tác phẩm thu nhỏ. M.Gorxki
đã nói một cách rất hình ảnh:
“ Nói một cách chung, tục ngữ biểu hiện một cách gương mẫu kinh
nghiệm đã sống, kinh nghiệm xã hội, lịch sử của người lao động. Nhà văn rất
cần làm quen với tài liệu này. Nó sẽ dạy cho nhà văn cách thu gọn tiếng như một
người nắm ngón tay để thành quả đấm” (Tôi học viết văn như thế nào - 1934).
2, Phân biệt tục ngữ với các thể loại dân gian khác:
Bên cạnh đó để tránh cho học sinh có sự nhầm lẫn về thể loại giữa tục ngữ
- thành ngữ, tục ngữ - ca dao, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách nhận
biết và phân biệt tục ngữ với các thể loại này.
Thực chất mỗi câu tục ngữ là một châm ngôn như tóm tắt một tác phẩm một tác phẩm thu nhỏ, là một câu nói diễn đạt một ý trọn vẹn. Câu tục ngữ có

đặc điểm là ngắn gọn hàm xúc, kết cấu bền vững. Theo L. Ô-dê-rốp, trong “ Sự
tiết kiệm trong nghề thơ, Tác phẩm mới, số12,1971” thì “ Tục ngữ có bao nhiêu
là ý nghĩa, bao nhiêu hiện tượng phong phú...và tất cả bao nhiêu thứ đó được
trồng trên một diện tích ngôn ngữ nhỏ hẹp làm sao”.
Còn thành ngữ là một tập hợp từ, có kết cấu tương đối bền chặt theo
truyền thống ngôn ngữ của một dân tộc, diễn tả một khái niệm tương đương như
một từ. Ví dụ thành ngữ “Đầu tắt mặt tối” tương đương với từ: Bận mải;
“ Cao như sếu” tương đương từ : cao ...
Giữa tục ngữ với ca dao thì tục ngữ thiên về trí tuệ, kinh nghiệm, nhận
định cuộc đời. Còn ca dao thiên về tình cảm và biểu hiện lòng người . Ca dao là
phần lời của những bài hát dân gian còn tục ngữ dùng để nói và viết. Tuy nhiên
ta vẫn thường gặp những câu tục ngữ có hình thức gần với hình thức của ca dao
6/8.

7


Ví dụ:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Do đó khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu tục ngữ giáo viên phải đặc biệt lưu ý
điều này.
II- PHƯƠNG PHÁP DẠY TỤC NGỮ:

Giáo sư Đỗ Bình Trị cho rằng: Dù khai thác tác phẩm dưới góc độ của
bất cứ môn khoa học nào nhất là khai thác về mặt nội dung người ta vẫn cần rút
ra những nội dung ý nghĩa thích hợp thông qua một sự giải mã nó theo cách tiếp
cận tác phẩm nghệ thuật (Phân tích tác phẩm văn học dân gian - nhà xuất bản
giáo dục 1992).
Tục ngữ thường dùng để nói và viết chứ không phải để làm lời hát như ca

dao do đó nó dễ thuộc dễ nhớ về những tính cân đối, gọn và cô đúc đến mức
không thể gọn hơn được nữa. Vì vậy dạy và học tục ngữ là để giúp cho học sinh
hiểu sâu sắc thêm, nhận thức thêm nhiều vấn đề tri thức kinh nghiệm, đời sống
xã hội, gia đình, bè bạn và con người nói chung, về những quy luật tâm lý tình
cảm. Xét ở mục đích khác thì việc nhận thức đầu tiên là giúp cho học sinh sống
hoàn thiện mình hơn, trong thực tiễn cuộc sống những người nói giỏi viết hay
đều phải hiểu tục ngữ.
Khác với giờ dạy ca dao hay các tác phẩm trữ tình, trong giờ dạy tục ngữ
người giáo viên gây tình huống bằng sự thuyết phục của trí tuệ và sự vỡ nổ trong
lý trí chứ không phải bằng cảm xúc.
Thực tế từ thực nghiệm của bản thân qua các giờ dạy tục ngữ tôi thấy để
dẫn dắt học sinh vào bài học tự nhiên nên có những hình thức đặc biệt, chẳng
hạn tận dụng những bức thư, những tác phẩm sử dụng tục ngữ thành công hay
8


những tình huống giao tiếp ngoài đời vận dụng thành thạo tục ngữ để vào bài gây
tình huống hoặc từ định nghĩa tục ngữ để phân biệt với ca dao trước khi vào
phân tích.
Khi phân tích tục ngữ người giáo viên cần hướng dẫn học sinh phát hiện
từ nhiều phía. Trong “ Tục ngữ Việt Nam” khi đề cập về nghĩa của tục ngữ. Chu
Xuân Diên viết “ Một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa
bóng”. Nghĩa đen cần được khai thác trước, nghĩa đen thường gắn với hình ảnh
mà tác giả dân gian sử dụng. Sau nghĩa bóng thường là phần hồn, phần tư tưởng
mà câu tục ngữ hướng tới. Nghĩa hẹp của câu tục ngữ thường dẫn tới ảnh hưởng
tư tưởng của câu tục ngữ trong phạm vi chuyên môn cụ thể hay phạm vi đời sống
hẹp, còn nghĩa rộng chính là tính chất triết lý khái quát cuối cùng được nâng lên
ở mức cao nhất trong phạm vi rộng. Khi phân tích câu tục ngữ: “ Học ăn, học
nói, học gói, học mở” nghĩa đen của vế 3 và 4 trong câu tục ngữ này được bắt
nguồn từ câu chuyện về một số gia đình giàu sang ở Hà Nội ngày xưa thường gói

nước chấm vào lá chuối xanh đặt vào cái chén xinh bầy lên mâm. Lá chuối tươi
giòn dễ gãy, rách nên đòi hỏi cả người gói và người mở phải hết sức khéo léo.
Bởi người gói có khéo tay thì mới gói được còn người mở cũng phải hết sức cẩn
thận thì mới không làm cho nước chấm bắn tung toé vào những người xung
quanh. Biết gói biết mở trong trường hợp này được coi là một tiêu chuẩn của con
người khéo tay lịch thiệp. Suy rộng ra học gói học mở có thể hiểu là mỗi con
người đều phải biết tự học hỏi rèn luyện để mọi hành vi ứng xử của mình đều
chứng tỏ là người lịch sự, tế nhị có văn hoá thành thạo trong công việc và biết
đối nhân xử thế.
Trong quá trình giảng dạy người giáo viên cũng cần phải chú ý một điều
rằng tục ngữ biểu hiện kinh nghiệm và tâm hồn của nhân dân. Nó có ý nghĩa rất
sâu sắc tuy nhiên tục ngữ cũng có khi không hoàn toàn đúng bởi vì nó mang tính

9


kinh nghiệm và chủ yếu là kết quả của kinh nghiệm. Mà sự khái quát chân lý dựa
vào kinh nghiệm thì dù phong phú đến đâu cũng chưa thể toàn diện, khoa học và
chuẩn xác được. Điều này sẽ giúp người giáo viên chủ động trong việc xử lý các
tình huống sư phạm nếu như có những học sinh đưa ra ý kiến phản bác. Chẳng
hạn trên thực tế có khi “ Mau sao ”mà trời vẫn không nắng hoặc “ Vắng sao ”mà
trời vẫn không mưa.
Đối với những câu tục ngữ đúc kết kinh nghiệm về con người và xã hội
giáo viên cũng cần chú ý phát hiện thêm những yếu tố mới phát sinh hoặc không
phù hợp. Ví dụ câu tục ngữ: “ Chưa học bò chớ lo học chạy” câu này ý nói: Học
phải đi từ thấp đến cao, từ dễ đến khó, không thể học tắt, tức là ta mới chỉ
nghiêng về nghĩa hẹp trong khi đó nghĩa rộng của nó có lúc không còn đúng nữa.
trong thực tế trên cơ sở những hệ thống tuần tự có những lúc người ta phải biết
đi đường tắt trước một thời đại bão táp của thông tin và khoa học để rút ngắn sự
tổn thất về thời gian cũng như trên thực tế có không ít những đứa trẻ trốn bò.

Tục ngữ đôi khi còn có những cấu trúc cân đối mở buộc người dạy và
người học phải suy nghĩ. Chẳng hạn câu tục ngữ “ Thuốc đắng dã tật, sự thật
mất lòng”. Nếu chỉ căn cứ vào sự đăng đối của câu chữ thì chúng ta chỉ thấy rằng
thuốc đắng thì giã tật, sự thật tất yếu phải đau xót dẫn tới sự tổn thương. Nhưng
nếu người dạy nhìn câu tục ngữ này với góc độ “ Cấu trúc cân đối mở ” thì cái
vế thứ 2 chưa được nêu ra:
Thuốc đắng giã tật
Sự thật mất lòng...?
Sự thật mất lòng thì chỉ là vế tương đương với thuốc đắng từ đó chúng ta
thấy câu tục ngữ còn chuyển tải biết bao thông tin trí tuệ.

10


Khi dạy tục ngữ người dạy cũng nên lấy cả tiêu chí hiện đại mà nhìn và
phân tích nó để dễ khai thác, bài dạy không bị lạc hậu. Trường hợp câu tục ngữ
“ Tấc đất tấc vàng ” tư tưởng của câu tục ngữ này là cách nhìn của người lao
động cụ thể là người làm ruộng đối với đất đó là thái độ quý đất của người sống
nhờ đất và biết làm cho đất nuôi sống con người bằng chính lao động của mình.
Đồng thời cũng biết đặt nó bên cạnh những câu tục ngữ khác như “ Một mặt
người bằng mười mặt của” hay “ Người là vàng của là ngãi”.
Bí quyết thành công của một giờ dạy tục ngữ còn ở chỗ người dạy phải
biết so sánh câu tục ngữ đó với những câu ngược nghĩa, trái nghĩa hay đồng
nghĩa để tìm ra các nghĩa của nó. Ví dụ khi dạy câu tục ngữ “ Học ăn học nói,
học gói học mở ” các em sẽ tìm được rất nhiều câu như thế:
- Ăn trong nồi, ngồi trông hướng.
- Ăn chẳng nên đọi, nói chẳng nên lời.
- Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa.
- Ăn như thuyền chở mã, làm như ả chơi trăng.
- Lời nói gói vàng.

- Lời nói đọi máu.
- Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
...
Hoặc cho học sinh tìm những truyện ngụ ngôn có bài học tư tưởng giống
câu tục ngữ. Câu chuyện lão nông dặn các con đào vàng ngoài vườn trước khi
chết đấy chẳng phải là: “ Tấc đất tấc vàng ” hay sao?
Để tạo một không khí sôi nổi, cuốn hút học sinh trong giờ học tục ngữ,
giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thi sử dụng, vận dụng tục ngữ vào trong
11


những tình huống giao tiếp cụ thể hay cho các em thi sáng tác những truyện ngụ
ngôn, truyện cười từ những câu tục ngữ đây chính là những biện pháp hữu hiệu
làm cho giờ học tục ngữ trở nên sinh động và có hiệu quả hơn. Từ câu tục ngữ “
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” có rất nhiều học sinh sáng tác được
những câu chuyện khá hấp dẫn và dí dỏm về một anh chàng ngốc đi học khôn.
Trong phần củng cố bài học giáo viên cũng có thể thay đổi hình thức luyện tập
bằng trò chơi Xem tranh đoán tục ngữ. Hình thức luyện tập này vừa có tác dụng
thay đổi không khí giờ học vừa làm cho giờ dạy tục ngữ đỡ khô khan, đơn điệu,
tạo hứng thú cho học sinh hăng say học tập.
Bên cạnh đó cần hướng dẫn học sinh phát hiện các yếu tố nghệ thuật đặc
trưng của tác phẩm ( nghĩa là phát hiện các yếu tố thi pháp thể loại có trong tác
phẩm). Tục ngữ là cách nói ví von, đầy hình tượng dù chỉ là hình tượng ngôn
ngữ, hình tượng của tư duy lý trí. Nhưng được tạo ra bằng nhiều biện pháp nghệ
thuật khác nhau như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa...Nhờ thế mà tục ngữ lời ít ý nhiều,
tục ngữ mang tính đa nghĩa và trong giao tiếp vận dụng tục ngữ vào lời ăn tiếng
nói sẽ làm tăng hiệu quả giao tiếp, sẽ làm tăng tính hàm súc của lời văn. Dạy tục
ngữ phải giải thích nghĩa từ ngữ, tìm nghĩa đen rồi mới đi vào phân tích, bình
luận. Khi làm rõ được khái niệm dùng trong tục ngữ, ta đi vào tìm hiểu tính chất,
mối quan hệ được thể hiện ở hình thức kết cấu cụ thể của câu tục ngữ và từ các

biểu thị quan hệ lôgic giữa các vế từ đó suy ra hàm nghĩa của phán đoán.
Trong một tiết dạy người giáo viên cũng không nên phân tích nhiều câu
tục ngữ quá bởi vì trong một lượng thời gian 45 phút mà phân tích tới 8-9 câu
tục ngữ là không thể dạy nổi. Giáo viên chỉ nên chọn và phân tích ở mỗi nhóm
một đến hai câu tục ngữ tiêu biểu hoặc khó hiểu đối với học sinh, những câu tục
ngữ còn lại có thể giao cho học sinh trao đổi, thảo luận theo các nhóm học tập.

12


3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Từ thực tiễn áp dụng các giải pháp đổi mới phương pháp nhằm nâng cao
hiệu quả trong giảng dạy tục ngữ ở trường trung học cơ sở. Trong thời gian vừa
qua bằng việc vận dụng một số đổi mới trong cách dạy và học tục ngữ cho học
sinh lớp 7 tôi thấy rằng kết quả của những giờ học tục ngữ có hiệu quả hơn hẳn
những giờ học mà trước đây chỉ sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống.
Những giờ học này học sinh được thực sự hoạt động chứ không phải chỉ là cái
bình chứa kiến thức. Nhờ được trực tiếp tham gia vào quá trình tiếp nhận văn
bản văn chương mà các em phát huy được những năng lực chủ quan như phân
tích, đánh giá, suy luận, khái quát, tưởng tượng. Không chỉ là người học, học
sinh còn là người đồng sáng tạo, học sinh được chủ động tìm tòi khám phá nội
dung văn bản thông qua đó nhằm phát triển trí tuệ, nhân cách và kỹ năng văn học
cho bản thân.
Từ thực tiễn tôi và các đồng nghiệp đã áp dụng trong giảng dạy thể loại
tục ngữ ở môn ngữ văn lớp 7 đạt được hiệu quả cao. Thiết nghĩ phương pháp đổi
mới dạy và học tục ngữ trong đề tài sáng kiến này cần được nhân rộng ở việc
giảng dạy ngữ văn trong các nhà trường THCS. Tuy nhiên nó vẫn đòi hỏi sự cố
gắng nỗ lực của giáo viên làm công tác giảng dạy và đòi hỏi người học phải biết
vận dụng linh hoạt, sáng tạo phù hợp với điều kiện đời sống.
3.4- Hiệu quả lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải

pháp.
-

Sau thời gian thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học tục ngữ cho học

sinh lớp 7 tôi đạt được những kết quả cụ thể như sau:
- Về mặt lí luận: Thực hiện nghiên cứu về thể loại tục ngữ bản thân tôi
muốn góp thêm tiếng nói, quan điểm của mình về phương pháp giảng dạy mảng
văn học dân gian nói chung, tục ngữ nói riêng. Giúp bản thân và đồng nghiệp
13


vận dụng các phương pháp soạn giảng phù hợp, phát huy được tính tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh.
- Về mặt thực tiễn :
+ Đối với giáo viên: Để nghiên cứu giảng dạy tục ngữ thành công giáo
viên không thể không tìm tòi nghiên cứu, học hỏi, tích lũy kiến thức cơ bản cho
bản thân. Bên cạnh đó là công tác chuẩn bị bài chu đáo, đầu tư bài dạy, tích hợp
với các phân môn khác như địa lí, giáo dục công dân... đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục.
+ Đối với học sinh: Từ những mục đích giáo dục trên, tục ngữ được đưa
vào chương trình sách giáo khoa ngữ văn 7 với mục đích góp phần bồi dưỡng
tâm hồn, vốn sống và năng lực văn học cho học sinh, giáo dục cho các em lòng
nhân ái, tình yêu quê hương đất nước, đề cao trí tuệ của con người, từ đó góp
phần tích luỹ vốn văn học, mở rộng vốn sống cho trẻ.
Học sinh có thể vận dụng tục ngữ trong học tập ngữ văn, cũng như vận
dụng vào lời ăn tiếng nói hàng ngày một cách linh hoạt.
Qua việc sử dụng tục ngữ và kết hợp với những phương pháp dạy
học phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Tôi nhận thấy rằng học
sinh nắm bắt bài học tốt hơn, hứng thú, say sưa học tập hơn, bài học sinh

động và kiến thức bài học gần gũi với sự hiểu biết của học sinh hơn. Kết
quả so với năm học trước cao hơn, số học sinh hiểu bài, tiếp thu bài học tốt hơn.
Về mặt kinh tế do sáng kiến này mang lại: Kinh phí chi cho sáng kiến
này không nhiều; chủ yếu đầu tư tư liệu tham khảo, nghiên cứu sáng kiến.
Về mặt xã hội do sáng kiến mang lại:
1- Sáng kiến nêu được vai trò quan trọng của giáo viên dạy môn văn học –
nhân học trong nhà trường THCS.
14


2- Sáng kiến đã tìm được các giải pháp phù hợp có hiệu quả trong giảng dạy tục
ngữ.
3- Sáng kiến áp dụng đã khơi dậy sự tìm tòi, sáng tạo, đầu tư tâm – trí – lực của
giáo viên trong giảng dạy bồi đắp tâm hồn trong sáng của học sinh.
Trên đây là sáng kiến tôi đã và đang áp dụng tại trường THCS Tân Lập
trong suốt thời gian qua đến nay. Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định
trong giảng dạy, song tôi thấy mình còn phải học hỏi nhiều hơn nữa để có tri
thức, kinh nghiệm trong nghề dạy học của mình. Với những kinh nghiệm ít ỏi
này, tôi rất mong được sự bổ sung, giúp đỡ tận tình của các bạn bè đồng nghiệp,
của các đồng chí lãnh đạo... để vấn đề nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
3.5 Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu: (Đội ngũ giáo
viên dạy môn ngữ văn trường THCS Tân Lập)
3.6 Các thông tin cần được bảo mật : (Không có)
3.7 Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Về trình độ chuyên môn: Tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm trở lên.
Về cơ sở vật chất: Bao gồm Tư liệu về văn học dân gian, tục ngữ, ca dao Việt
Nam.
3.8 Tài liệu kèm ( Không có)
4. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền
Tôi xin cam kết những nội dung trình bày trong sáng kiến là những suy

nghĩ và việc làm của tôi và đã áp dụng vào trong thực tế tại trường THCS Tân
Lập trong thời gian qua.

15


CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN

Thái Bình, ngày 10 tháng 4 năm 2016
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

(Xác nhận)
(Kí tên, đóng dấu)
Bùi Thị Lan Anh

16



×